KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ THUẾ CỦA DOANH
Khái ni ệm nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do, thu hút đầu tư nước ngoài đáng kể Xu hướng Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra nhiều cơ hội cho các lĩnh vực mới như kinh tế kỹ thuật số, trí thông minh nhân tạo (AI), công nghệ tài chính (Fintech) và công nghệ thực tế ảo (VR) Kinh tế kỹ thuật số, đặc biệt là kinh tế chia sẻ (KTCS) dựa trên nền tảng công nghệ, đang thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ doanh nghiệp, người tiêu dùng và các chính phủ trên toàn cầu.
Mô hình kinh tế chia sẻ (KTCS) đã có sự bùng nổ mạnh mẽ trong những năm gần đây, nhờ vào sự phát triển của công nghệ Xuất phát từ hình thức chia sẻ tài nguyên ngang hàng tại Mỹ vào những năm 90, chủ nghĩa tiêu dùng cộng tác đã dần thay thế tiêu dùng sở hữu truyền thống Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối trong lĩnh vực KTCS đang ngày càng phổ biến tại Việt Nam, tạo ra nhu cầu cần làm rõ khái niệm và quy chế để quản lý hiệu quả loại hình kinh doanh này.
Kinh tế chia sẻ, còn được biết đến với các tên gọi như kinh tế hợp tác, tiêu dùng cộng tác, hay kinh tế ngang hàng, là một mô hình kinh doanh mà các hoạt động được hỗ trợ bởi các nền tảng cộng tác Theo Ủy ban châu Âu, kinh tế hợp tác tạo ra thị trường mở cho việc sử dụng tạm thời hàng hóa hoặc dịch vụ do cá nhân cung cấp, thường không thay đổi quyền sở hữu Mô hình này có thể mang tính chất lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, với các nhà cung cấp dịch vụ chia sẻ tài sản, tài nguyên, thời gian và kỹ năng của họ.
Theo Nghị quyết của Nghị viện châu Âu năm 2015, "nền kinh tế chia sẻ" hay "tiêu dùng hợp tác" được định nghĩa là một mô hình kinh tế xã hội mới, phát triển nhờ vào cuộc cách mạng công nghệ Mô hình này kết nối người dùng qua các nền tảng trực tuyến một cách an toàn và minh bạch.
Theo Báo cáo của Vụ Kinh tế Tổng hợp – Ban Kinh tế Trung ương, "kinh tế chia sẻ" là mô hình thị trường kết hợp giữa sở hữu và chia sẻ, nhấn mạnh vai trò của mạng lưới ngang hàng (peer-to-peer) Mô hình này cho phép các bên tham gia chia sẻ quyền sử dụng hàng hóa và dịch vụ, từ đó gia tăng lợi ích cho tất cả các bên liên quan.
Mô hình kinh tế chia sẻ (KTCS) đang được nhiều cơ quan, tổ chức và nhà nghiên cứu đưa ra với nhiều khái niệm khác nhau Tại Việt Nam, mô hình KTCS được hiểu là một hình thức kinh doanh mới dựa trên việc trao đổi ngang hàng, tận dụng công nghệ số để tiết kiệm chi phí giao dịch và tiếp cận lượng khách hàng lớn qua không gian mạng.
Nhiều lĩnh vực kinh doanh của kinh tế chia sẻ (KTCS) đang phát triển mạnh mẽ trên thị trường, bao gồm cả yếu tố vốn và lao động, cũng như thị trường sản phẩm với hàng hóa và dịch vụ Những lĩnh vực này không chỉ mang lại lợi nhuận khổng lồ mà còn có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế toàn cầu Trong số đó, dịch vụ vận tải là một trong những ngành nghề nổi bật nhất.
Mô hình kinh tế chia sẻ mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng đặt ra không ít thách thức cho các nhà quản lý Bài viết của Nguyễn Mạnh Hải và Nguyễn Hoàng Anh (2018) trên Tạp chí Tài chính số 692 đã phân tích sâu về vấn đề này.
Dịch vụ du lịch và khách sạn; Dịch vụ bán lẻ; Dịch vụ lao động và việc làm; Dịch vụ tài chính
Doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức hoạt động kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân, với mục tiêu kiếm lời trong một hoặc nhiều ngành Nó có thể là một công ty hoặc nhóm người với mục đích cụ thể, được tổ chức để thực hiện các hoạt động kinh doanh, có thể hoạt động độc lập hoặc hợp tác với nhau.
Trong lĩnh vực luật học, doanh nghiệp được định nghĩa tại Khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 là tổ chức có tên riêng, tài sản, trụ sở giao dịch và được đăng ký theo quy định pháp luật nhằm mục đích kinh doanh Khái niệm này khác với những thuật ngữ thông dụng như “tổ chức” hay những khái niệm pháp lý chặt chẽ như “pháp nhân”, và thường chỉ xuất hiện hạn chế trong các văn bản luật có phạm vi phổ quát.
Trong lĩnh vực pháp luật thuế, thuật ngữ “doanh nghiệp” không được sử dụng phổ biến như “tổ chức” Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 (sửa đổi, bổ sung 2013, 2014), tại Khoản 1 Điều 2, Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật, bao gồm doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị sự nghiệp Điều này cho thấy rằng đối tượng nộp thuế theo Luật này không chỉ giới hạn ở doanh nghiệp mà còn bao hàm các tổ chức nói chung.
Theo GTGT 2008 (sửa đổi, bổ sung 2016) và Nghị định 139/2016/NĐ-CP, người nộp lệ phí môn bài được xác định là “tổ chức” sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu Việc sử dụng thuật ngữ “tổ chức” thay vì “doanh nghiệp” là hợp lý, vì thuế này đánh vào hành vi cụ thể của người nộp thuế, từ đó phản ánh rõ hơn khía cạnh tiếp cận phạm trù thuế.
Trong các văn bản pháp luật về thuế, khái niệm "doanh nghiệp" chỉ được nhắc đến như một trong những chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế, đồng thời liên quan đến định nghĩa trong Luật Doanh nghiệp.
2 Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin, năm 1999
3 Theo The Law Dictionary - Featuring Black's Law Dictionary Free Online Legal Dictionary 2nd Ed
Tính đến giữa năm 2020, cơ sở pháp lý cho các chủ thể trong nền kinh tế chia sẻ tại Việt Nam vẫn đang trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện, dẫn đến việc tính hợp pháp trong hoạt động của chúng chưa được đảm bảo Do đó, tác giả chỉ tập trung vào việc định danh dựa trên lý luận và thực tiễn, và sẽ cập nhật thông tin về cơ sở pháp lý khi có sự tiến triển trong việc luật hóa vấn đề này.
Trong xu hướng kinh tế chia sẻ, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối đóng vai trò quan trọng trong chuỗi hoạt động kinh tế Tại Việt Nam, thuật ngữ “Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối” chưa được công nhận chính thức, do còn nhiều quan điểm khác nhau từ các nhà nghiên cứu Họ thường chỉ tập trung vào một lĩnh vực cụ thể hoặc một doanh nghiệp nhất định, mà chưa xây dựng được một thuật ngữ pháp lý thống nhất để mô tả loại hình doanh nghiệp này.
Các y ếu tố nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại
1.2.1 Đăng ký thuế Đăng ký thuế được hiểu là việc người nộp thuế kê khai những thông tin của người nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế để bắt đầu thực hiện nghĩa vụ về thuế với Nhà nước theo các quy định của pháp luật 12
Đăng ký thuế là nghĩa vụ bắt buộc đầu tiên của doanh nghiệp, giúp thực hiện các nghĩa vụ thuế tiếp theo như khai thuế và nộp thuế Khi hoàn thành nghĩa vụ này, doanh nghiệp sẽ nhận mã số thuế từ cơ quan quản lý thuế Mã số thuế không chỉ giúp doanh nghiệp thực hiện các hành vi liên quan đến thuế mà còn bảo vệ họ khỏi việc vi phạm pháp luật quản lý thuế, tránh được chế tài hành chính Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay cũng sẽ được cấp mã số thuế để thực hiện nghĩa vụ khai và nộp thuế Quy định này tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho trách nhiệm của những người khấu trừ và nộp thuế thay, đặc biệt trong trường hợp liên kết với doanh nghiệp nhà nước không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
So với Luật quản lý thuế 2006, Luật quản lý thuế 2019 đã bổ sung quy định về việc cấp mã số thuế phụ thuộc cho người nộp thuế có chi nhánh, văn phòng đại diện, và đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp nước ngoài không có trụ sở tại Việt Nam, cụ thể tại điểm a Khoản 3 Điều 30.
Giáo trình Luật thuế, do TS Nguyễn Thị Thủy chủ biên, được tái bản và bổ sung bởi Trường Đại học Luật TP.HCM vào năm 2018, xuất bản bởi NXB Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam, cung cấp những kiến thức quan trọng về luật thuế, góp phần nâng cao hiểu biết cho sinh viên và những người làm trong lĩnh vực pháp luật.
13 Khoản 1 Điều 30 Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019
Theo Luật Quản lý thuế 2019, thủ tục đăng ký thuế bao gồm các bước quan trọng như đăng ký thuế lần đầu, thông báo thay đổi thông tin đăng ký thuế, thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh, chấm dứt hiệu lực mã số thuế và khôi phục mã số thuế.
Doanh nghiệp cần thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế trong thời hạn pháp luật quy định, cụ thể là 10 ngày làm việc kể từ khi được cấp giấy chứng nhận hoạt động hoặc giấy phép thành lập, hoặc khi phát sinh trách nhiệm khấu trừ thuế và nộp thuế thay Việc không tuân thủ thời hạn này sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật về thuế.
Khi thành lập, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối cần thực hiện đăng ký thuế lần đầu Hồ sơ đăng ký thuế bao gồm tờ khai đăng ký thuế, bản sao giấy phép thành lập và hoạt động, quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc giấy tờ tương đương Người nộp thuế sẽ nộp bộ hồ sơ này cho cơ quan quản lý thuế Doanh nghiệp tự thực hiện nghĩa vụ thuế cần đăng ký thuế tại cơ quan thuế nơi có trụ sở chính, trong khi người nộp thuế có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay sẽ đăng ký tại cơ quan thuế quản lý trực tiếp.
Doanh nghiệp khi đăng ký thành lập cần thực hiện đăng ký thuế trong cùng thời hạn với giấy phép thành lập Nếu đăng ký trực tiếp tại cơ quan thuế, doanh nghiệp phải hoàn tất nghĩa vụ này trong vòng 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận giấy phép hoạt động hoặc khi phát sinh trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế Việc cơ quan quản lý tiếp nhận đăng ký thuế cùng lúc với đăng ký doanh nghiệp đã được xem là một cải cách hành chính quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thiết lập các điều kiện pháp lý ban đầu để nhanh chóng hoạt động Thời hạn 10 ngày cũng được coi là hợp lý, giúp người nộp thuế có thời gian tìm hiểu và thực hiện đăng ký thuế theo hợp đồng thỏa thuận với cơ quan quản lý.
14 Kho ản 2 Điều 33, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối có thể nhận chứng nhận đăng ký thuế trong vòng 03 ngày làm việc sau khi nộp đủ hồ sơ cho cơ quan thuế Đối với các đối tác Việt Nam thực hiện khấu trừ và nộp thuế thay cho người nước ngoài, cơ quan thuế sẽ thông báo mã số thuế thay vì cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế.
Người nộp thuế cần ghi mã số thuế vào hóa đơn và chứng từ trong các giao dịch kinh doanh Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối trên nền tảng số, khi ký hợp đồng điện tử với khách hàng, họ phải gửi hóa đơn điện tử có mã số thuế đến cơ quan thuế theo quy định của Bộ Tài chính Ngoài ra, mã số thuế cũng phải được cung cấp khi mở tài khoản tại ngân hàng, trong các thủ tục khai thuế, nộp thuế, miễn giảm thuế, hoàn thuế, và thực hiện các giao dịch thuế khác, bao gồm cả khi doanh nghiệp hoạt động ở nhiều địa bàn khác nhau.
Khi bên Việt Nam thanh toán cho doanh nghiệp hoặc tổ chức có hoạt động kinh doanh xuyên biên giới qua nền tảng trung gian kỹ thuật số mà không có hiện diện thương mại tại Việt Nam, cần sử dụng mã số thuế đã được cấp cho doanh nghiệp hoặc tổ chức đó để thực hiện việc khấu trừ và nộp thuế thay.
1.2.2 Khai thuế và nộp hồ sơ thuế
Khai thuế là quá trình mà người nộp thuế điền thông tin vào tờ khai theo mẫu quy định của cơ quan có thẩm quyền Mục đích của việc này là xác định số thuế mà người nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ trong kỳ tính thuế hoặc mỗi khi phát sinh nghĩa vụ thuế.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam và người khấu trừ thuế cho NTNN cần tự tính toán số tiền thuế phải nộp, trừ khi cơ quan thuế thực hiện việc tính thuế theo quy định của Chính phủ Người nộp thuế phải khai và tính thuế tại cơ quan thuế địa phương có thẩm quyền nơi doanh nghiệp đặt trụ sở.
Hoạt động cung cấp dịch vụ kết nối là một phần quan trọng trong thương mại điện tử, đặc biệt là trong bối cảnh kinh doanh dựa trên nền tảng số.
15 Điều 16 Nghị định 10/2020/NĐ-CP ngày 17/1/2020 của Chính phủ quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh v ận tải bằng xe ô tô
Nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có trách nhiệm thực hiện đăng ký thuế, khai thuế và nộp thuế tại Việt Nam, có thể thực hiện trực tiếp hoặc ủy quyền Điều này có nghĩa là đối tác Việt Nam của nhà cung cấp nước ngoài phải thực hiện các thủ tục thuế để đảm bảo nghĩa vụ thuế của nhà cung cấp được thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật.
Đặc trưng về nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối
1.3.1 Đặc trưng về chủ thể nộp thuế Ở góc độ trực quan, trong hoạt động cung cấp dịch vụ kết nối tồn tại mối quan hệ 3 (ba) bên giữa chủ thể thực hiện dịch vụ ngành nghề - chủ thể trung gian cung cấp dịch vụ kết nối – chủ thể tiếp nhận (sử dụng) dịch vụ Các chủ thể này tùy từng hành vi bản thân thực hiện mà có những nghĩa vụ thuế khác nhau Trong đó, đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối là chủ thể thực hiện hành vi kinh doanh dịch vụ, có nghĩa vụ nộp thuế cho sắc thuế điều chỉnh hành vi này
Trong dịch vụ chia sẻ xe như Grab, có ba chủ thể chính: Tài xế, ứng dụng Grab và Hành khách Hành khách không phải là đối tượng nộp thuế cho ngân sách nhà nước, trong khi tài xế và Grab có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh Tài xế thực hiện dịch vụ vận tải và là chủ thể nộp thuế theo quy định của Luật thuế GTGT và Luật thuế TNCN Mối quan hệ giữa tài xế và Grab được xác định qua hợp đồng hợp tác kinh doanh, và cơ quan thuế đã có những hướng dẫn cụ thể về nghĩa vụ thuế của tài xế trong Công văn số 384/TCT-TNCN 19.
Vấn đề thuế của Grab, nhà cung cấp dịch vụ kết nối, chủ yếu liên quan đến nghĩa vụ thuế gián thu do hành vi kinh doanh của họ Grab đóng vai trò kết nối tài xế và hành khách thông qua dịch vụ phần mềm có thu phí, đồng thời tham gia vào các hoạt động vận tải như điều hành phương tiện và quyết định giá cước Theo hợp đồng, tỷ lệ chia sẻ doanh thu giữa Grab và tài xế là 80 – 20, chứng tỏ Grab thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ và phát sinh nghĩa vụ thuế với Nhà nước Do đó, Grab cần khai và nộp thuế GTGT dựa trên doanh thu từ dịch vụ vận tải, cũng như thuế TNDN theo quy định từ tổng thu nhập nhận được.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối, bao gồm cả Grab, là đối tượng nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của hai loại thuế chính là thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).
Tại Việt Nam, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tồn tại dưới hai hình thức chính: doanh nghiệp thành lập theo pháp luật Việt Nam với cơ sở thường trú tại Việt Nam, và doanh nghiệp nước ngoài được đăng ký hoạt động theo quy định pháp luật, có hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam Mặc dù có hình thức thành lập khác nhau, loại hình doanh nghiệp này có những đặc trưng riêng biệt so với các chủ thể nộp thuế thông thường khác.
Doanh nghiệp mang quốc tịch nước ngoài được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật nước ngoài, thường không có hiện diện thương mại tại Việt Nam Những doanh nghiệp này chủ yếu cung cấp dịch vụ từ nước ngoài và hoạt động theo các quy định pháp lý của quốc gia nơi họ được thành lập.
Công văn số 384/TCT-TNCN ngày 08/02/2017 của Tổng cục thuế, Bộ Tài chính quy định rõ về chính sách thuế áp dụng cho hoạt động hợp tác kinh doanh của Công ty Grab Taxi, nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật về thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của dịch vụ vận tải công nghệ.
Việt Nam chỉ hoạt động dưới hình thức môi giới trung gian qua các trang web và phần mềm trực tuyến, kết nối người tiêu dùng với các tổ chức và cá nhân sở hữu tài sản Sự khác biệt này giữa doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước dẫn đến nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp nước ngoài chỉ áp dụng cho thu nhập phát sinh tại Việt Nam hoặc liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú tại đây Hơn nữa, việc tổ chức hoạt động không tuân theo quy định pháp luật Việt Nam làm cho mối liên kết giữa các chủ thể này với nhà nước về quản lý và kiểm soát hành chính trở nên lỏng lẻo Điều này tạo ra lỗ hổng pháp lý, tạo cơ hội cho doanh nghiệp trục lợi và là thách thức lớn cho công tác quản lý và thu thuế của Nhà nước.
Cơ quan quản lý nhà nước về thuế đã ban hành nhiều quy định đặc thù nhằm điều chỉnh nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Việt Nam, bao gồm các quy định liên quan đến xác định thu nhập chịu thuế, phương thức tính thuế và quy trình thu thuế.
Có hai loại doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam: thứ nhất là doanh nghiệp có thành lập pháp nhân tại Việt Nam; thứ hai là doanh nghiệp nước ngoài có hoặc không có cơ sở thường trú nhưng không thành lập pháp nhân tại Việt Nam để tiến hành hoạt động kinh doanh.
Dạng 1: Doanh nghiệp có thành lập pháp nhân tại Việt Nam
Doanh nghiệp có quốc tịch Việt Nam bao gồm các loại hình như doanh nghiệp có vốn Việt Nam, doanh nghiệp được thành lập từ tổ chức, DNNN góp vốn liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài Trong trường hợp này, hoạt động kinh doanh của DNNN tại Việt Nam được thực hiện thông qua một pháp nhân mới, có thể hoạt động độc lập hoặc phụ thuộc vào công ty mẹ.
DNNN đó Cho nên sẽ được xem là doanh nghiệp Việt Nam mà không xem là DNNN kinh doanh tại Việt Nam dưới góc độ pháp lý
20 Nguy ễn Thị Hoài Thu (2015), Nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp của tổ chức nước ngoài kinh doanh tại
Vi ệt Nam , Lu ận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật TP.HCM, trang 18
Dạng 2: Doanh nghiệp nước ngoài có hoặc không có cơ sở thường trú nhưng không thành lập pháp nhân tại Việt Nam để thực hiện hoạt động kinh doanh Đề cập đến khái niệm “cơ sở thường trú” của DNNN, khoản 3 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013) đã quy định rõ
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam khi thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại đây DNNN có thể thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: (i) chi nhánh và văn phòng điều hành tại Việt Nam; (ii) cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm dịch vụ tư vấn thông qua nhân viên hoặc tổ chức, cá nhân khác; và (iii) đại lý.
DNNN có thể đại diện tại Việt Nam thông qua đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng hoặc đại diện không có thẩm quyền nhưng vẫn thực hiện giao hàng hóa và cung cấp dịch vụ thường xuyên Sự lựa chọn của DNNN về loại hình hiện diện của cơ sở thường trú sẽ ảnh hưởng đến các quy định pháp luật kinh tế và thuế, nhằm đảm bảo nghĩa vụ kinh doanh được thực hiện đầy đủ Theo Điều 5 của Hiệp định giữa Việt Nam và các quốc gia, "cơ sở thường trú" được định nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố định, nơi doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
Quy định này được hiểu qua ba điều kiện bắt buộc đối với doanh nghiệp của các Nước ký kết Hiệp định nhằm xác định cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Cơ sở hình thành nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết
có trách nhiệm khấu trừ số thuế GTGT, thuế TNDN trước khi thanh toán cho NTNN
1.4 Cơ sở hình thành nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam
1.4.1 Thẩm quyền thu thuế của Nhà nước đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối
Ra đời và tồn tại song song như hai yếu tố không thể tách rời, Nhà nước và thuế
Nhà nước, với quyền lực chính trị đặc biệt, không thể tồn tại thiếu sự đóng góp của công chúng, trong đó thuế trở thành nghĩa vụ của công dân và quyền thu cơ bản của Nhà nước Tuy nhiên, quyền thu thuế cũng có giới hạn lãnh thổ, nghĩa là quyền lực Nhà nước chỉ ảnh hưởng đến các đối tượng cư trú và hoạt động trong biên giới quốc gia Quyền thu thuế được xác lập dựa trên yếu tố lãnh thổ và con người, cho phép Nhà nước thu thuế từ mọi đối tượng đủ điều kiện trên lãnh thổ và từ công dân, dù họ có cư trú hay không Hầu hết các quốc gia hiện nay áp dụng đồng thời cả hai quyền thuế, với cách vận dụng khác nhau tùy thuộc vào từng loại thuế, đặc biệt là trong các sắc thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
TNDN tại Việt Nam khi thỏa mãn một trrong hai điều kiện, hoặc mang quốc tịch Việt Nam, hoặc có thu nhập phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp hoạt động trên nền tảng số, đặc biệt là các dịch vụ kết nối, đang trở nên linh hoạt và khó nắm bắt hơn đối với cơ quan quản lý Những doanh nghiệp này chủ yếu tồn tại trên không gian mạng, không cần văn phòng hay trụ sở thực tế, giúp xóa nhòa rào cản về biên giới quốc gia Sự phát triển này mang lại nguồn thu lớn, bao gồm cả lợi ích thuế, nhưng cũng khiến việc giám sát và quản lý trở nên phức tạp hơn cho cơ quan thuế, dẫn đến thiệt hại cho ngân sách và ảnh hưởng đến nền kinh tế Đặc biệt, các doanh nghiệp như Grab, Go-Viet (quốc tịch Việt Nam) và Airbnb (không có cơ sở thường trú tại Việt Nam) đều có nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam, dù hoạt động qua nền tảng ứng dụng với máy chủ ở nước ngoài.
29 Trường đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lu ật thuế Việt Nam, Vũ Văn Cương (Chủ biên), NXB CAND
Hà Nội, trang 22 Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) không đáp ứng yếu tố quốc tịch chỉ phải nộp thuế cho phần thu nhập phát sinh từ hoạt động tại Việt Nam Ngoài ra, nếu thu nhập phát sinh ở nước ngoài nhưng liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú tại Việt Nam, thu nhập này vẫn được coi là phát sinh tại Việt Nam và thuộc quyền thu thuế của nhà nước.
Cụ thể, liên quan đến doanh nghiệp nước ngoài, tại điều 2 Luật thuế TNDN
Theo quy định tại Nghị định 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013), người nộp thuế bao gồm: (i) Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có cơ sở thường trú tại Việt Nam phải nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú; (ii) DNNN có cơ sở thường trú tại Việt Nam cũng phải nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú; và (iii) DNNN không có cơ sở thường trú tại Việt Nam phải nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
Nhà nước thực hiện quyền thu thuế đối với doanh nghiệp kinh doanh tại Việt Nam dựa trên cơ sở lãnh thổ địa lý Dù các giao dịch có thể diễn ra trên nền tảng số, nếu cơ quan quản lý thuế xác định có thu nhập phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam hoặc liên quan đến cơ sở thường trú tại Việt Nam, doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách Nhà nước Tùy vào từng hoàn cảnh và định hướng phát triển, Nhà nước có thể ban hành quy định khuyến khích hoặc siết chặt nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp Điều này giúp doanh nghiệp hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế, tránh vi phạm pháp luật, đồng thời duy trì ổn định quan hệ pháp luật thuế và đảm bảo trật tự, công bằng xã hội.
30 Điều 2 Khoản 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013)
1.4.2 Sự xuất hiện của các khoản thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp
Để khẳng định sự cần thiết của nghĩa vụ thuế đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối, ngoài yếu tố lãnh thổ và quốc tịch, thu nhập chịu thuế đóng vai trò quan trọng Thu nhập chịu thuế là một trong những thành tố chính của đối tượng chịu thuế, ảnh hưởng trực tiếp đến nghĩa vụ nộp thuế Sự phát sinh thu nhập là căn cứ để thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế Tuy nhiên, thu nhập này phải tuân theo quy định của pháp luật thuế Do đó, việc xác định chính xác khoản thu nào là thu nhập chịu thuế của một sắc thuế cụ thể là điều kiện tiên quyết để xác định nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam.
Thuế trực thu và thuế gián thu đều ảnh hưởng đến một phần thu nhập của người nộp thuế, với đối tượng chịu thuế là thu nhập hợp pháp Thu nhập này có thể đến từ hoạt động sản xuất, lao động hoặc các giao dịch khác trong đời sống Ngoài ra, thu nhập không thường xuyên từ các nguồn khác cũng được tính là thu nhập chịu thuế, miễn là nó hợp pháp Cách tính thu nhập chịu thuế phụ thuộc vào loại thu nhập Đặc biệt, nếu thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh mà người nộp thuế chưa đăng ký kinh doanh hoặc thuế, vẫn được xem là thu nhập chịu thuế, trừ khi hoạt động đó bị cấm hoặc hạn chế.
Thu nhập chịu thuế phụ thuộc vào yếu tố địa điểm phát sinh và tình trạng cư trú của người sở hữu Những yếu tố này xác định liệu nguồn lợi hợp pháp có thuộc quyền điều chỉnh thuế của quốc gia này hay quốc gia khác Khi doanh nghiệp có thu nhập ở quốc gia khác với nơi đặt trụ sở, cả hai quốc gia đều có quyền đánh thuế trên cùng một khoản thu nhập, dẫn đến tình trạng trùng thuế Để giải quyết xung đột lợi ích này, nhiều quốc gia hoặc nhóm quốc gia đã ký kết Hiệp định nhằm điều chỉnh việc thu thuế đối với thu nhập phát sinh ở nhiều nơi khác nhau.
Quyền thu thuế của Nhà nước được xác định dựa trên tiêu chí lãnh thổ và các khoản thu nhập chịu thuế mà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối phát sinh từ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam Quyền thu thuế theo lãnh thổ là nền tảng, trong khi sự xuất hiện của các khoản thu nhập chịu thuế là cơ sở cụ thể để hình thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp.
Trong Chương 1, tác giả trình bày lý luận về nghĩa vụ thuế đối với thu nhập của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam, phân tích đặc trưng của chủ thể và quy định pháp luật quản lý thuế Nội dung này làm rõ các yếu tố cấu thành nghĩa vụ thuế, từ đó hình thành cái nhìn toàn diện về quy định pháp luật thuế đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ kết nối.
Thuế thường tạo ra xung đột lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế, khi Nhà nước muốn thu nhiều thuế để chi cho hoạt động và phúc lợi xã hội, trong khi người nộp thuế lại muốn tối đa hóa lợi nhuận Mâu thuẫn này càng gia tăng trong bối cảnh công nghệ phát triển nhưng khả năng quản lý của Nhà nước còn hạn chế Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối tại Việt Nam là một trường hợp đặc biệt, có nghĩa vụ đóng thuế như các tổ chức trong nước Để đảm bảo quản lý thuế hiệu quả và công bằng, cần có các quy định riêng biệt, kịp thời cho đối tượng này Do đó, pháp luật thuế, đặc biệt là luật thuế TNDN và thuế GTGT, cần được hoàn thiện để hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế.
Việc áp dụng quy định quản lý và thu thuế đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối hiện nay gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn Sự thiếu khả thi trong việc thực thi quy định và xử lý các hành vi trốn thuế tinh vi trên không gian mạng đã dẫn đến tình trạng bế tắc, dễ dàng bỏ sót các sai phạm.
Dựa trên lý luận từ Chương 1, Chương 2 sẽ trình bày những hạn chế và bất cập hiện có, đồng thời đề xuất định hướng hoàn thiện.
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ
KẾT NỐI TẠI VIỆT NAM
Thu ế giá trị gia tăng
2.1.1 Quy định pháp luật a Đối tượng chịu thuế:
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là loại thuế áp dụng cho phần giá trị tăng thêm của dịch vụ trong quá trình kinh doanh đến khi tiêu dùng Đối tượng chịu thuế GTGT bao gồm các dịch vụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh và tiêu dùng tại Việt Nam, ngoại trừ những dịch vụ không thuộc diện chịu thuế.
Theo quy định của Luật thuế GTGT, dịch vụ phải được cung cấp bởi một chủ thể kinh doanh và nhằm mục đích kinh doanh Để chịu thuế GTGT, hành vi sử dụng dịch vụ cần diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam.
Grab cung cấp dịch vụ kết nối phương tiện vận tải, thu một phần trăm nhất định trên thu nhập của lái xe cho mỗi cuốc xe Do đó, Grab cần kê khai nộp thuế GTGT vì dịch vụ này được tạo ra và sử dụng tại Việt Nam Tương tự, các dịch vụ đặt phòng trực tuyến từ các công ty nước ngoài như Airbnb, Agoda.com, Traveloka.com và Booking.com cũng thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tư.
Theo Thông tư 103/2014/TT-BTC ngày 06/8/2014 của Bộ Tài chính, Booking.com cung cấp dịch vụ kết nối giữa chủ khách sạn, nhà nghỉ và du khách tại Việt Nam thông qua trang web và ứng dụng của mình Dịch vụ này của Booking.com tạo ra đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) vì là dịch vụ do tổ chức nước ngoài cung cấp tại Việt Nam và tiêu dùng trong nước.
31 Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 ngày 03/6/2008
Khác với tín dụng truyền thống, CVNH hoạt động như một nhà điều phối tài chính, không đầu tư vào khoản vay mà chỉ kết nối người vay và người cho vay qua nền tảng phi lãi Doanh thu của CVNH chủ yếu đến từ phí giao dịch của các khoản vay thành công Trong lĩnh vực bán lẻ, các nền tảng như eBay, Craigslist, và Shopee kết nối người bán với người mua, tạo ra dịch vụ cung cấp thông tin và sản phẩm lớn, từ đó chịu thuế GTGT tại Việt Nam Đối với dịch vụ lao động, các nền tảng như Jupviec và TaskRabbit kết nối người tiêu dùng với người lao động, cũng như Triip.me kết nối khách du lịch với người dân địa phương Những dịch vụ này đều thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo Theo Galloway (2009), các nền tảng cho vay ngang hàng không chỉ đóng vai trò là môi giới cho nhu cầu vay vốn qua kênh đầu tư phi lãi mà còn là trung gian bán các chứng khoán do các bên phát hành Chúng cũng tạo điều kiện cho việc khởi tạo các khoản vay và sau đó bán dưới dạng chứng khoán cho các nhà đầu tư ngang hàng.
33 Nguy ễn Mạnh Hải, Nguyễn Hoàng Anh (2018), tlđd (1), trang 12 b Người nộp thuế:
Người nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) tại Việt Nam bao gồm các tổ chức và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chịu thuế Doanh nghiệp trong và ngoài nước thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ kết nối đều phải tuân thủ quy định này Theo pháp luật, mọi cá nhân có quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực không bị cấm, và thuế GTGT được thu dựa trên hành vi cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp Để trở thành người nộp thuế GTGT, doanh nghiệp cần thỏa mãn hai điều kiện: (i) phải có hành vi kinh doanh dịch vụ; (ii) những hành vi này phải ảnh hưởng đến đối tượng chịu thuế GTGT Đối với dịch vụ kết nối không có yếu tố nước ngoài, doanh nghiệp trong nước sẽ nộp thuế khi cung cấp dịch vụ trung gian kết nối Ví dụ, các doanh nghiệp như Grab, Gojek, Be sẽ là người nộp thuế khi cung cấp dịch vụ vận tải tại Việt Nam.
DNNN không hiện diện pháp nhân tại Việt Nam là người nộp thuế GTGT theo Khoản
1 Điều 4 Thông tư 103/2014/TT-BTC, còn gọi là NTNN Đồng thời, tại Khoản 2 Điều
Thông tư 103/2014/TT-BTC quy định rằng bên Việt Nam ký hợp đồng hợp tác với nhà thầu nước ngoài (NTNN) có trách nhiệm khấu trừ thuế GTGT trước khi thanh toán Các chủ cơ sở lưu trú như Airbnb và Booking.com sẽ nộp thuế thay cho NTNN trong lĩnh vực du lịch và khách sạn Những chủ thể này cần hoàn thành nghĩa vụ thuế của bản thân cũng như của NTNN tương ứng với các hành vi chịu thuế theo quy định của pháp luật.
34 Điều 33, Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 c Căn cứ tính thuế:
Theo Điều 6 Luật thuế GTGT 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013), căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất Trong đó:
Số thuế GTGT phát sinh = giá tính thuế GTGT x thuế suất
Theo Điều 7 của Luật thuế GTGT 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013), giá tính thuế GTGT đối với dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng là giá bán chưa bao gồm thuế GTGT Đối với hoạt động môi giới dịch vụ nhận tiền công hoặc hoa hồng, giá tính thuế là số tiền công hoặc hoa hồng thu được chưa có thuế GTGT Các dịch vụ kết nối giữa hai bên sẽ tính phí hoặc hoa hồng như là giá tính thuế, từ đó cơ quan thuế xác định số thuế GTGT doanh nghiệp phải nộp Để đảm bảo công bằng trong điều tiết thuế, luật hiện quy định ba mức thuế suất GTGT.
Doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cung cấp nhiều loại dịch vụ với các mức thuế suất GTGT khác nhau cần khai thuế theo từng mức quy định Nếu không xác định được mức thuế suất cụ thể cho từng dịch vụ, cơ sở kinh doanh sẽ phải tính và nộp thuế theo mức thuế suất cao nhất trong số các dịch vụ mà họ đang cung cấp.
Theo Điều 10 Thông tư 219/2013/TT-BTC, Grab phải nộp thuế suất GTGT 5% Công ty TNHH Grab Việt Nam được thành lập tại Việt Nam.
Doanh nghiệp này được áp dụng mức thuế suất ưu đãi cho dịch vụ khoa học và công nghệ Công ty nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực đặt phòng trực tuyến tại Việt Nam thông qua các nền tảng như Agoda.com, Traveloka.com và Booking.com.
Expedia.com không đủ điều kiện để nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ khi ký hợp đồng với các cơ sở lưu trú tại Việt Nam, bao gồm khách sạn và nhà nghỉ.
Theo Điều 9, 10, 11 của Thông tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013, hướng dẫn thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP, việc nộp thuế GTGT được thực hiện theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu hoa hồng Cụ thể, tỷ lệ để tính thuế GTGT trên doanh thu hoa hồng là 5%.
Thuế GTGT là loại thuế đánh vào phần giá trị gia tăng của dịch vụ trong quá trình cung ứng, lưu thông và tiêu dùng Giá trị gia tăng được xác định bằng cách so sánh giá bán (đầu ra) và giá mua (đầu vào), với dịch vụ có giá bán cao hơn giá mua sẽ phải chịu thuế Tổng số thuế GTGT mà cơ quan thuế thu được trong quá trình lưu thông tương ứng với số thuế tính trên mức giá mà người tiêu dùng cuối cùng phải trả Để xác định số thuế GTGT mà người nộp thuế cần phải nộp, cần áp dụng phương pháp tính thuế Theo quy định của Luật thuế GTGT, có hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp, áp dụng cho hai nhóm người nộp thuế khác nhau.
Phương pháp khấu trừ thuế được quy định tại Điều 10 Luật thuế GTGT 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013) có công thức tính như sau:
Thu ế thu nhập doanh nghiệp
Pháp luật thuế TNDN là tập hợp các quy phạm do cơ quan Nhà nước ban hành, điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ thuế của các tổ chức kinh doanh Để chịu thuế TNDN, các tổ chức phải thực hiện hoạt động kinh doanh hợp pháp nhằm mục đích lợi nhuận Thời điểm bắt đầu hoạt động kinh doanh đánh dấu thời điểm hình thành nghĩa vụ thuế TNDN Thuế TNDN chủ yếu thu vào thu nhập phát sinh từ hoạt động kinh doanh dịch vụ, do đó, nó đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý thu nhập của các doanh nghiệp.
Trường Đại học Luật TP.HCM nhấn mạnh vai trò quan trọng của thuế trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển Cụ thể, quy định về doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là một yếu tố thiết yếu trong việc đảm bảo sự công bằng và ổn định cho nền kinh tế.
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật thuế TNDN 2008 (sửa đổi, bổ sung 2013), để trở thành người nộp thuế TNDN, chủ thể kinh doanh dịch vụ kết nối cần đáp ứng ba điều kiện: thứ nhất, là doanh nghiệp có hoạt động cung ứng, kinh doanh; thứ hai, có thu nhập hợp pháp từ hoạt động kinh doanh đó.
Các điều kiện xác định nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế khi có thu nhập từ hoạt động kinh doanh dịch vụ bao gồm việc hội đủ hai điều kiện (i) và (ii), từ đó xác lập tư cách đối tượng nộp thuế TNDN Khi đối tượng nộp thuế tạo ra thu nhập, nghĩa vụ nộp thuế TNDN sẽ được xác lập Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần nộp tờ khai thuế TNDN dù không có thu nhập phát sinh trong kỳ khai thuế, vì hoạt động kinh doanh dịch vụ là chức năng chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối thuộc hai trong năm nhóm người nộp thuế TNDN theo quy định của Luật thuế TNDN Cụ thể, bao gồm doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam, nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và ngoài Việt Nam, cùng với doanh nghiệp nước ngoài (DNNN) có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cũng nộp thuế cho thu nhập phát sinh tại Việt Nam và liên quan đến cơ sở thường trú Nếu không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài vẫn phải nộp thuế cho thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
Thu nhập chịu thuế TNDN là một thành phần quan trọng trong hệ thống thuế, bao gồm thu nhập từ hoạt động kinh doanh dịch vụ và các nguồn thu nhập khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh Việc xác định nguồn gốc thu nhập từ hoạt động kinh doanh hợp pháp là rất quan trọng để xác định thu nhập chịu thuế Tuy nhiên, các chủ thể kinh doanh có thể tìm kiếm lợi nhuận qua nhiều hình thức, trong đó thu nhập từ hoạt động kinh doanh bất hợp pháp không được coi là đối tượng chịu thuế TNDN Do đó, chỉ những thu nhập hợp pháp từ hoạt động kinh doanh mới được xem là đối tượng chịu thuế TNDN.
Dựa trên lý luận này, các hoạt động kinh doanh thương mại, đặc biệt là dịch vụ kết nối, thuộc ngành nghề hợp pháp nhưng chưa được mã hóa cụ thể trong danh mục ngành nghề kinh doanh.
Khi đăng ký doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh có phát sinh thu nhập sẽ bị xem là thu nhập hợp pháp và phải chịu thuế TNDN Ngay cả khi chưa đăng ký kinh doanh hoặc thuế, thu nhập từ hoạt động kinh doanh vẫn bị coi là chịu thuế, trừ khi hoạt động đó bị cấm Việc không đăng ký kinh doanh hay thuế không loại trừ nghĩa vụ nộp thuế của chủ thể có thu nhập Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối, thu nhập từ các hoạt động trung gian như cung cấp phần mềm, ứng dụng kết nối giữa các bên có thể tồn tại dưới hình thức phí hoặc tiền hoa hồng Sự đa dạng trong các hoạt động cung cấp dịch vụ kết nối dẫn đến khó khăn trong việc quy định mã ngành nghề, nhưng điều này không miễn trừ nghĩa vụ thuế của các chủ thể.
Theo Điều 7 Thông tư, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối có trụ sở tại nước ngoài và hoạt động trực tuyến tại Việt Nam cần tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến thuế Giáo trình Luật thuế (tái bản có bổ sung) của Trường Đại học Luật TP.HCM, do TS Nguyễn Thị Thủy chủ biên, cung cấp những thông tin quan trọng về vấn đề này.
Theo quy định tại Thông tư 103/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính, thu nhập chịu thuế TNDN của nhà thầu nước ngoài (NTNN) bao gồm toàn bộ giá trị dịch vụ phát sinh từ hoạt động cung cấp dịch vụ tại Việt Nam dựa trên hợp đồng nhà thầu Đồng thời, thu nhập này cũng bao gồm các khoản thu nhập nhận được dưới bất kỳ hình thức nào, không phụ thuộc vào địa điểm thực hiện hoạt động kinh doanh của NTNN Căn cứ tính thuế được xác định dựa trên các quy định này.
Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế của người nộp thuế TNDN (thu nhập tính thuế) và thuế suất thuế TNDN
Kỳ tính thuế TNDN là khoảng thời gian xác định thu nhập chịu thuế Đối với doanh nghiệp nhà nước không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, kỳ tính thuế được xác định theo từng lần phát sinh thu nhập do tính chất không ổn định của tư cách pháp lý Doanh thu tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối bao gồm toàn bộ tiền từ dịch vụ, trợ giá và phụ thu mà doanh nghiệp hợp pháp được hưởng.
Trong quá trình vận hành doanh nghiệp, có những khoản chi bắt buộc được khấu trừ khi tính thu nhập chịu thuế, vì chúng là đầu tư để tạo lập thu nhập chứ không phải là thu nhập Các chi phí này cần đảm bảo tính hợp lý, tuân thủ giới hạn pháp luật và có chứng từ hợp lệ Những khoản chi không đáp ứng điều kiện luật định sẽ không được trừ vào doanh thu khi tính thu nhập chịu thuế.
Theo đại diện Bộ Tài chính, tại cuộc họp báo Quý III/2017, Uber và Grab không thể áp dụng phương pháp kê khai để xác định thu nhập chịu thuế do không xác định được chi phí, mặc dù có khả năng xác định doanh thu Điều này khiến cho việc tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và thuế TNDN theo phương pháp kê khai doanh thu, chi phí không đáp ứng đủ điều kiện quy định.
Mức độ điều tiết của Nhà nước đối với thu nhập chịu thuế TNDN được thể hiện qua thuế suất, với mức thuế suất áp dụng cho doanh nghiệp là 20% Đối với các tổ chức không phải doanh nghiệp hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, nếu doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và có hoạt động kinh doanh dịch vụ với doanh thu xác định nhưng không có chi phí rõ ràng, mức thuế suất sẽ được ấn định trực tiếp dựa trên tỷ lệ phần trăm trên doanh thu bán dịch vụ.
Số thuế TNDN mà người nộp thuế phải nộp sẽ được điều chỉnh để tránh tình trạng trùng thuế đối với phần thu nhập đã chịu thuế theo mức thuế suất tại nơi phát sinh thu nhập.