1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

92 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 1,86 MB

Cấu trúc

  • Khóa luận tốt nghiệp 2020

  • Phụ lục - Quy tắc điều khoản sản phẩm bảo hiểm và Hồ sơ yêu cầu Bảo hiểm nhân thọ

Nội dung

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG

Khái quát về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

1.1.1 Khái quát về bảo hiểm nhân thọ

Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là hình thức bảo hiểm liên quan đến tính mạng, tuổi thọ và sự an toàn của con người Theo pháp luật Việt Nam, BHNT được định nghĩa là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận giữa bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm BHNT trên thế giới, điểm chung cơ bản là BHNT tập trung vào tuổi thọ của con người.

Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) không chỉ đơn thuần là bù đắp thiệt hại hay chuyển giao rủi ro từ bên mua bảo hiểm (BMBH) sang đơn vị bảo hiểm (DNBH), mà thực chất là một hình thức đầu tư tài chính lâu dài BHNT giúp BMBH tích lũy và tiết kiệm cho những người thân mà họ có nghĩa vụ tài chính Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, DNBH có trách nhiệm chi trả số tiền bảo hiểm cho BMBH, người được bảo hiểm (NĐBH) hoặc người thụ hưởng, tùy thuộc vào thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) Số tiền này được xác định dựa trên độ tuổi, tình trạng sức khỏe và các điều kiện khác của NĐBH.

Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) mang lại giá trị sâu sắc cho nhiều đối tượng khác nhau, với vai trò chính được tóm gọn trong bốn nội dung chủ yếu.

Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là một giải pháp an toàn giúp bảo vệ bạn trước những rủi ro có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng trong cuộc sống.

Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (BHNT) đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ xã hội, nhằm phục vụ cho các mục đích đầu tư dài hạn Việc đầu tư vốn không chỉ giúp doanh nghiệp bảo hiểm duy trì lợi nhuận mà còn đảm bảo khả năng thanh toán tiền bảo hiểm cho khách hàng.

4 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2004), Giáo trình bảo hiểm, Nxb Thống kê, tr 476

5 Jêrome Yeatman (2001), Giáo khoa quốc tế về bảo hiểm, Nxb Thống kê, tr 137

6 Khoản 12, Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm

Trong luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn Văn Dũng (2013), tác giả đã phân tích mối liên hệ pháp lý giữa quyền lợi có thể được bảo hiểm và hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Nghiên cứu này được thực hiện tại Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, với những nội dung quan trọng được trình bày ở trang 22.

Theo Nguyễn Thị Thủy (2017), trong tác phẩm "Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người", việc thực hiện chức năng bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là rất quan trọng Nếu không có hoạt động này, DNBH sẽ không thể thu được lợi ích từ các hợp đồng bảo hiểm, vì khoản tiền bảo hiểm phải thanh toán thường lớn hơn nhiều so với phí bảo hiểm mà người tham gia đã đóng.

Đóng phí bảo hiểm nhân thọ định kỳ không chỉ giúp người tham gia bảo vệ tài chính mà còn góp phần kiềm hãm lạm phát Công ty bảo hiểm áp dụng tỷ lệ chiết khấu phí khi tính phí bảo hiểm, và phần lãi này sẽ bù đắp cho sự trượt giá, giúp sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trở thành một công cụ hiệu quả chống lại ảnh hưởng của lạm phát.

Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) không chỉ mang lại lợi ích tài chính mà còn đóng góp tích cực cho xã hội, như tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tăng cường đầu tư cho giáo dục con cái và khuyến khích lối sống tiết kiệm có kế hoạch.

Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là dịch vụ thương mại mà doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) cung cấp cho bên mua bảo hiểm (BMBH) và các đối tượng liên quan thông qua các nghiệp vụ BHNT được quy định trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) Các sản phẩm BHNT rất đa dạng, trong đó một số sản phẩm phổ biến bao gồm bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm trả tiền định kỳ, bảo hiểm tử kỳ và bảo hiểm trọn đời.

Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) hỗn hợp, đặc biệt là bảo hiểm liên kết đầu tư, đang ngày càng trở nên phổ biến Điểm khác biệt của sản phẩm này so với các loại bảo hiểm nhân thọ thuần túy là người mua bảo hiểm (BMBH) có cơ hội tham gia vào quỹ đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và nhận lợi nhuận từ quỹ này.

1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

Pháp luật Việt Nam hiện hành không có quy định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, mà chỉ đề cập đến hợp đồng bảo hiểm nói chung Theo Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm được định nghĩa là thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó bên mua phải đóng phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

Bài viết của Lê Song Lai (2005) trình bày thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm Việt Nam Nghiên cứu này được công bố trong Tạp chí Thị trường Bảo hiểm – Tái Bảo hiểm Việt Nam, số 4, trang 2-3, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về các thách thức và cơ hội trong lĩnh vực bảo hiểm.

10 Trịnh Thị Bích Thủy (2014), Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 16

11 Trịnh Thị Bích Thủy (2014), tlđd (10), tr 17

Luận án Tiến sỹ của Trần Vũ Hải (2014) tập trung vào pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này Nghiên cứu này được thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội và cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thách thức và cơ hội trong ngành bảo hiểm nhân thọ.

Tính đến quý III/2019, theo số liệu từ Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính, nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư đã chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngành bảo hiểm, đạt 72% doanh thu phí khai thác mới.

“Thời của các sản phẩm bảo hiểm đầu tư”, https://tinnhanhchungkhoan.vn/bao-hiem/thoi-cua-cac-san-pham-bao-hiem-dau-tu-311647.html, truy cập ngày 04/4/2020

Nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ theo quy định của pháp luật kinh doanh bảo hiểm

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) liên quan đến tuổi thọ của con người và các rủi ro liên quan đến tính mạng, sức khỏe của người tham gia bảo hiểm Tuy nhiên, các rủi ro này thường không được xác định rõ ràng khi các bên ký kết hợp đồng, dẫn đến khả năng hiểu biết và nhận định khác nhau về rủi ro Do đó, việc minh bạch thông tin giữa các bên tham gia HĐBHNT là rất quan trọng ngay từ giai đoạn trước khi hợp đồng được ký kết, nhằm tránh những đánh giá sai lệch về rủi ro và những hệ lụy không mong muốn khi xảy ra tranh chấp.

Trong quan hệ bảo hiểm nhân thọ (BHNT), cả bên mua bảo hiểm (BMBH) và doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) đều có nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác Theo nguyên tắc trung thực tuyệt đối, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã thiết lập các quy định liên quan đến nghĩa vụ thông tin của BMBH, nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong giao dịch bảo hiểm.

Trong bài viết của Phạm Sĩ Hải Quỳnh (2004), tác giả phân tích cơ sở hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng bảo hiểm, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác từ các bên tham gia Bài viết cũng đề cập đến các hậu quả pháp lý mà một bên phải chịu khi vi phạm nghĩa vụ này trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm.

1.2.1 Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm Điểm b Khoản 2 Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định một trong các nghĩa vụ chung của BMBH là “Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm” Từ quy định này, có thể thấy nghĩa vụ cung cấp thông tin của BMBH là nghĩa vụ bắt buộc theo luật định và không tách rời với BMBH trong suốt thời hạn của HĐBHNT, có ý nghĩa quyết định đối với khả năng nhận được các lợi ích từ HĐBH khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra Nghĩa vụ này được thực hiện chủ yếu ở giai đoạn giao kết hợp đồng, và được tiếp diễn trong quá trình thực hiện hợp đồng và ngay cả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra

1.2.1.1 Trong giai đoạn giao kết hợp đồng

Trước khi ký hợp đồng bảo hiểm, BMBH cần cung cấp thông tin cá nhân qua Giấy yêu cầu bảo hiểm, bao gồm tên, tuổi, giới tính, nghề nghiệp, nơi cư trú và thu nhập hàng tháng Những thông tin này giúp DNBH xác định tư cách pháp lý của BMBH và đánh giá khả năng tài chính cũng như mức độ rủi ro của hợp đồng Đặc biệt, thông tin về sức khỏe của NĐBH là rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi thọ, yếu tố chính trong HĐBHNT Giấy yêu cầu bảo hiểm thường hỏi về lịch sử bệnh lý và thói quen sinh hoạt của NĐBH, như hút thuốc hay tham gia thể thao mạo hiểm Nếu có NĐBH bổ sung, thông tin của họ cũng cần được cung cấp đầy đủ.

Theo Khoản 1 Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thông tin liên quan khi giao kết hợp đồng bảo hiểm Điều này đảm bảo tính minh bạch và chính xác trong quá trình tham gia bảo hiểm.

Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là rất quan trọng, bởi vì các rủi ro liên quan thường chỉ xuất hiện trong tương lai và không tồn tại tại thời điểm ký kết Các bên liên quan, bao gồm doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của thông tin được cung cấp Điều này đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong mối quan hệ giữa các bên, góp phần bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.

Quy định này làm rõ trách nhiệm chung của BMBH theo Điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm, cho phép DNBH miễn trừ trách nhiệm xác định tính chính xác của thông tin từ BMBH Một số ý kiến cho rằng DNBH nên thẩm định thông tin cá nhân của NĐBH ngay từ khi tiếp nhận yêu cầu bảo hiểm để giảm rủi ro cho cả hai bên, đặc biệt là giúp NĐBH bổ sung thông tin chính xác Phương pháp này không chỉ bảo vệ quyền lợi của NĐBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mà còn giúp DNBH ngăn chặn các trường hợp tham gia bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi Tuy nhiên, việc giám định lại toàn bộ thông tin từ BMBH có thể gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng.

Việc thẩm định lại thông tin có thể tốn thời gian và chi phí, và trong một số trường hợp, không thể thực hiện Một số thông tin cá nhân như tên, tuổi, giới tính, nghề nghiệp và thu nhập dễ dàng kiểm chứng Tuy nhiên, thông tin về tình trạng sức khỏe của người tham gia bảo hiểm (NĐBH) thường khó xác minh và tốn nhiều công sức Thông tin này thường được thu thập qua bảng câu hỏi mẫu từ đơn vị bảo hiểm, chủ yếu dưới dạng "có/không" Trong nhóm thông tin sức khỏe, các câu hỏi thường liên quan đến triệu chứng bệnh lý và tiền sử bệnh lâu năm.

Trong 5 năm qua, việc xác minh thông tin về việc người được bảo hiểm có từng điều trị nội trú hoặc ngoại trú tại bệnh viện hoặc trung tâm y khoa nào hay không là rất khó khăn Điều này đặt ra thách thức cho doanh nghiệp bảo hiểm trong việc kiểm tra tính xác thực của câu trả lời từ bên mua bảo hiểm hoặc người đại diện.

Trong lĩnh vực bảo hiểm, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đóng vai trò quan trọng, với nghĩa vụ cung cấp thông tin thuộc về một bên Việc không tôn trọng nguyên tắc này có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng trong quan hệ bảo hiểm.

Trong bài viết của Trần Thị Thủy (2019) về việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, tác giả nhấn mạnh rằng nguyên tắc pháp lý này sẽ tạo ra những hậu quả mà bên vi phạm phải tự chịu trách nhiệm, không bao gồm nghĩa vụ của bên còn lại.

Trước khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết, việc cung cấp thông tin là rất quan trọng, tuy nhiên, trong giai đoạn này, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) chưa có trách nhiệm nào đối với bên mua bảo hiểm (BMBH) Yêu cầu DNBH chi phí để xác minh tính chính xác của thông tin trước khi quyết định mức phí bảo hiểm là không hợp lý, bởi lẽ số lượng khách hàng của các DNBH quá lớn để có thể kiểm tra từng hợp đồng một cách chi tiết.

Trong một số trường hợp, công ty bảo hiểm (DNBH) có thể yêu cầu người đề nghị bảo hiểm (NĐBH) thẩm định sức khỏe, đặc biệt khi số tiền bảo hiểm lớn hoặc có dấu hiệu bệnh lý Tuy nhiên, hợp đồng không loại trừ trách nhiệm của NĐBH trong việc khai báo trung thực, nghĩa là DNBH không chỉ dựa vào kết quả thẩm định mà còn dựa vào thông tin do NĐBH cung cấp Mặc dù yêu cầu kiểm tra sức khỏe có thể giúp xác thực thông tin, nhưng không đảm bảo tính chính xác của nó Ví dụ, trong trường hợp của khách hàng Nguyễn Văn A, dù đã thực hiện kiểm tra sức khỏe tổng quát, bệnh lý nghiêm trọng của anh vẫn không được phát hiện Sau đó, Nguyễn Văn A đã mua thêm hợp đồng bảo hiểm, nâng tổng số tiền bảo hiểm lên 5,5 tỷ đồng Khi khách hàng này qua đời, DNBH B từ chối chi trả do việc kê khai thông tin không trung thực đã dẫn đến đánh giá sai về rủi ro bảo hiểm Nếu biết về tình trạng sức khỏe thực sự của khách hàng, DNBH B có thể đã không chấp nhận bảo hiểm.

Trong Quy tắc và điều khoản HĐBHNT Pru của Công ty TNHH BHNT Prudential Việt Nam, bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm có trách nhiệm kê khai đầy đủ, chính xác và trung thực tất cả thông tin cần thiết để Prudential đánh giá khả năng chấp nhận bảo hiểm Việc thẩm định sức khỏe không thay thế cho nghĩa vụ kê khai trung thực này Ví dụ, khách hàng Nguyễn Văn A không kê khai bệnh K hạch thần kinh nội tiết, dẫn đến việc DNBH B không phát hiện ra bệnh lý qua kiểm tra sức khỏe tổng quát Do đó, thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp khó có thể được thẩm định, và nghĩa vụ cung cấp thông tin chủ yếu dựa vào tinh thần tự nguyện của người tham gia bảo hiểm.

1.2.1.2 Trong quá trình thực hiện hợp đồng

NHỮNG BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN CỦA CÁC BÊN TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:19

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w