1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn

79 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng Giữa Cha Mẹ Và Con Sau Khi Vợ Chồng Ly Hôn
Tác giả Lê Huyền Kim
Người hướng dẫn Th.S Trần Thị Hương
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2013
Thành phố TP HCM
Định dạng
Số trang 79
Dung lượng 870,4 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG (10)
    • 1.1. Khái niệm cấp dưỡng (10)
    • 1.2. Cơ sở hình thành nghĩa vụ cấp dưỡng (13)
    • 1.3. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng (15)
    • 1.4. Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám (0)
      • 1.4.1. Thời kì 1945 đến 1959 (20)
      • 1.4.2. Thời kì 1959 – 1986 (21)
      • 1.4.3. Thời kì 1986 – 2000 (22)
  • CHƯƠNG 2. NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG GIỮA CHA, MẸ VÀ CON SAU KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM (24)
    • 2.1 Ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn đối với con (24)
    • 2.2. Chế định cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2000 (0)
      • 2.2.1. Chủ thể được cấp dưỡng khi cha, mẹ ly hôn (26)
      • 2.2.2. Mức cấp dưỡng (33)
      • 2.2.3. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (37)
      • 2.2.4. Vấn đề thay đổi và tạm ngừng thực hiện cấp dưỡng (42)
      • 2.2.5. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (44)
      • 2.2.6. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng (46)
  • CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG GIỮA CHA MẸ VÀ CON SAU KHI VỢ CHỒNG LY HÔN (49)
    • 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn (49)
      • 3.1.1. Về việc phân chia nghĩa vụ cấp dưỡng (50)
      • 3.1.2 Về quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (51)
      • 3.1.3. Về mức cấp dưỡng (52)
      • 3.1.4. Về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (53)

Nội dung

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG

Khái niệm cấp dưỡng

Cấp dưỡng được định nghĩa là việc cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho người già hoặc người yếu, và trong nghĩa rộng, nó có thể xem như một hình thức trợ cấp cho những người gặp khó khăn Nghĩa vụ này không chỉ phản ánh truyền thống đạo đức "lá lành đùm lá rách" của dân tộc mà còn là một chính sách xã hội được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm qua các thời kỳ.

Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, với việc lần đầu tiên đưa ra định nghĩa rõ ràng về cấp dưỡng Cấp dưỡng được hiểu là nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung, liên quan qua hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, đặc biệt là đối với người chưa thành niên hoặc người không có khả năng lao động Định nghĩa này không chỉ xác định rõ ràng chủ thể và phương thức cấp dưỡng mà còn khẳng định rằng nghĩa vụ này đã trở thành trách nhiệm pháp lý bắt buộc, thay vì chỉ là trách nhiệm đạo đức Khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không trực tiếp chăm sóc, họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng cách chu cấp tài chính hoặc tài sản để bảo đảm nhu cầu sống thiết yếu của người được nuôi dưỡng.

Trong lĩnh vực luật học, nuôi dưỡng và cấp dưỡng là hai khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ và có thể thay thế cho nhau trong một số tình huống nhất định Do đó, việc hiểu rõ sự tương tác giữa hai khái niệm này là cần thiết.

2 Nguyễn Lân, “Từ điển tiếng việt” NXB TP.HCM, năm 2000

Khoản 11 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 quy định rõ ràng về ranh giới giữa hai khái niệm, nhằm tránh nhầm lẫn trong quá trình áp dụng pháp luật Việc phân biệt này rất quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng liên quan.

Theo Điều 2, khoản 4 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam là cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái trở thành công dân có ích cho xã hội Đồng thời, con cái có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc và nuôi dưỡng cha mẹ, trong khi đó, cháu cũng cần kính trọng và phụng dưỡng ông bà Tất cả các thành viên trong gia đình đều có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc và hỗ trợ lẫn nhau.

Nuôi dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình chưa được giải thích rõ ràng, nhưng cơ bản bao gồm việc cung cấp lợi ích vật chất cho nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở, và đi lại, cũng như chăm sóc tinh thần bằng cách hỗ trợ và chia sẻ cảm xúc với người được nuôi dưỡng Từ góc độ đạo đức, trách nhiệm nuôi dưỡng thể hiện nhu cầu tình cảm thiết yếu giữa các thành viên trong gia đình, và trong các mối quan hệ xã hội khác, trách nhiệm này còn bị ảnh hưởng bởi luân lý và đạo đức Sự kết hợp giữa đạo lý và tình cảm tạo nên những đặc trưng đạo đức trong mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ và con cái, ông bà và cháu, cũng như giữa anh chị em Về mặt pháp lý, nuôi dưỡng đã trở thành một trách nhiệm được quy định và điều chỉnh bởi pháp luật.

Trong bài viết này, tác giả so sánh điểm giống và khác nhau giữa hai khái niệm nuôi dưỡng và cấp dưỡng, nhấn mạnh rằng mối quan hệ này phát sinh giữa những người có quan hệ gia đình thông qua huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng Cả hai chủ thể được nuôi dưỡng và cấp dưỡng thường là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên bị tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản Điểm khác biệt quan trọng giữa nghĩa vụ cấp dưỡng và nuôi dưỡng nằm ở yếu tố không gian, khi người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải đóng góp chi phí để hỗ trợ người chăm sóc, nuôi dưỡng Tuy nhiên, khái niệm “không sống chung” vẫn chưa được làm rõ trong Luật HN&GĐ 2000, dẫn đến ba quan điểm khác nhau về định nghĩa này.

Quan điểm thứ nhất: những người sống chung là những người có cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường trú

Quan điểm thứ hai cho rằng sống chung chỉ được coi là hợp pháp khi hai người thường xuyên sinh sống dưới một mái nhà, mà không phụ thuộc vào địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú.

Theo quan điểm thứ ba, việc xác định sống chung không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú, mà dựa vào hoạt động kinh tế chung và việc sử dụng nguồn tài chính chung giữa các thành viên trong gia đình Do đó, những người có cùng quỹ tiêu dùng trong sinh hoạt sẽ được coi là sống chung.

Tác giả cho rằng quan điểm thứ ba về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình là hợp lý nhất, vì thực tế có nhiều trường hợp người cùng địa chỉ đăng ký hộ khẩu nhưng sinh hoạt lại riêng biệt, như vợ chồng ly hôn vẫn chung địa chỉ Trong những trường hợp này, người không trực tiếp nuôi con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự Quan điểm thứ hai cho rằng sống chung là khi các thành viên cùng sống dưới một mái nhà, nhưng điều này không hoàn toàn chính xác, vì nhiều gia đình vẫn duy trì sự quan tâm và hỗ trợ lẫn nhau mặc dù sống xa nhau Ví dụ, trẻ em học xa nhà hoặc người lớn tuổi điều trị bệnh tâm thần không thể coi là không có sự nuôi dưỡng Để xác định mối quan hệ sống chung, cần xem xét việc các thành viên có sử dụng chung quỹ tiêu dùng hay không; nếu có, điều này chứng tỏ họ có sự nuôi dưỡng lẫn nhau Ngược lại, nếu nghĩa vụ nuôi dưỡng không được thực hiện, nó sẽ chuyển thành nghĩa vụ cấp dưỡng.

Cấp dưỡng là thuật ngữ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, thể hiện mối quan hệ quyền và nghĩa vụ giữa những người không sống chung, nhằm đảm bảo cuộc sống cho người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, người không có khả năng lao động và không có tài sản tự nuôi sống bản thân, cũng như những người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của pháp luật.

Cơ sở hình thành nghĩa vụ cấp dưỡng

Từ khi ra đời, nhà nước đã sử dụng pháp luật như một công cụ hiệu quả để củng cố quyền lực Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước và được đảm bảo thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế Để tồn tại lâu dài, pháp luật cần phù hợp với quy tắc ứng xử của xã hội, do đó nhiều quy phạm đạo đức và phong tục tập quán đã được nâng lên thành quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội Những quy tắc này thường mang giá trị tốt đẹp và bền vững.

Quan hệ gia đình là một trong những mối quan hệ xã hội quan trọng, bao gồm sự gắn bó giữa ông bà, cha mẹ, con cái, và anh chị em Những mối liên hệ này không chỉ bền vững mà còn chịu sự điều chỉnh của đạo đức, phong tục tập quán và quy phạm pháp luật Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định rằng quan hệ giữa cha mẹ và con ruột chỉ chấm dứt khi có sự ra đi của một trong hai bên, trong khi đó, quan hệ với con nuôi có thể chấm dứt theo quy định của Luật nuôi con nuôi 2010 Trách nhiệm chăm sóc và yêu thương giữa các thành viên gia đình là một phần của đạo lý truyền thống, thể hiện nhu cầu tình cảm thiết yếu và được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện Điều này không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của mỗi thành viên trong gia đình, được ghi nhận trong Điều 64 của Hiến pháp 1992.

Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái trở thành những công dân tốt, trong khi con cháu cần có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ Điều này được quy định rõ ràng trong Khoản 4 Điều 2 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Theo quy định tại Điều 2000, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội, trong khi con cái có nghĩa vụ kính trọng và chăm sóc cha mẹ, và cháu có trách nhiệm phụng dưỡng ông bà Đây là nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình Việt Nam Tuy nhiên, trong một số tình huống nhất định, như khi người thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng phải chấp hành hình phạt tù hoặc trong trường hợp ly hôn, việc thực hiện nghĩa vụ này có thể gặp khó khăn Để đảm bảo cuộc sống cho người được nuôi dưỡng và thể hiện sự quan tâm của người nuôi dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng trở nên cần thiết.

Cấp dưỡng thể hiện sự thể chế hóa truyền thống đoàn kết và tinh thần tương thân tương ái của dân tộc, đồng thời là sự điều chỉnh của pháp luật thông qua các quy phạm đạo đức Điều này không chỉ phản ánh cách ứng xử tự nguyện của cộng đồng mà còn mang ý nghĩa sâu sắc ở cả góc độ đạo đức và pháp lý.

Cấp dưỡng mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc trong xã hội, phản ánh tinh thần tương thân, tương ái giữa các thành viên gia đình Không phải ai cũng có sức khỏe và khả năng thu nhập giống nhau, do đó, những người có sức khỏe tốt và thu nhập cao có nghĩa vụ hỗ trợ các thành viên chưa thành niên hoặc những người không có khả năng lao động Điều này không chỉ cần thiết mà còn hợp lý, thể hiện đạo lý và truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam Quy định cấp dưỡng nhấn mạnh trách nhiệm của các thành viên nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững cho gia đình.

Cấp dưỡng được coi là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, giúp các bên liên quan nhận thức rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mình Việc quy định cụ thể trong luật tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ này và ngăn chặn tình trạng trốn tránh trách nhiệm, từ đó bảo vệ quyền lợi cho người được cấp dưỡng.

Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng

Hiểu rõ nghĩa vụ cấp dưỡng cần xem xét các đặc điểm của nó Quan hệ cấp dưỡng là một mối quan hệ pháp lý với những đặc điểm cơ bản, bao gồm sự ràng buộc giữa các bên và trách nhiệm tài chính nhằm đảm bảo quyền lợi cho người được cấp dưỡng.

Thứ nhất, quan hệ cấp dƣỡng là loại quan hệ pháp luật về tài sản gắn liền với nhân thân

Luật Hôn nhân và Gia đình điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội: quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, với mối liên hệ mật thiết giữa chúng Nội dung chính của pháp luật này tập trung vào các quan hệ nhân thân phi tài sản, đóng vai trò chủ đạo trong việc xác lập, thay đổi và chấm dứt quan hệ tài sản Quan hệ cấp dưỡng được thiết lập giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, trong đó bên cấp dưỡng phải chu cấp tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của bên được cấp dưỡng theo thỏa thuận hoặc quyết định của Tòa án Quan hệ này thể hiện qua việc chuyển giao tài sản, vì vậy được coi là quan hệ tài sản Đồng thời, quan hệ cấp dưỡng dựa trên hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng giữa những người có liên quan trong gia đình Quan hệ nhân thân trong Luật Hôn nhân và Gia đình mang tính bền vững, tồn tại ngay cả khi gia đình không còn, như trong trường hợp cha mẹ ly hôn, mối quan hệ với con cái vẫn duy trì cho đến khi cha mẹ hoặc con qua đời Do đó, quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân của các bên liên quan, với tư cách chủ thể đặc biệt như vợ chồng, cha mẹ con, anh chị em, ông bà cháu, không thể chuyển giao cho người khác.

Thứ hai, quan hệ cấp dƣỡng không mang tính đền bù, ngang giá, không diễn ra đồng thời

Quan hệ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và Gia đình khác với các quan hệ tài sản trong lĩnh vực dân sự, vì nó không dựa trên việc chuyển giao giá trị tài sản mà là nghĩa vụ pháp lý của người cấp dưỡng để hỗ trợ nhu cầu thiết yếu của bên được cấp dưỡng Điều này xuất phát từ trách nhiệm đạo đức trong gia đình, nơi các thành viên có nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, đặc biệt là khi một số người không thể tự nuôi sống bản thân Nghĩa vụ cấp dưỡng không yêu cầu hoàn trả và được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại, nhưng không đồng thời Luật quy định rõ ràng trách nhiệm của cha mẹ, con cái, ông bà và các thành viên trong gia đình trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng lẫn nhau Sự hỗ trợ này không chỉ mang tính vật chất mà còn đáp ứng nhu cầu tình cảm, tạo sự gắn bó giữa các thành viên Do đó, nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện trên tinh thần tự nguyện và không mang tính tuyệt đối, chỉ phát sinh trong những trường hợp và điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, quan hệ cấp dƣỡng chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dƣỡng

Quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng là nền tảng cho sự hình thành và phát triển quan hệ gia đình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam quy định mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cùng với quyền và nghĩa vụ tương ứng Trong đó, nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những trách nhiệm quan trọng, không chỉ mang tính đạo đức mà còn là trách nhiệm pháp lý Phạm vi cấp dưỡng được xác định rõ trong Luật Hôn nhân và Gia đình.

2000 chỉ phát sinh giữa các chủ thể trong gia đình Điều 50 Luật HN&GĐ 2000 có

4 Điều 34, Điều 35 Luật HN&GĐ

Theo Điều 49 của Luật Hôn nhân và Gia đình, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa các thành viên trong gia đình, bao gồm cha mẹ và con cái, anh chị em, ông bà và cháu, cũng như giữa vợ và chồng Luật này quy định rõ ràng về trách nhiệm cấp dưỡng trong các mối quan hệ gia đình.

Trong gia đình, ngoài mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, còn tồn tại các mối quan hệ khác như giữa cháu với cô, dì, chú, bác ruột Tuy nhiên, theo quy định pháp luật, những mối quan hệ này không phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng hay cấp dưỡng, mặc dù họ có cùng huyết thống và thuộc hàng thừa kế thứ ba theo Điều 676 Bộ luật Dân sự.

Mối quan hệ giữa cháu và các cô, dì, chú, bác thường không gắn bó mật thiết như giữa cha mẹ và con cái, hay ông bà và cháu Họ đều có gia đình riêng và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng vợ, chồng, con cái của mình, do đó không thể bị bắt buộc phải cấp dưỡng cho cháu Hơn nữa, một cháu có thể có nhiều cô, dì, chú, bác ruột, làm cho việc xác định ai có nghĩa vụ cấp dưỡng trở nên khó khăn.

Thứ tƣ, nghĩa vụ cấp dƣỡng là nghĩa vụ bổ sung

Mặc dù cả nuôi dưỡng và cấp dưỡng đều nhằm mục đích chăm lo cho cuộc sống của người thân, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi nghĩa vụ nuôi dưỡng không được thực hiện đầy đủ Nuôi dưỡng không chỉ bao gồm việc cung cấp lợi ích vật chất mà còn cả sự chăm sóc về mặt tinh thần Khi sống chung, việc chăm lo cho người thân diễn ra một cách tự giác, nhưng nếu người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không thực hiện hoặc không còn sống chung, họ phải chuyển sang nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo nhu cầu vật chất tối thiểu cho người cần được nuôi dưỡng Do đó, cấp dưỡng có thể được xem như một hình thức khác của nuôi dưỡng.

Thứ năm, nghĩa vụ cấp dƣỡng mang tính cụ thể, riêng biệt

Nghĩa vụ cấp dưỡng được xác định dựa trên hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, và chỉ áp dụng giữa những chủ thể có tư cách đặc biệt trong hôn nhân và gia đình Các quan hệ này là bất biến, đặc biệt là quan hệ huyết thống, không thể thay đổi bằng thỏa thuận cá nhân Ngay cả khi hôn nhân tan vỡ, như trong trường hợp ly hôn, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong những tình huống đặc biệt vì lý do tình nghĩa Quyền và nghĩa vụ này không thể chuyển nhượng hay bù trừ cho cá nhân khác, và người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải tự mình thực hiện việc cung cấp tài sản cho người được cấp dưỡng Hơn nữa, người được cấp dưỡng cũng không thể chuyển giao quyền của mình cho người khác, vì mục đích của nghĩa vụ cấp dưỡng là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của họ.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 309 BLDS 2005, bên có quyền yêu cầu cấp dưỡng không thể chuyển nhượng quyền yêu cầu này cho người khác Nghĩa vụ cấp dưỡng, gắn liền với nhân thân, không thể chuyển nhượng hoặc thay thế bằng nghĩa vụ khác Thêm vào đó, Khoản 3 Điều 381 BLDS 2005 cũng khẳng định rằng nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ dân sự không được bù trừ, tương tự như quy định trong Luật HN&GĐ 2000.

1.4 Chế định cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám 1945 đến năm 2000

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, pháp luật Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến thời kỳ Pháp thuộc đã đề cập đến nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng chưa rõ ràng Cụ thể, vấn đề cấp dưỡng chủ yếu được quy định về tiền cấp dưỡng cho vợ và con sau khi ly hôn, theo Điều 144 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 142.

Chế định cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám

Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 đã dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 2/9/1945 Trước những biến đổi lịch sử và xã hội, các chế định trong Bộ dân luật cũ về hôn nhân và gia đình đã trở nên không còn phù hợp Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được ban hành năm 1946 đã ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới, dân chủ và tiến bộ Năm 1950, nhà nước đã ban hành hai sắc lệnh quan trọng về hôn nhân và gia đình, bao gồm Sắc lệnh 97 sửa đổi một số quy định trong dân luật và Sắc lệnh 159 quy định về ly hôn.

Sắc lệnh 97 đã thiết lập các nguyên tắc mới về quyền tự lập của con đã thành niên trong hôn nhân, quyền tái giá và quyền bình đẳng vợ chồng Đồng thời, Sắc lệnh 159 cũng bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn, quy định rằng Tòa án sẽ dựa vào quyền lợi của con để quyết định người nuôi dưỡng, thay vì ưu tiên giao cho cha như trước đây Đặc biệt, lần đầu tiên, pháp luật quy định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau ly hôn, yêu cầu cả hai bên cùng chịu trách nhiệm nuôi dạy con theo khả năng của mình.

Quy định về trách nhiệm của cha mẹ trong việc nuôi nấng, giáo dục con thể hiện rõ ràng vai trò quan trọng của cả cha và mẹ trong việc chăm sóc và phát triển con cái Theo đó, việc nuôi dưỡng con không chỉ là trách nhiệm của một bên, mà cần sự tham gia và chia sẻ của cả hai cha mẹ để đảm bảo sự phát triển toàn diện của con.

Mặc dù hiện tại, việc cấp dưỡng chủ yếu chỉ áp dụng giữa cha mẹ và con cái sau khi ly hôn, nhưng hai sắc lệnh này đã đóng góp quan trọng trong việc loại bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu Đặc biệt, các quy định tiến bộ trong Sắc lệnh 159 sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển các quy định bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn trong tương lai.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi vào năm 1945 đã dẫn đến sự chia cắt đất nước thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa và miền Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp Đến cuối những năm 50, miền Bắc đã hoàn thành cải cách ruộng đất và chuẩn bị các điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến Do đó, việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân và gia đình trở thành yêu cầu cấp bách nhằm thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Ngày 29/12/1959, Luật Hôn nhân và Gia đình đầu tiên của nhà nước ra đời, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hiện đại hóa đời sống xã hội.

1959 đề cập đến vấn đề cấp dưỡng một cách cụ thể hơn các văn bản trước đây Điều

Theo Điều 30 chương V Luật Hôn nhân và Gia đình 1959, khi ly hôn, bên nào gặp khó khăn tài chính có quyền yêu cầu cấp dưỡng từ bên kia, và mức cấp dưỡng sẽ phụ thuộc vào khả năng của bên đó Thời gian và số tiền cấp dưỡng sẽ được hai bên thỏa thuận; nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án nhân dân sẽ can thiệp để quyết định Đặc biệt, khi người nhận cấp dưỡng kết hôn với người khác, họ sẽ không còn quyền nhận cấp dưỡng nữa.

Luật HN&GĐ 1959 quy định rõ trách nhiệm cấp dưỡng của vợ chồng đối với con chưa thành niên sau ly hôn tại Điều 32, nêu rõ rằng việc giao quyền nuôi dưỡng con phải dựa trên lợi ích toàn diện của trẻ Cả hai vợ chồng đều có nghĩa vụ chia sẻ chi phí nuôi dưỡng và giáo dục con cái, tùy thuộc vào khả năng tài chính của mỗi người Ngoài ra, luật cũng cho phép thay đổi quyền nuôi dưỡng và mức đóng góp vào chi phí nuôi dạy con nhằm bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ.

Chương V của Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 đã quy định chi tiết về nghĩa vụ cấp dưỡng, cho thấy sự hoàn thiện ngày càng cao để đáp ứng nhu cầu thực tiễn một cách cơ bản nhất.

Ngày 18/12/1980, Hiến pháp 1980 được ban hành, xác định các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) Trước sự thay đổi của tình hình kinh tế xã hội, việc áp dụng Luật HN&GĐ 1959 về cấp dưỡng đã trở nên không còn phù hợp Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, dự thảo Luật HN&GĐ đã được Quốc hội khóa VII thông qua vào ngày 29/12/1986 và chính thức có hiệu lực từ ngày 03/01/1987 Luật HN&GĐ 1986 kế thừa và phát triển từ Luật HN&GĐ 1959, với các quy định về cấp dưỡng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với điều kiện thực tế hiện nay.

Năm 1986, Luật Hôn nhân và Gia đình đã bổ sung quy định cụ thể về nghĩa vụ đóng góp phí tổn nuôi dưỡng con tại Điều 45, quy định rằng người không nuôi giữ con có trách nhiệm thăm nom, chăm sóc và phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con Nếu họ trì hoãn hoặc lẩn tránh nghĩa vụ này, Tòa án nhân dân có quyền quyết định khấu trừ từ thu nhập hoặc buộc họ phải nộp các khoản phí tổn liên quan Quy định này tạo cơ sở vững chắc để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, ngăn chặn tình trạng trốn tránh trách nhiệm.

Trong suốt thời gian 14 năm thi hành các quy định này, Luật HN&GĐ năm

Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 đã bộc lộ những hạn chế nhất định do sự biến chuyển của các quan hệ xã hội cùng với điều kiện kinh tế, chính trị Để khắc phục những lỗ hổng này, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 ra đời, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật Đặc biệt, pháp luật về cấp dưỡng được quy định đồng bộ, thống nhất trong một chương riêng từ Điều 50 đến Điều 62 Đây là lần đầu tiên khái niệm cấp dưỡng được trình bày một cách hoàn chỉnh, xác định rõ đối tượng, phương thức, điều kiện và mục đích của quan hệ cấp dưỡng.

Pháp luật hôn nhân và gia đình, đặc biệt là chế định về cấp dưỡng, đã được hoàn thiện từ sau Cách mạng tháng Tám, nhằm phù hợp với sự phát triển của các quan hệ xã hội Điều này không chỉ phát huy bản chất cách mạng mà còn kế thừa các giá trị truyền thống, hướng tới việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.

NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG GIỮA CHA, MẸ VÀ CON SAU KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn đối với con

Hôn nhân là sự gắn kết tự nguyện giữa nam và nữ, nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, bình đẳng và bền vững Là một thiết chế xã hội, hôn nhân đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành gia đình, tế bào của xã hội, và một mối quan hệ vợ chồng hạnh phúc là điều kiện tiên quyết để xây dựng xã hội tốt đẹp Khi hôn nhân gặp khó khăn và không còn khả năng duy trì, ly hôn trở thành giải pháp hợp lý Pháp luật và xã hội công nhận quyền tự do kết hôn và ly hôn, ảnh hưởng đến các mối quan hệ gia đình, đặc biệt là giữa cha mẹ và con cái Do đó, hôn nhân, bao gồm cả kết hôn và ly hôn, cần được điều chỉnh bởi pháp luật Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 quy định rõ ràng về kết hôn và ly hôn, từ Điều 9 đến Điều 14 cho kết hôn và từ Điều 85 đến Điều 99 cho ly hôn, nhằm điều chỉnh các tình huống thực tế phát sinh.

Ly hôn được định nghĩa là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận theo yêu cầu của vợ hoặc chồng Đây là một chế định trong Luật Hôn nhân và Gia đình, giúp Tòa án và các bên giải quyết vấn đề chấm dứt hôn nhân một cách hợp lý Mặc dù ly hôn có mặt tích cực là giải phóng các bên khỏi khủng hoảng hôn nhân, nhưng nó cũng gây ra hậu quả tiêu cực, đặc biệt là sự tan vỡ của gia đình và ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ em Trẻ em có cha mẹ ly hôn thường chịu thiệt thòi, dễ mặc cảm và có thể rơi vào tình trạng tự kỷ hoặc trầm cảm Một số trẻ khác lại có hành vi nổi loạn để thu hút sự chú ý Khi thiếu sự quan tâm của cha mẹ trong giai đoạn phát triển, trẻ dễ bị lợi dụng và sa vào tệ nạn xã hội, tạo thêm gánh nặng cho xã hội Theo thống kê, 71% trẻ vị thành niên phạm pháp không được quan tâm đúng mức, trong đó 8% trẻ có bố mẹ ly hôn và 28% cho biết bố mẹ không đáp ứng nhu cầu cơ bản của mình.

Khi cha mẹ ly hôn, trẻ em chỉ có thể sống cùng một trong hai người, dẫn đến việc chúng không nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc đầy đủ từ cả cha lẫn mẹ như trước đây Nhiều trường hợp, một trong hai phụ huynh sau ly hôn không quan tâm đến cuộc sống của con cái và không thực hiện trách nhiệm nuôi dưỡng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi và sự phát triển của trẻ.

Việc pháp luật Hôn nhân và Gia đình quy định riêng về nghĩa vụ cấp dưỡng, đặc biệt là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái khi ly hôn, mang lại ý nghĩa thiết thực Cấp dưỡng không chỉ hỗ trợ tài chính cho con mà còn đảm bảo quyền lợi và sự phát triển toàn diện của trẻ trong bối cảnh gia đình không còn trọn vẹn.

7 Thống kê của tòa án nhân dân tối cao về các vụ ly hôn từ năm 2000 đến 2008.

Chế định cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2000

đã và đang gánh chịu

2.2 Chế định cấp dƣỡng giữa cha, mẹ và con sau khi vợ chồng ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2000

2.2.1 Chủ thể được cấp dưỡng khi cha, mẹ ly hôn

Chủ thể là yếu tố quan trọng trong quan hệ pháp luật, đặc biệt trong quan hệ cấp dưỡng Trong mỗi quan hệ pháp luật, luôn tồn tại chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ, thể hiện sự song hành giữa quyền của một bên và nghĩa vụ của bên kia.

Chủ thể của nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, với quan hệ cấp dưỡng phát sinh giữa các thành viên trong gia đình dựa trên ba cơ sở: quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng Mối quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con cái tồn tại vững bền, không bị ảnh hưởng bởi việc ly hôn của cha mẹ, do đó, nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn phải được thực hiện Quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng được duy trì, bất chấp việc cha mẹ nuôi có ly hôn hay không, theo quy định của Luật nuôi con nuôi 2010 Vì vậy, khi cha mẹ ly hôn, họ vẫn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với con cái.

Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của con cái, theo quy định của pháp luật Nghĩa vụ này bao gồm việc nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật hoặc không có khả năng lao động, khi họ sống chung với nhau Trong trường hợp đặc biệt như ly hôn, nghĩa vụ nuôi dưỡng chuyển thành nghĩa vụ cấp dưỡng, với người không trực tiếp nuôi con phải đóng góp tài chính hoặc hiện vật để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con.

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, quyền nhận cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn được chia thành hai nhóm: nhóm đầu tiên là con chưa thành niên, và nhóm thứ hai là con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân.

Theo Điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, được thông qua bởi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 20/11/1989, trẻ em được định nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quy định tuổi thành niên sớm hơn Tại Việt Nam, Bộ luật dân sự xác định người chưa thành niên là những người chưa đủ mười tám tuổi, theo Điều 18 BLDS 2005 Luật pháp Việt Nam cũng quy định các chế định riêng cho người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể, nhằm bảo vệ quyền lợi và sự phát triển của trẻ em Khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ.

8 Điều 25 của Luật nuôi con nuôi 2010 về căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi:

1 Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;

2 Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;

3 Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;

4 Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này

Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định rõ ràng về tinh thần của con người, được cụ thể hóa qua các giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật Dựa trên cơ sở này, pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.

Cha mẹ có trách nhiệm yêu thương, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và đạo đức Nghĩa vụ này được quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 Trẻ chưa thành niên chưa phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý và khả năng nhận thức, không thể tự nuôi sống bản thân Do đó, việc cha mẹ không sống chung vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi ly hôn là hợp lý và hợp tình, dựa trên mối liên hệ gắn bó giữa cha mẹ và trẻ, cũng như trạng thái chưa thành niên của trẻ, giai đoạn mà trẻ cần được chăm sóc và hỗ trợ.

Cấp dưỡng của cha mẹ với con chưa thành niên là loại cấp dưỡng có thời hạn

Theo nguyên tắc, nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ sẽ kết thúc khi con đã đủ tuổi trưởng thành và có khả năng tự lao động để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân.

Nhóm thứ hai: con đã thành niên

Khi con đã thành niên, cha mẹ thường không còn nghĩa vụ cấp dưỡng Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt như con bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống, cha mẹ vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ này.

* Con đã thành niên bị tàn tật

Năm 2010, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thay đổi thuật ngữ từ “người tàn tật” sang “người khuyết tật” trong các bộ luật liên quan, nhằm mang lại ý nghĩa tích cực hơn Thuật ngữ “khuyết tật” được cho là thể hiện sự suy giảm chức năng nhưng vẫn còn khả năng phục hồi và hy vọng, trong khi “tàn tật” gợi lên hình ảnh tiêu cực, khiến người ta cảm thấy không còn khả năng và tương lai Sự thay đổi này không chỉ phản ánh sự nhạy cảm trong ngôn ngữ mà còn góp phần nâng cao nhận thức và hỗ trợ cho những người khuyết tật trong xã hội.

Người khuyết tật được định nghĩa là những cá nhân có khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng, gây khó khăn trong lao động, sinh hoạt và học tập Theo y học, khuyết tật được phân loại thành nhiều dạng như khuyết tật vận động, nghe, nói, nhìn, và thần kinh, trí tuệ, cùng với ba mức độ: khuyết tật đặc biệt nặng, khuyết tật nặng và khuyết tật nhẹ Người khuyết tật thường gặp nhiều trở ngại trong cuộc sống, bao gồm khó khăn kinh tế do không đủ sức khỏe làm việc và áp lực tâm lý từ sự phân biệt đối xử trong xã hội Do đó, việc hỗ trợ y tế và xã hội cho người khuyết tật là rất cần thiết Nhà nước cũng cần xây dựng các văn bản pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền lợi của họ Theo quy định, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đã thành niên bị tàn tật, và mức độ khuyết tật của con sẽ ảnh hưởng đến nghĩa vụ này Đặc biệt, đối với những người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng, việc cấp dưỡng là rất quan trọng để đảm bảo họ có thể sống tự lập và thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cá nhân.

10 Khoản 1 Điều 2 Luật người khuyết tật 2010

11 Khoản 1 Điều 3 Luật người khuyết tật 2010

Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Người Khuyết Tật 2010, việc bảo tồn sự sống là rất quan trọng Tuy nhiên, đối với người con thành niên bị khuyết tật nhẹ, nếu họ vẫn có khả năng thể chất và trí tuệ bình thường, đồng thời có khả năng lao động và tài sản tự nuôi sống bản thân, thì không cần cha mẹ cấp dưỡng sau khi ly hôn.

* Con đã thành niên bị mất NLHVDS

Theo quy định của pháp luật dân sự, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình sẽ được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự (NLHVDS) dựa trên kết luận của tổ chức giám định Một người chỉ được coi là mất NLHVDS khi có quyết định của Tòa án Khác với người khuyết tật, người mất NLHVDS có thể có cơ thể khỏe mạnh nhưng lại bị khuyết tật về trí tuệ, không còn khả năng nhận thức và tự chủ, do đó không thể lao động kiếm sống Cha mẹ, với vai trò là người thân thiết nhất, có trách nhiệm nuôi dưỡng con, nhưng nếu không thể thực hiện nghĩa vụ này, họ cần cấp dưỡng cho con không sống chung.

* Con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình

+ Không có khả năng lao động:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG GIỮA CHA MẸ VÀ CON SAU KHI VỢ CHỒNG LY HÔN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam (2012), trường ĐH Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức, Hội luật gia Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Tác giả: Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2012
2. Tập bài giảng Luật HNGĐ, Đại học Luật TP.HCM năm 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập bài giảng Luật HNGĐ
3. Đinh Thị Mai Phương (2004), Bình luận khoa học Luật HNGĐ năm 2000, Bộ tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Luật HNGĐ năm 2000
Tác giả: Đinh Thị Mai Phương
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia
Năm: 2004
4. Nguyễn Lân (2000), Từ điển tiếng việt, NXB TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển tiếng việt
Tác giả: Nguyễn Lân
Nhà XB: NXB TP.HCM
Năm: 2000
5. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (2000), Pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam xưa và nay
Tác giả: Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2000
6. Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam, TP.HCM, Nxb Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điện
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2002
8. Nguyễn Ngọc Điệp (2001), Hỏi đáp về ly hôn, Nxb. TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hỏi đáp về ly hôn
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điệp
Nhà XB: Nxb. TP.HCM
Năm: 2001
10. Những điều cần biết về pháp luật hôn nhân gia đình (2002), Bộ tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia.III. Báo, tạp chí Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những điều cần biết về pháp luật hôn nhân gia đình
Tác giả: Những điều cần biết về pháp luật hôn nhân gia đình
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia. III. Báo
Năm: 2002
1. Đinh Công Tráng (2003), “Một số vấn đề về cấp dưỡng nuôi con trong thi hành án”, Tạp chí Tòa Án nhân dân, (4), tr.11-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Một số vấn đề về cấp dưỡng nuôi con trong thi hành án”
Tác giả: Đinh Công Tráng
Năm: 2003
2. Th.s Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Duy Phượng (2012), “Về mức cấp dưỡng nuôi con chung trong giải quyết vụ việc ly hôn”, Tạp chí Tòa Án nhân dân, (16), tr.15- 17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Về mức cấp dưỡng nuôi con chung trong giải quyết vụ việc ly hôn”
Tác giả: Th.s Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Duy Phượng
Năm: 2012
3. Nguyễn Phương Lan (2001), “Vấn đề cấp dưỡng trong luật Hôn nhân gia đình năm 2000”, Tạp chí luật học,(1), tr.34-39 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Vấn đề cấp dưỡng trong luật Hôn nhân gia đình năm 2000”
Tác giả: Nguyễn Phương Lan
Năm: 2001
4. Phạm Xuân Linh (2006), “Bàn về chế định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (9), tr.46-50.IV. Website Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bàn về chế định nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000”
Tác giả: Phạm Xuân Linh
Năm: 2006
2. Luật hôn nhân và gia đình 1959, 1986, 2000 3. Bộ luật dân sự 2005 Khác
10. Sắc lệnh 97 ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật Khác
12. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 Khác
13. Nghị định số 110/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình Khác
14. Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000.II. Giáo trình, sách tham khảo Khác
7. Nguyễn Thế Giai (2002), Giải đáp 175 câu hỏi Luật HN&GĐ, Nxb. Chính trị quốc gia Khác
9. Ngô Văn Thâu (2005), Pháp luật về HN&GĐ trước và sau cách mạng tháng 8 Khác
1. Bản án số 06/2013/HNGĐ-ST của TAND huyện Bến Cầu tỉnh Tây Ninh về tranh chấp cấp dưỡng nuôi con Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w