LÃI CHẬM TRẢ TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN KHÔNG CÓ LÃI THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Căn cứ phát sinh lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi
1.1.1 Căn cứ phát sinh lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi và có kỳ hạn
Theo quy định tại Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005, trong trường hợp vay không có lãi, nếu bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ khi đến hạn, bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố Tuy nhiên, theo Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả lãi theo mức lãi suất quy định trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ khi có thỏa thuận khác Dù pháp luật không định nghĩa cụ thể “lãi chậm trả”, nhưng bản chất của “lãi chậm trả” và “số tiền chậm trả” đều là khoản lãi mà bên vay phải trả thêm cho bên cho vay khi không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn.
Theo quy định hiện hành, nghĩa vụ trả lãi chậm trong hợp đồng vay tiền không lãi và có kỳ hạn được xác định dựa trên Bộ luật Dân sự năm 2005.
Năm 2015, các quy định đều tương tự nhau, dựa trên nguyên tắc "khi đến hạn, bên vay không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ", bên vay sẽ phải chịu trách nhiệm về việc trả lãi chậm Tuy nhiên, điều kiện về việc tính lãi chậm trả lại có sự khác biệt đáng lưu ý.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, trong trường hợp vay không có lãi, nếu bên vay không trả nợ đúng hạn hoặc trả không đầy đủ, bên vay phải trả lãi chậm trả theo lãi suất cơ bản nếu có thỏa thuận trong hợp đồng Tòa án chỉ có thể yêu cầu bên vay trả lãi chậm nếu hợp đồng có quy định về việc này; nếu không có thỏa thuận, bên vay không có nghĩa vụ trả lãi chậm Mặc dù vậy, theo hướng dẫn tại mục 1.2.1 của Sổ tay Thẩm phán năm 2009, nếu bên cho vay thông báo đòi nợ mà bên vay không trả, thì ngày sau đó được coi là ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán Trong trường hợp này, bên vay vẫn phải trả một khoản lãi chậm thực hiện nghĩa vụ, được tính theo lãi suất cơ bản.
Theo quy định tại BLDS năm 2005, khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng hạn, họ phải trả lãi chậm trả cho bên cho vay, bất kể hợp đồng có quy định điều này hay không Tuy nhiên, hướng dẫn hiện tại lại trái với quy định tại khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005 Hơn nữa, việc coi lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền theo khoản 4 Điều 474 và lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo khoản 2 Điều 305 là giống nhau là không chính xác, vì hai điều khoản này có nội dung và quy định khác nhau.
3 http://www.toaan.gov.vn/ebb_data/all_ebb.html [truy cập ngày 20/12/2017]
Theo Khoản 2 Điều 305 Bộ Luật Dân sự năm 2005, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền phải chịu trách nhiệm dân sự bằng cách trả lãi cho số tiền chậm trả Quy định này áp dụng cho các hợp đồng dân sự chung, bao gồm cả trường hợp thi hành án Trong khi đó, thỏa thuận về lãi suất chậm trả theo Khoản 4 Điều 474 là quy định riêng biệt trong hợp đồng vay tiền khi bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
Trong thực tiễn xét xử, hầu hết các Tòa án áp dụng quy định về nghĩa vụ trả lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Sổ tay Thẩm phán năm 2009 Điều này diễn ra mặc dù các bên trong hợp đồng vay tiền không có thỏa thuận về việc trả lãi chậm theo quy định tại khoản 4 Điều 474 Bộ luật Dân sự.
Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa bà Nguyễn Thị Hòa và bà Trần Thị Thu diễn ra vào năm 2012, khi bà Hòa cho bà Thu vay 100.600.000 đồng mà không có thỏa thuận về lãi suất Sau khi bà Thu vi phạm nghĩa vụ trả nợ, bà Hòa đã khởi kiện yêu cầu trả gốc và lãi Tòa án chấp nhận yêu cầu trả nợ gốc, nhưng đã điều chỉnh số tiền tính lãi, xác định gốc thực tế là 96.000.000 đồng Lãi suất được tính từ tháng 9/2012 đến tháng 2/2014 theo mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 12.240.000 đồng Tuy nhiên, Tòa án không xem xét rõ ràng thỏa thuận về lãi suất trong hợp đồng vay, mà vẫn chấp nhận yêu cầu tính lãi, điều này có thể gây ra tranh cãi về tính hợp pháp của quyết định.
Bản án số 48/2014/DS-ST, ngày 25/02/2014 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, liên quan đến "Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản", đã được giải quyết theo hướng dẫn trong Sổ tay Thẩm phán năm 2009 của Tòa án nhân dân tối cao.
Dựa trên thực tiễn xét xử và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, tác giả nhận định rằng quy định về nghĩa vụ trả lãi chậm trả tại khoản 4 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2015 cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính hợp lý và công bằng trong các giao dịch dân sự.
Theo quy định năm 2005, việc yêu cầu "nếu có thỏa thuận" trong trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ là không cần thiết Khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ, họ phải chịu trách nhiệm trả lãi chậm trả cho bên cho vay Điều này thể hiện nghĩa vụ bắt buộc của bên vay đối với bên cho vay, vì vậy việc quy định "nếu có thỏa thuận" là không phù hợp.
Theo quy định mới của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, nghĩa vụ trả lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi và có kỳ hạn đã có sự thay đổi so với BLDS năm 2005 Cụ thể, tại khoản 4 Điều 466, BLDS năm 2015 quy định rằng nếu bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ khi đến hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468.
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã loại bỏ cụm từ “nếu có thỏa thuận” so với BLDS năm 2005, cho thấy sự thay đổi trong quy định về nghĩa vụ trả lãi Tác giả ủng hộ quy định tại khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015 về nghĩa vụ trả lãi chậm, vì nó phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật và khẳng định rằng việc trả lãi là một nghĩa vụ bắt buộc của bên vay đối với bên cho vay, không cần thỏa thuận riêng trong hợp đồng vay tiền.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những cải tiến về quy định nghĩa vụ trả lãi chậm so với Bộ luật Dân sự năm 2005, nhưng vẫn tồn tại sự không rõ ràng và thiếu thống nhất trong quy định về quyền yêu cầu trả lãi và nghĩa vụ trả lãi chậm của cả hai Bộ luật này.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005, bên vay có nghĩa vụ trả lãi khi đến hạn không trả nợ hoặc trả không đầy đủ Tuy nhiên, khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015 lại chỉ quy định bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi mà không nêu rõ nghĩa vụ của bên vay Điều này dẫn đến sự thiếu rõ ràng trong quy định pháp luật về trách nhiệm trả lãi trong quan hệ hợp đồng vay tiền Tác giả đề xuất cần sửa đổi quy định tại khoản 4 Điều 466 BLDS 2015, kết hợp các quy định của hai bộ luật, để làm rõ rằng bên vay phải trả tiền lãi cho bên cho vay theo mức lãi suất quy định, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc luật quy định khác.
1.1.2 Căn cứ phát sinh lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi và không có kỳ hạn
Mức lãi suất chậm trả
Pháp luật dân sự có đề cập đến thuật ngữ lãi và lãi suất nhưng không có nêu khái niệm lãi và lãi suất
Lãi được định nghĩa là khoản tiền chênh lệch giữa thu và chi trong quá trình kinh doanh, hoặc khoản tiền người vay phải trả thêm cho chủ nợ ngoài số tiền đã vay Theo góc độ pháp lý, lãi là khoản tiền mà bên vay, bên huy động, hoặc bên thuê trả cho bên cho vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền, hoặc bên cho thuê để sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê Lãi được tính dựa trên số vốn, thời gian sử dụng và lãi suất Trong hợp đồng vay tiền, khái niệm lãi này được đồng thuận.
6 Viện ngôn ngữ học (2013), Từ điển tiếng Việt phổ thông (tái bản có bổ sung và sửa chữa),Nxb Phương Đông, Cà Mau, tr.220
Theo Khoản 1 Điều 2 của Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001, lãi suất được xác định là phần giá trị gia tăng tính trên số tiền gốc ban đầu, được tính theo đơn vị thời gian từ lúc ký hợp đồng cho đến khi thanh toán xong.
Lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm giữa lãi và vốn, theo Từ điển tiếng Việt Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm lãi suất trong hợp đồng vay tiền, nhưng tác giả đồng ý với khái niệm rằng lãi suất là tỷ lệ phần trăm nhất định tính trên tổng số tài sản vay và kỳ hạn vay mà bên vay phải trả cho bên cho vay, cộng thêm vào số tiền hoặc vật đã vay.
Theo quy định của pháp luật dân sự thì mức lãi suất chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi được quy định như sau:
1.2.1 Mức lãi suất chậm trả theo thỏa thuận
Trước đây, theo khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005, lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng vay tiền không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố Hiện nay, theo khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền điều chỉnh mức lãi suất này và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất Nếu lãi suất thỏa thuận vượt quá mức giới hạn, phần lãi suất vượt quá sẽ không có hiệu lực.
Như vậy, mức lãi suất thỏa thuận cho vay trong hợp đồng vay tiền quy định tại BLDS năm 2015 có khác so với BLDS năm 2005
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng vay tiền dựa trên lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố Mức trần lãi suất thỏa thuận không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản cho loại cho vay tương ứng.
Năm 2005, không có quy định cụ thể về mức lãi suất cơ bản, và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được giao nhiệm vụ công bố lãi suất này Mục đích của việc ban hành lãi suất cơ bản bởi NHNN nhằm điều tiết và ổn định thị trường tài chính.
8 Đinh Văn Sơn (2015), Lãi trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ - Trường Đại học Luật
9 Viện ngôn ngữ học (2013), tldd (6), tr.476
Theo Đỗ Văn Đại (2013), mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố là 9%/năm (0,75%/tháng) theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN, và mức lãi suất này thường xuyên thay đổi hàng tháng, ảnh hưởng đến lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng Trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực, Tòa án căn cứ vào mức lãi suất cơ bản này để giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tiền Tuy nhiên, mức lãi suất thỏa thuận theo Bộ luật Dân sự năm 2005 cần dựa trên mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, nhưng thông tin này không phải ai cũng nắm rõ, gây khó khăn cho các bên vay tiền trong thực tiễn.
BLDS năm 2015 đã mang đến sự thay đổi đáng kể trong quy định về mức lãi suất thỏa thuận, khác biệt so với quy định của BLDS năm trước đó.
Luật dân sự năm 2015 đã quy định rõ ràng về mức lãi suất thỏa thuận cho vay trực tiếp, không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay Quy định này mang lại lợi ích cho cả hai bên trong việc thương thảo lãi suất trong hợp đồng vay tiền, đồng thời khắc phục những hạn chế của quy định về lãi suất qua trung gian trong luật dân sự năm 2005.
Mặc dù luật cho phép các bên tự thỏa thuận mức lãi suất cho vay, nhưng không quy định cụ thể về các loại lãi suất áp dụng Theo quy định tại khoản 4 và điểm a, b khoản, cần làm rõ các loại lãi suất được thỏa thuận trong hợp đồng cho vay.
Theo Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong hợp đồng vay tiền, các bên có thể thỏa thuận về các loại lãi suất như lãi trong hạn, lãi chậm trả và lãi quá hạn Mức lãi suất thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của số tiền vay Đối với hợp đồng vay không có lãi, nếu các bên có thỏa thuận mức lãi suất chậm trả từ 20%/năm trở xuống, bên vay vẫn phải trả lãi suất chậm trả khi đến hạn mà không thanh toán đầy đủ cho bên cho vay.
11 Nguyễn Minh Tuấn (2009), Bình luận BLDS, Nxb Lao động, Tr 341
12 Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam đồng
Khi các bên thỏa thuận lãi suất chậm trả và các loại lãi suất khác cao hơn mức quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, phần nợ gốc cho vay và mức lãi suất thỏa thuận vượt quá quy định của luật sẽ được giải quyết như thế nào? Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này Một quan điểm cho rằng nếu thỏa thuận lãi suất vượt quá mức cho phép thì thỏa thuận này sẽ bị vô hiệu, và khi giải quyết tại Tòa án, lãi suất sẽ được tính toán lại theo quy định của pháp luật, trong khi phần nợ gốc cho vay vẫn có hiệu lực Tác giả đồng tình với quan điểm này.
1.2.2 Mức lãi chậm trả theo luật định
Theo Điều 466 BLDS 2015, nếu hợp đồng vay không có lãi mà bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ, bên cho vay có quyền yêu cầu trả lãi suất theo Điều 468 cho số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật khác.
Như vậy, BLDS năm 2015 quy định mức lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi “theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm
2015 14 ”, tác giả nhận thấy quy định mức lãi suất này có phần bất cập, chưa phù hợp vì các lý do sau:
Mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 chỉ áp dụng cho trường hợp vay tiền có thỏa thuận lãi suất không rõ ràng hoặc có tranh chấp, trong khi mức lãi suất tại khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015 áp dụng cho hợp đồng vay tiền không có lãi Việc sử dụng mức lãi suất từ hợp đồng vay không có lãi cho hợp đồng vay có thỏa thuận lãi suất không rõ ràng là không phù hợp và bất cập, do bản chất của hai loại vay tiền này là khác nhau.
Thứ hai, mức lãi suất hiện nay quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm
Luật Dân sự năm 2015 quy định về lãi suất trong khoản 2, tuy nhiên, có nhiều cách hiểu không thống nhất về mức lãi suất này Cụ thể, mức lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468, trong khi khoản 1 này lại nêu rõ mức lãi suất thỏa thuận cho vay tối đa.
13 Đỗ Văn Đại (2010), “Lãi suất trần cho vay: Kinh nghiệm nước ngoài và hướng sửa đổi Bộ luật Dân sự”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8, tr 33
Thời điểm tính lãi chậm trả
Trong hợp đồng vay tiền không có lãi, nghĩa vụ trả lãi chậm trả phụ thuộc vào thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 lại không chỉ rõ thời điểm bắt đầu và kết thúc tính lãi chậm trả, gây khó khăn và thiếu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
1.3.1 Thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả
Theo Điều 466 BLDS năm 2015, bên vay tiền phải trả lãi chậm trả dựa trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả Thêm vào đó, hợp đồng vay tiền không có lãi được quy định tại khoản 1 Điều 469.
1 Điều 470 BLDS năm 2015 cũng không đề cập thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả
Trong thực tiễn xét xử, một số Tòa án xác định thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả từ ngày hoặc tháng đến hạn trả nợ Ví dụ, trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa bà Nguyễn Thị Hòa (nguyên đơn) và bà Trần Thị Thu (bị đơn), nguyên đơn yêu cầu bị đơn hoàn trả số tiền gốc vay là 100.600.000 đồng cùng với tiền lãi theo mức lãi suất quy định của Ngân hàng tính đến ngày xét xử sơ thẩm.
17 Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015
Trong vụ án này, tòa án đã xác định thời điểm tính lãi từ tháng 9/2012 đến tháng 02/2014 cho khoản vay gốc 100.000.000 đồng, tuy nhiên, tác giả cho rằng việc xác định thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả từ tháng đến hạn trả nợ là không chính xác Các bên đã thỏa thuận vay 01 tháng kể từ ngày 12/8/2012, do đó, thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả là từ ngày 13/9/2012, khi bị đơn không trả nợ cho nguyên đơn Lãi chậm trả cần được tính từ ngày 13/9/2012 đến ngày 25/02/2014, trên số tiền gốc thực tế là 96.000.000 đồng, dẫn đến tổng lãi chậm trả là 12.528.000 đồng Tuy nhiên, bản án chỉ buộc bị đơn trả 12.240.000 đồng, gây thiệt hại cho nguyên đơn 288.000 đồng.
Theo quan điểm của tác giả, nếu hợp đồng vay tiền có thỏa thuận về thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả, thì khi bên vay vi phạm nghĩa vụ, lãi suất sẽ được tính từ thời điểm đã thỏa thuận Nếu không có thỏa thuận này, theo khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015, thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả sẽ là "ngày tiếp theo của ngày đến hạn" đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và "ngày đã thông báo trả nợ" đối với hợp đồng vay không có kỳ hạn mà bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
1.3.2 Thời điểm kết thúc tính lãi chậm trả
Luật hiện hành không xác định rõ thời điểm kết thúc tình trạng lãi chậm trả Theo Khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015, lãi chậm trả chỉ được quy định dựa trên thời gian chậm trả theo Khoản 2 Điều 468 Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 468 chỉ nêu nghĩa vụ trả lãi đến thời điểm trả nợ mà không chỉ rõ thời điểm cụ thể của việc trả nợ.
Do luật không quy định rõ thời điểm kết thúc tính lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này Một số ý kiến cho rằng thời điểm kết thúc được tính đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm, trong khi đó một số khác lại cho rằng tính đến ngày xét xử phúc thẩm nếu có kháng cáo Ngoài ra, cũng có quan điểm cho rằng lãi chậm trả tính đến ngày làm đơn yêu cầu thi hành án Thực tiễn xét xử cho thấy, trong giai đoạn BLDS năm 2005 còn hiệu lực, đa số Tòa án áp dụng thời điểm kết thúc tính lãi đến khi xét xử sơ thẩm theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/TT-LT Đặc biệt, nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo nhưng cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, Tòa án phúc thẩm không tính lại thời điểm kết thúc tính lãi chậm trả, dẫn đến việc không phát sinh lãi trong khoảng thời gian từ khi xét xử sơ thẩm đến khi xét xử phúc thẩm.
Theo Điều 422 BLDS năm 2015, hợp đồng dân sự chấm dứt khi hoàn thành nghĩa vụ hoặc theo thỏa thuận của các bên Đối với hợp đồng vay tiền, luật chỉ quy định thời gian tính lãi chậm trả đến khi trả nợ, nhưng thực tiễn xét xử của Tòa án lại tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm theo Thông tư liên tịch số 01/TT-LT ngày 19/6/1997 Tuy nhiên, việc áp dụng Thông tư này là không đúng, vì nó chỉ hướng dẫn cho hợp đồng vay tiền theo BLDS năm 1995, đã không còn hiệu lực Hợp đồng vay tiền cũng thuộc loại hợp đồng dân sự, do đó bên có nghĩa vụ phải trả lãi cho đến khi hoàn tất nghĩa vụ trả nợ mà không bị gián đoạn, kể cả trong thời gian thi hành án Vì vậy, tác giả đề xuất cần quy định rõ thời điểm kết thúc tính lãi chậm trả của hợp đồng vay tiền, tương tự như quy định trong hợp đồng tín dụng, rằng "chừng nào nghĩa vụ thanh toán chưa được thực hiện, chừng đó còn phát sinh lãi chậm trả mà không có sự gián đoạn."
Khoản tiền dùng để tính lãi chậm trả
Theo Điều 466 BLDS năm 2015, nếu bên vay không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ khi đến hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu trả lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 468.
Vào năm 2015, quy định về lãi suất chậm trả chỉ áp dụng trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả Luật không chỉ rõ số tiền cụ thể để tính lãi chậm trả, mà chỉ nêu rõ rằng lãi suất này áp dụng cho số tiền chậm trả Theo tác giả, điều này liên quan đến tính chất của hợp đồng.
19 Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
Vay tiền không có lãi có nghĩa là số tiền bên vay chưa trả chính là số tiền gốc Do đó, số tiền dùng để tính lãi chậm trả sẽ là số tiền gốc chưa trả hoặc trả chưa đầy đủ cho bên cho vay.
Theo quy định, tiền lãi chậm trả trong hợp đồng vay không lãi được tính bằng công thức: nợ gốc nhân với mức lãi suất chậm trả và thời gian chậm trả.
Hiện nay, quy định về mức lãi suất chậm trả còn thiếu rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và những bất cập trong thực tiễn Giả sử mức lãi suất chậm trả là 10%/năm cho số tiền vay, lãi chậm trả sẽ được tính bằng công thức: [nợ gốc x (10%/năm tương đương 0,83%/tháng) x số tiền vay chưa trả x thời gian chậm trả].
Trong thực tiễn cho vay tiền, các bên thường thỏa thuận nhập khoản lãi chưa trả vào nợ gốc để tiếp tục cho vay Khi xảy ra tranh chấp, bên cho vay yêu cầu tính lãi trên cả số tiền lãi đã nhập vào gốc Tuy nhiên, hiện tại luật không có quy định rõ ràng về vấn đề này Theo Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997, tiền lãi chỉ được tính trên số nợ gốc, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định pháp luật khác Các bên có thể thỏa thuận về việc nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi cho thời hạn vay tiếp theo, nhưng để tránh lạm dụng, tòa án chỉ chấp nhận việc nhập lãi vào nợ gốc một lần đối với loại vay có kỳ hạn.
Kể từ khi ban hành Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và 2015, không có hướng dẫn cụ thể nào về việc nhập lãi vào nợ gốc Theo Dự thảo Nghị quyết 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, các bên có thể thỏa thuận về việc nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi cho thời gian vay tiếp theo Tuy nhiên, Tòa án chỉ chấp nhận việc này một lần tại thời điểm đến hạn trả nợ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ Trong các trường hợp khác, nợ gốc sẽ được tính theo lãi suất nợ quá hạn theo quy định của pháp luật.
Trong thực tiễn xét xử, một số Tòa án không chấp nhận việc nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi cho thời hạn vay tiếp theo Ví dụ cụ thể là trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Tòa án đã xác định rằng trong vụ án giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hòa và bị đơn bà Trần Thị Thu, giấy vay tiền ngày 12/8/2012 ghi rõ số tiền lãi là 4.000.000 đồng Do đó, tòa không chấp nhận số tiền lãi này trong tổng số tiền gốc cho vay là 100.000.000 đồng Số tiền gốc để tính lãi thực tế là 96.000.000 đồng (100.000.000 đồng - 4.000.000 đồng), dẫn đến số tiền lãi phải trả là 12.240.000 đồng, tính theo tỷ lệ 9%/năm trong 17 tháng.
Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho phép nhập lãi vào nợ gốc để tính lãi cho thời hạn vay tiếp theo nếu các bên thỏa thuận, điều này thể hiện sự tự nguyện của các bên và không vi phạm quy định pháp luật Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của bên cho vay, đồng thời nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của bên vay trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn, tránh gây thiệt hại cho bên cho vay.
Qua nghiên cứu các quy định về lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi có thể rút ra được một số kết luận như sau:
Theo quy định, nghĩa vụ trả lãi chậm trong hợp đồng vay tiền không có lãi và có kỳ hạn phát sinh từ thời điểm đến hạn trả nợ mà bên vay không thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ Đối với hợp đồng vay tiền không có lãi và không có kỳ hạn, lãi chậm trả sẽ được tính từ khi bên cho vay thông báo về việc trả nợ nhưng bên vay vẫn không thực hiện.
Lãi chậm trả bắt đầu được tính từ ngày sau ngày đến hạn trả nợ hoặc ngày thông báo trả nợ mà bên vay chưa thanh toán Thời gian tính lãi chậm trả sẽ kéo dài cho đến khi bên vay hoàn tất việc trả nợ cho bên cho vay.
Theo quy định mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, bên vay có nghĩa vụ trả lãi chậm trả cho bên cho vay mà không cần thỏa thuận trong hợp đồng vay tiền Quy định này nhằm khắc phục những bất cập của Bộ luật Dân sự năm 2005.
Theo quy định, lãi suất thỏa thuận cho vay không được vượt quá 20%/năm của số tiền vay Đồng thời, mức lãi suất chậm trả trong hợp đồng vay tiền không được tính lãi, theo quy định tại khoản 4 Điều 466 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Năm 2015, nhiều bất cập và sự không rõ ràng trong quy định về mức lãi suất chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi đã được chỉ ra Do đó, tác giả kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn cụ thể từ Tòa án nhân dân tối cao hoặc Quốc hội để sửa đổi các quy định này.
LÃI CHẬM TRẢ TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN CÓ LÃI
Căn cứ phát sinh lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền có lãi
2.1.1 Căn cứ phát sinh lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền có lãi và có kỳ hạn
Theo quy định tại điểm a, b khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ khoản vay có lãi đến hạn, bên vay phải trả lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng và lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 468 Cụ thể, lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả sẽ bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng, trừ khi có thỏa thuận khác Điều này cho thấy rằng quy định về việc phát sinh lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền có lãi và có kỳ hạn không khác biệt so với quy định tại khoản 5 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng như quy định trong hợp đồng vay tiền không có lãi tại khoản 4 Điều 466.
Theo Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, bên vay có nghĩa vụ trả ba khoản lãi: lãi trong hạn, lãi chậm trả và lãi quá hạn Điều này khác với quy định của BLDS năm 2005, nơi bên vay chỉ phải trả hai khoản lãi là lãi trong hạn và lãi quá hạn Ngoài ra, quy định trong hợp đồng vay tiền không có lãi theo khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015 cũng chỉ yêu cầu bên vay trả một khoản lãi chậm trả.
Có ý kiến cho rằng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về nghĩa vụ trả lãi chậm trả và các loại lãi khác trong khoản vay là không hợp lý, dẫn đến tình trạng lãi chồng lãi Để đánh giá tính hợp lý của quan điểm này, cần so sánh quy định về nghĩa vụ trả lãi chậm trả trong pháp luật dân sự với các quy định tương tự trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng mua bán hàng hóa Việc này sẽ giúp đưa ra nhận xét toàn diện hơn về vấn đề này.
Theo Khoản 5 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005, nếu bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền vay có lãi khi đến hạn, bên vay sẽ phải thanh toán lãi trên nợ gốc cùng với lãi suất nợ quá hạn Lãi suất này được tính theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, áp dụng cho thời gian vay tại thời điểm thanh toán nợ.
2.1.1.1 Quy định về nghĩa vụ trả lãi lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền có lãi và có kỳ hạn theo pháp luật sự
Mặc dù luật quy định rằng bên vay có nghĩa vụ trả lãi chậm trả theo hợp đồng vay tiền có lãi và có kỳ hạn, nhưng đến nay chưa có bản án nào áp dụng quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466 của BLDS năm 2015 để tính lãi chậm trả Tác giả cho rằng nguyên nhân chính là do người khởi kiện không yêu cầu trả lãi chậm trả, cùng với việc quy định về mức lãi suất chậm trả còn nhiều bất cập và thiếu rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng trong thực tiễn xét xử.
Trước ngày 01/01/2017, khi áp dụng quy định về nghĩa vụ trả lãi trong hợp đồng vay tiền có lãi, các Tòa án đã dựa vào khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005 để yêu cầu bên vay trả lãi trong hạn và lãi quá hạn, trong khi chưa có quy định về việc trả lãi chậm Một ví dụ điển hình là vụ án "Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản" giữa ông Nguyễn Văn Lèo và bà Lê Thị Thu Lệ, trong đó ông Lèo cho bà Lệ vay 300.000.000 đồng với thời hạn 04 tháng và lãi suất 5.000.000 đồng/tháng (tương đương 1,66%/tháng) Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà Lệ đã trả lãi cho ông Lèo.
Từ tháng 5 đến tháng 11/2013, bị đơn đã nợ tổng cộng 35.000.000 đồng nhưng sau đó không trả gốc và lãi cho nguyên đơn Do đó, nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán nợ vay, bao gồm nợ gốc 300.000.000 đồng và lãi từ tháng 12/2013 cho đến ngày xét xử sơ thẩm Tòa án đã căn cứ vào khoản 5 Điều 474 để giải quyết vụ án.
Theo Điều 476 BLDS năm 2005, chỉ một phần yêu cầu tính lãi của nguyên đơn được chấp nhận Cụ thể, bản án xác định rằng lãi suất 1,66%/tháng mà nguyên đơn yêu cầu vượt quá mức quy định của pháp luật Do đó, tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu tính lãi một phần, buộc bị đơn phải trả nợ cho nguyên đơn với số tiền vay gốc 300.000.000 đồng, cùng lãi trong hạn từ ngày 20/4/2013 đến ngày 20/8/2013 là 13.500.000 đồng (tính theo lãi suất 1,125%/tháng trong 4 tháng) Lãi quá hạn sẽ được tính từ ngày 20/8/2013 cho đến ngày xét xử sơ thẩm.
23 Phụ lục 4 Bản án số: 672/2014/DS-ST, ngày 26/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố
Trong vụ tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản tại Hồ Chí Minh, thẩm phán đã xác định số tiền lãi trong 13 tháng 6 ngày với lãi suất 0,75%/tháng là 29.700.000 đồng, tính từ số tiền vay 300.000.000 đồng Sau khi bị đơn đã thanh toán 35.000.000 đồng tiền lãi cho nguyên đơn, số tiền còn lại mà bị đơn phải thanh toán là 308.200.000 đồng, bao gồm cả gốc và lãi.
Trong vụ án dân sự "Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản" giữa bà Huỳnh Thị Kim Quí (nguyên đơn) và bà Nguyễn Thị Ngọc Danh (bị đơn), bị đơn đã vay 100.000.000 đồng từ nguyên đơn vào ngày 13/5/2011 với thời hạn 03 tháng và lãi suất 1,5%/tháng Tuy nhiên, bị đơn không thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn, dẫn đến việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu trả nợ gốc 100.000.000 đồng và lãi suất 29.500.000 đồng Tại phiên tòa, nguyên đơn chỉ yêu cầu trả lãi 25.000.000 đồng, và Tòa án đã chấp nhận yêu cầu này Mặc dù Tòa án áp dụng khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005 để buộc bị đơn trả lãi, nhưng không làm rõ lãi trong hạn hay lãi quá hạn, cũng như tính toán lãi suất phù hợp với quy định pháp luật Tác giả cho rằng Tòa án cần căn cứ vào mức lãi suất đã thỏa thuận và quy định tại Điều 476 và Điều 474 BLDS năm 2005 để tính lại lãi suất, dẫn đến tổng số tiền gốc và lãi chỉ là 104.875.000 đồng, gây thiệt hại cho bị đơn 24.625.000 đồng.
Qua thực tiễn xét xử hai bản án, cho thấy trong tranh chấp hợp đồng vay tiền có lãi và có kỳ hạn, nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn thanh toán khoản nợ gốc mà không yêu cầu lãi suất.
Bản án số 347/2013/DS-ST của Tòa án nhân dân quận 9, TP Hồ Chí Minh, liên quan đến tranh chấp hợp đồng vay tài sản, đã yêu cầu bên vay trả cả nợ gốc và các khoản lãi mà không nêu rõ các loại lãi cụ thể Việc Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn để buộc bên vay trả lãi trong hạn, lãi chậm trả và lãi quá hạn theo quy định tại Điều 466 BLDS năm 2015 hoặc Điều 474 BLDS năm 2005 là chưa thuyết phục, gây thiệt hại cho quyền lợi của bên vay tiền.
Theo quan điểm của tác giả, khi bên cho vay khởi kiện yêu cầu bên vay trả lãi tại Tòa án, Tòa án cần yêu cầu bên cho vay trình bày rõ ràng các khoản lãi yêu cầu, thời hạn tính lãi và mức lãi suất cụ thể Những thông tin này là cơ sở để Tòa án ra thông báo tạm ứng án phí và thụ lý vụ án, đồng thời xác định giới hạn và phạm vi giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
2.1.1.2 Quy định về nghĩa vụ trả lãi chậm trả trong hợp đồng tín dụng
Trong hợp đồng tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng thường thỏa thuận về lãi suất cho vay, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt như cho vay từ ngân hàng chính sách để hỗ trợ người nghèo mà không tính lãi Tuy nhiên, luật hiện hành chưa quy định cụ thể về mức lãi suất này, dẫn đến việc mỗi ngân hàng áp dụng các mức lãi suất khác nhau trong các hợp đồng vay.
Theo khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất và phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng, phù hợp với quy định pháp luật Trước đó, Điều 11 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN quy định rằng mức lãi suất cho vay cũng được thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, và mức lãi suất áp dụng cho khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định, không vượt quá 150% lãi suất cho vay đã ký kết.
Mức lãi suất chậm trả
2.2.1 Mức lãi chậm trả theo thỏa thuận
Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015 thì các bên được thỏa thuận mức suất cho vay nhưng không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay
Trong hợp đồng vay tiền có lãi, nếu các bên thỏa thuận về mức lãi suất chậm trả, thì lãi suất này không được vượt quá 20% mỗi năm của số tiền vay.
Trong hợp đồng vay tiền có lãi, các bên có quyền thỏa thuận mức lãi suất nhưng không bị ràng buộc bởi một mức cụ thể nào Theo quy định tại Điều 466 năm 2015, bên vay phải trả nợ cho bên cho vay bao gồm lãi trong hạn, lãi chậm trả và lãi quá hạn Tác giả cho rằng mức lãi suất chậm trả và các loại lãi khác (lãi trong hạn, lãi quá hạn) không vượt quá 20%/năm của số tiền vay là hợp lệ Nếu mức lãi suất thỏa thuận vượt quá 20%/năm, thì phần lãi suất vượt này sẽ bị coi là vô hiệu.
2.2.2 Mức lãi chậm trả theo luật định
Theo quy định tại Điều 466 BLDS năm 2015, mức lãi suất chậm trả trong hợp đồng vay tiền có lãi được xác định theo khoản 2 Điều 468, tương tự như mức lãi suất chậm trả trong hợp đồng vay tiền không có lãi theo khoản 4 Điều 466.
Năm 2015, mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 gặp nhiều bất cập và không còn phù hợp Do đó, tác giả đề xuất cần sửa đổi quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo phương án đã nêu ở mục 1.2.2 để cải thiện tình hình.
Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, trong trường hợp vay có lãi, nếu bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ khi đến hạn, bên vay phải thanh toán lãi suất như sau: lãi trên nợ gốc theo lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay chưa trả Ngoài ra, nếu chậm trả, bên vay còn phải trả lãi suất 10%/năm trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ khi có thỏa thuận khác.
Phương án 2 đề xuất duy trì mức lãi suất theo khoản a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời cần điều chỉnh quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo hai phương thức khác nhau.
Khi các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và phát sinh tranh chấp, lãi suất sẽ được tính là 10%/năm trên số tiền vay tại thời điểm trả nợ.
Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất và phát sinh tranh chấp, lãi suất sẽ được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn tối đa theo quy định tại khoản 1 Điều này vào thời điểm trả nợ.
Hiện nay, mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng vay tiền được quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, với lãi suất trần tối đa không vượt quá 20%/năm (tương đương 1,66%/tháng) Có nhiều quan điểm trái ngược về việc quy định lãi suất trực tiếp, một số cho rằng ưu điểm của quy định này lớn hơn so với việc áp dụng lãi suất cơ bản thông qua NHNN như trong BLDS năm 2005 Một số ý kiến cho rằng mức lãi suất hiện tại cao hơn hoặc thấp hơn so với thị trường Tuy nhiên, tác giả cho rằng việc quy định lãi suất trực tiếp theo BLDS năm 2015 và các quy định trước đó đều có những ưu nhược điểm riêng.
2005 đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó, nhưng việc quy định mức lãi suất trực tiếp hợp lý hơn vì các lý do sau:
Việc quy định mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 có ưu điểm là giúp điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, thuận lợi cho việc điều chỉnh khi nền kinh tế gặp lạm phát Tuy nhiên, nhược điểm lớn là mức lãi suất này không phản ánh đúng thực tế thị trường, khiến nhiều người vay tiền không nắm rõ thông tin Điều này dẫn đến việc thỏa thuận lãi suất vay có thể bị vô hiệu do thiếu hiểu biết về mức lãi suất cơ bản, từ đó không đáp ứng được nhu cầu vay tiền trong đời sống xã hội.
Việc quy định mức lãi suất trung bình theo Điều 306 Luật Thương mại 2005 có ưu điểm là phản ánh sát với thị trường cho vay của các tổ chức tín dụng ngân hàng Tuy nhiên, nhược điểm là mỗi ngân hàng và địa phương lại áp dụng mức lãi suất khác nhau, gây thiếu sự thống nhất Hơn nữa, việc xác định mức lãi suất trung bình trong xét xử của Tòa án còn phụ thuộc vào sự chủ quan của thẩm phán, dẫn đến khả năng lựa chọn mức lãi suất khác nhau từ các ngân hàng, tạo ra sự không đồng nhất trong kết quả.
Việc quy định lãi suất trực tiếp trong luật tại khoản 1 Điều 468 của BLDS năm 2015 mang lại ưu điểm về tính rõ ràng, minh bạch và ổn định, giúp các chủ thể cho vay nắm rõ mức lãi suất tối đa để tránh vi phạm Tuy nhiên, nhược điểm của quy định này là hạn chế khả năng can thiệp của nhà nước trong bối cảnh lạm phát cao Dù vậy, quy định hiện hành cho phép Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức lãi suất theo đề xuất của Chính phủ, tạo ra sự linh hoạt cần thiết trong chính sách tiền tệ Điều này cũng tương đồng với quy định tại một số quốc gia khác, như Thụy Sỹ, nơi Hội đồng liên bang có quyền can thiệp vào mức lãi suất trần Tác giả ủng hộ giải pháp cho phép sự can thiệp của nhà nước trong việc điều chỉnh lãi suất như quy định của BLDS hiện nay.
Theo Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, mức lãi suất các bên được thỏa thuận trong hợp đồng vay không được vượt quá 20%/năm (tương đương 1,66%/tháng) Trước đó, Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định lãi suất thỏa thuận không vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản (khoảng 13,5%/tháng) Hiện nay, lãi suất thỏa thuận cho vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng là 6,5%/năm (0,54%/tháng) và của Quỹ tín dụng nhân dân cùng các tổ chức tài chính là 7,5%/năm (0,62%/tháng) Như vậy, mức lãi suất thỏa thuận cho vay theo Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có sự điều chỉnh rõ rệt.
Mặc dù quy định về lãi suất trong hợp đồng tín dụng ngân hàng năm 2015 không có nhiều thay đổi so với Bộ luật Dân sự năm 2005, lãi suất vẫn cao hơn Tác giả cho rằng mức lãi suất thỏa thuận trần hiện tại là 20%/năm cho số tiền vay là còn thấp, và có thể điều chỉnh lên 25%/năm hoặc 30%/năm Mức lãi suất này phản ánh tự do thỏa thuận giữa các bên vay tiền, đồng thời vẫn đảm bảo không vi phạm quy định về cho vay nặng lãi theo Điều luật hiện hành.
201 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 32
Thời điểm tính lãi chậm trả
2.3.1 Thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả
Trong hợp đồng vay tiền có lãi, theo quy định tại khoản 5 Điều 466, khoản 2 Điều 469 và khoản 2 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015, không có quy định cụ thể về thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả, tương tự như trong hợp đồng vay tiền không có lãi.
30 Đỗ Văn Đại, tldd (13), tr 32
Theo Quyết định số 1425/QĐ-NHNN ngày 07/7/2017 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay được quy định nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho một số lĩnh vực và ngành kinh tế, theo Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016.
32 Điều 201 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự như sau:
1 Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong
Theo Bộ luật dân sự, người nào thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án nhưng chưa xóa án tích mà vẫn tiếp tục vi phạm, sẽ bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2 Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
3 Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm
Hiện nay, việc xác định thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền có lãi theo điểm a khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015 vẫn chưa có bản án cụ thể nào được công bố Tuy nhiên, trước đây, theo quy định tại khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005, Tòa án đã xác định thời điểm tính lãi quá hạn là từ ngày tiếp theo khi bên vay không trả nợ gốc đến hạn (đối với hợp đồng có lãi và có kỳ hạn) hoặc từ ngày tiếp theo kể từ khi bên cho vay thông báo về việc trả nợ mà bên vay không thực hiện (đối với hợp đồng có lãi và không có kỳ hạn).
Theo quy định pháp luật hiện hành, không có thời điểm cụ thể nào để bắt đầu tính lãi chậm trả trong hợp đồng vay tiền có lãi Tác giả cho rằng, nếu hợp đồng có thỏa thuận thời hạn trả lãi bằng hoặc sau ngày trả nợ gốc, thì lãi chậm trả sẽ được tính từ ngày tiếp theo sau khi đến hạn trả nợ gốc mà bên vay không thực hiện nghĩa vụ Ngược lại, nếu hợp đồng quy định thời điểm trả lãi trước khi trả nợ gốc, thì lãi chậm trả sẽ bắt đầu tính từ ngày tiếp theo sau hạn trả lãi mà bên vay không thanh toán.
2.3.2 Thời điểm kết thúc tính lãi chậm trả
Hợp đồng vay tiền có lãi không quy định rõ thời điểm kết thúc tính lãi chậm trả, tương tự như hợp đồng vay không lãi Theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, mức lãi suất chậm trả được nêu tại điểm a khoản 5 Điều 466, nhưng không xác định cụ thể thời điểm trả nợ Đến nay, tác giả vẫn chưa tìm thấy bản án nào áp dụng thời điểm kết thúc tính lãi chậm trả theo quy định này.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005, Tòa án xác định thời điểm kết thúc trả lãi đến ngày xét xử sơ thẩm, tương tự như hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/TT-LT ngày 19/6/1997 Tuy nhiên, tác giả cho rằng cách xác định này không thuyết phục, và nên tính lãi từ thời điểm phát sinh lãi chậm trả cho đến khi bên vay hoàn tất việc trả nợ, bao gồm cả trong giai đoạn xét xử.
33 Phụ lục 6 Bản án số: 13/2016/DS-ST, ngày 17/8/2014 của Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, về“Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản”
34 Phụ lục 7, tldd 29 phúc thẩm (nếu có kháng cáo, kháng nghị) và giai đoạn thi hành án (như đã trình bày tại mục 1.3.2).