1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Trường hợp không được quyền hưởng di sản theo quy định của bộ luật dân sự việt nam

108 0 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 108
Dung lượng 14,3 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (6)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (7)
  • 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu (9)
  • 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu (10)
  • 5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu (10)
  • 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài (10)
  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN (12)
    • 1.1. Khái niệm người không được quyền hưởng di sản thừa kế (12)
      • 1.1.1. Khái niệm thừa kế (12)
      • 1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế (12)
      • 1.1.3. Khái niệm chung về người thừa kế (14)
      • 1.1.4. Khái niệm người thừa kế không được quyền hưởng di sản (17)
    • 1.2. Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản (22)
      • 1.2.1. Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản giai đoạn từ thế kỷ XV đến ngày 01/7/1996 (22)
      • 1.2.2. Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản giai đoạn từ ngày 01/7/1996 đến nay (29)
    • 1.3. Thủ tục yêu cầu tuyên bố người thừa kế không được quyền hưởng di sản45 1. Chủ thể yêu cầu Tòa án tuyên bố người thừa kế không được quyền hưởng di sản (50)
      • 1.3.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố người thừa kế không có quyền hưởng (53)
    • 1.4. Hậu quả pháp lý khi người thừa kế thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản (54)
  • CHƯƠNG 2. BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN (62)
    • 2.1. Về vấn đề tên gọi của Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người không được quyền hưởng di sản (62)
    • 2.2. Bất cập và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ xác định người thừa kế không có quyền hưởng di sản (62)
    • 2.3. Bất cập và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về hậu quả pháp lý khi người thừa kế thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản (70)
    • 2.4. Bất cập và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về việc hướng dẫn, giải thích thuật ngữ (73)
  • PHỤ LỤC (80)

Nội dung

Tình hình nghiên cứu đề tài

Thừa kế là một chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam, đóng vai trò lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội Nhiều tác giả đã nghiên cứu về thừa kế qua các giai đoạn phát triển của xã hội và pháp luật, trong đó có Đỗ Văn Đại (2013) với tác phẩm "Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án" Tác giả chỉ ra sự khác biệt giữa việc không được quyền hưởng di sản và bị truất quyền hưởng di sản, phân tích các điều kiện về nội dung và hình thức liên quan Qua việc xem xét thực tiễn áp dụng quy định này trong xét xử, tác giả đã đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật về trường hợp không được quyền hưởng di sản.

Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong luật Dân sự Việt

Tác giả đã phân tích các trường hợp không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 1995, hiện vẫn được giữ nguyên nội dung trong Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 621 Nội dung này được xuất bản bởi NXB Trẻ tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền hưởng di sản, nhưng tác giả chỉ tập trung vào các trường hợp không được hưởng di sản mà chưa đề xuất giải pháp hiệu quả để cải thiện quy định này.

Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm

Từ năm 1945 đến nay, NXB Tư pháp tại Hà Nội đã công bố nhiều tài liệu quan trọng Trong Mục IV “Những người không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật”, tác giả đã tổng hợp quá trình hình thành và phát triển quy định về những người không được hưởng thừa kế Bài viết nghiên cứu các vấn đề cơ bản liên quan đến trường hợp không được quyền hưởng di sản, theo quy định tại Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 1995, những quy định này vẫn được giữ nguyên và tiếp tục được quy định tại Điều 643.

Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn giữ nguyên tính phù hợp với các phân tích của tác giả Tuy nhiên, tác giả cần đề cập đến các giải pháp để định hướng sửa đổi và bổ sung quy định cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.

Nguyễn Minh Tuấn (2009) trong tác phẩm "Pháp luật thừa kế của Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn" đã tóm tắt lịch sử phát triển quy định về quyền thừa kế và phân tích các trường hợp không được hưởng di sản theo Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005, nhưng chưa đề cập đến định hướng hoàn thiện quy định này Tương tự, Hoàng Thế Liên (2010) trong "Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005 tập III" chỉ dừng lại ở những lý giải cơ bản về người không được quyền hưởng di sản theo Điều 643 mà không mở rộng vấn đề hoàn thiện quy định.

2005 và cũng chưa đưa ra được giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này

Lê Minh Hùng (2003) trong luận văn Thạc sĩ luật học tại Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu về việc hoàn thiện chế định quyền thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách các quy định liên quan đến quyền thừa kế nhằm đảm bảo tính hợp lý và công bằng trong việc phân chia tài sản thừa kế.

Tác giả nghiên cứu toàn bộ chế định quyền thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam, tuy nhiên đối với các trường hợp không được hưởng di sản theo Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 1995, tác giả chỉ khái quát vấn đề mà chưa đi sâu vào từng trường hợp cụ thể.

Ngoài ra, các bài viết đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả, được đăng trên các tạp chí như Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Tòa án, Tạp chí Kiểm sát và Nghiên cứu lập pháp.

Trần Thị Huệ (1998) trong bài viết “Bàn về việc xác định ‘Hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật’” đăng trên Tạp chí Luật học, số 2, trang 21-24, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định những người thừa kế không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều luật.

Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 1995 xác định "Kỷ phần bắt buộc" cho những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc Tuy nhiên, tác giả chưa tiến hành nghiên cứu sâu về các trường hợp không được quyền hưởng di sản theo quy định của điều này, cũng như chưa đề xuất các hướng hoàn thiện quy định pháp luật liên quan.

Nguyễn Thị Liên Hương (2004), “Về việc tước quyền thừa kế theo luật của bà

Trong bài viết "Võ Thị Xuân" đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, tác giả nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật liên quan đến việc tước quyền hưởng di sản của người thừa kế do hành vi giả mạo di chúc Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào một vụ án cụ thể, tác giả chưa đề cập đến các vấn đề pháp lý khác liên quan đến quyền hưởng di sản và cũng chưa đưa ra đề xuất hoàn thiện các quy định này.

Nguyễn Thị Hồng Lụa (2003) trong bài viết "Một vài ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung các quy định thừa kế trong Bộ luật Dân sự" đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2, tr 6, đã đề xuất một số kiến nghị về việc bổ sung căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản, mặc dù tác giả chưa thực hiện nghiên cứu chuyên sâu về trường hợp này.

Phạm Văn Tuyết (1995) trong bài viết “Người thừa kế không được hưởng di sản thừa kế” đã khái quát các trường hợp người thừa kế bị tước quyền hưởng di sản theo Điều 7 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 Tuy nhiên, tác giả chưa đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật liên quan Nhìn chung, các bài viết hiện tại thiếu nghiên cứu chuyên sâu về căn cứ xác định quyền hưởng di sản của người thừa kế, cũng như hậu quả pháp lý khi quyền này bị tước đoạt, và các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật vẫn còn chung chung và thiếu cụ thể.

Bài viết với chủ đề “Trường hợp không được quyền hưởng di sản theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam” phân tích sâu sắc bản chất và quy định pháp luật liên quan Mặc dù kế thừa kinh nghiệm từ các nghiên cứu trước, đề tài này mang tính toàn diện và đưa ra nhiều kiến nghị mới nhằm hoàn thiện quy định, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn áp dụng trong đời sống.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích chính của đề tài là nghiên cứu toàn diện về trường hợp không được quyền hưởng di sản trong chế định thừa kế của pháp luật dân sự, bao gồm cả lý luận và thực tiễn áp dụng trong xét xử của Tòa án Tác giả sẽ làm sáng tỏ các bất cập và thiếu sót của quy định này, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện Bộ luật Dân sự về quyền hưởng di sản, đảm bảo tính khả thi và đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng trong thực tiễn Đề tài sẽ giải quyết các vấn đề liên quan đến quy định này.

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về trường hợp không được quyền hưởng di sản;

- Nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật về trường hợp không được quyền hưởng di sản nhằm tìm ra những điểm bất cập, chưa hoàn thiện;

Liên hệ với quy định của pháp luật Dân sự tại một số quốc gia trên thế giới giúp làm rõ những ưu điểm và hạn chế trong quy định về quyền hưởng di sản hiện tại của pháp luật thừa kế Việt Nam Việc so sánh này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của luật thừa kế mà còn mở ra hướng đi mới cho việc cải cách pháp luật, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Để hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quyền hưởng di sản trong chế định thừa kế hiện nay, cần đề xuất các giải pháp hữu hiệu Những giải pháp này bao gồm việc rà soát và điều chỉnh các điều luật hiện hành, tăng cường công tác tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, cũng như thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp di sản một cách minh bạch và công bằng Đồng thời, cần nâng cao nhận thức của người dân về quyền thừa kế để hạn chế những tranh chấp phát sinh.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự, các trường hợp không được quyền hưởng di sản vẫn giữ nguyên nội dung và được quy định rõ ràng trong cả hai Bộ luật Dân sự.

Năm 2005 và Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền hưởng di sản Tác giả nghiên cứu tập trung vào các quy định pháp luật liên quan đến trường hợp không được quyền hưởng di sản trong hai Bộ luật Dân sự này, cùng với các tài liệu liên quan đến vấn đề này.

Các phương pháp tiến hành nghiên cứu

Để giải quyết các vấn đề trong Chương 1 của luận văn, tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng hợp nhằm làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài Tác giả nghiên cứu các căn cứ xác định người thừa kế không có quyền hưởng di sản và phân tích hậu quả pháp lý khi có người thừa kế thuộc trường hợp này.

Phương pháp lịch sử và logic được áp dụng để nghiên cứu sự phát triển của quy định liên quan đến người không được hưởng di sản Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, so sánh và bình luận nhằm làm rõ các vấn đề hạn chế và đề xuất hướng hoàn thiện quy định pháp luật về trường hợp này.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Đề tài "Trường hợp không được quyền hưởng di sản theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam" là nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về các trường hợp không được hưởng di sản Nghiên cứu này xem xét toàn diện các quy định hiện hành và tập trung vào việc chỉ ra những bất cập trong pháp luật liên quan Đặc biệt, đề tài cũng phân tích hậu quả pháp lý khi có người thừa kế không được quyền hưởng di sản, từ đó đề xuất các giải pháp khả thi cho việc sửa đổi và bổ sung quy định.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN

Khái niệm người không được quyền hưởng di sản thừa kế

Con người cần có cơ sở vật chất để tồn tại và phát triển Tài sản hợp pháp do con người tạo ra thuộc quyền sở hữu của họ, cho phép họ chiếm hữu, sử dụng và quyết định về tài sản Khi một người qua đời, tài sản còn lại sẽ được chuyển giao cho người sống.

Thừa kế, theo từ điển Tiếng Việt, là quá trình chuyển giao tài sản từ người đã khuất cho người còn sống Nghĩa là, thừa kế không chỉ đơn thuần là việc nhận tài sản mà còn là việc kế thừa những giá trị mà người đã chết để lại Theo định nghĩa, thừa kế được hiểu là việc hưởng thụ tài sản mà người chết đã để lại cho người sống.

Thừa kế di sản theo quy định của pháp luật dân sự là quá trình chuyển giao tài sản và quyền sở hữu từ người đã qua đời cho cá nhân hoặc tổ chức có quyền thừa kế Người thừa kế sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản dựa trên nội dung di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.

Thừa kế là quá trình chuyển giao tài sản từ người đã mất cho cá nhân hoặc tổ chức theo ý chí của người để lại di sản hoặc theo quy tắc xã hội Mỗi chế độ xã hội có những quy định riêng về thừa kế, phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế và chính trị Trong các xã hội chưa có nhà nước và pháp luật, thừa kế chỉ là một hiện tượng xã hội, với việc chuyển nhượng tài sản diễn ra theo phong tục và tập quán của thời kỳ đó, và khái niệm quyền thừa kế chưa được hình thành.

1.1.2 Khái niệm quyền thừa kế

Trước khi nhà nước hình thành, thừa kế chủ yếu dựa vào phong tục tập quán, nhưng khi nhà nước xuất hiện, quá trình chuyển giao tài sản từ người đã khuất sang người còn sống đã chịu ảnh hưởng của ý chí nhà nước Giai cấp thống trị đã sử dụng quyền lực nhà nước để áp dụng các biện pháp cưỡng chế, nhằm điều chỉnh và quản lý việc thừa kế tài sản.

1 Kỳ Duyên (2013), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh, tr 794

Quyền thừa kế trong xã hội có nhà nước được pháp luật điều chỉnh, phản ánh sự phát sinh và phát triển của các quan hệ xã hội theo hướng có lợi cho giai cấp Điều này cho thấy rằng khái niệm quyền thừa kế chỉ xuất hiện khi có sự hình thành của nhà nước và pháp luật, làm cho mọi quan hệ và sự kiện trong đời sống xã hội đều nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật.

Quyền thừa kế chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội đã phân chia giai cấp, có nhà nước và pháp luật, mặc dù khái niệm này có thể đã được hình thành từ trước đó, khi xã hội chưa phân chia giai cấp.

Nhà nước quy định quyền thừa kế thông qua các văn bản pháp luật, xác định quyền để lại và nhận thừa kế của các chủ thể, cũng như quy trình và điều kiện chuyển nhượng tài sản từ người đã khuất sang người còn sống Tuy nhiên, quy định về quyền thừa kế có sự khác biệt giữa các chế độ xã hội khác nhau, và ngay trong cùng một chế độ, các quy định này cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.

Quyền thừa kế, từ góc độ khách quan, được hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh quá trình chuyển giao tài sản từ người đã khuất cho các chủ thể khác Khía cạnh này của quyền thừa kế còn được gọi là pháp luật thừa kế.

Pháp luật thừa kế ở Việt Nam luôn phản ánh sự thay đổi của cơ sở kinh tế xã hội, điều này cho thấy rằng quy định pháp luật không chỉ là ý chí của nhà nước mà còn mang tính khách quan Khi chế độ kinh tế biến đổi, các quy định về thừa kế cũng sẽ thay đổi tương ứng Do đó, việc xem xét quyền thừa kế cần được nhìn nhận từ góc độ khách quan, phù hợp với thực tiễn xã hội.

Quyền thừa kế được xem xét từ phương diện chủ quan, bao gồm các quyền cụ thể mà pháp luật quy định cho các chủ thể trong lĩnh vực thừa kế Theo Bộ luật Dân sự 2005 và 2015, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình và để lại tài sản cho người thừa kế Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản, cho phép họ quyết định việc chuyển nhượng tài sản qua hợp đồng dân sự và di chúc Nếu không có di chúc hợp lệ, di sản sẽ được phân chia theo quy định pháp luật cho những người có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc huyết thống gần gũi với người đã khuất Pháp luật cũng phỏng đoán mong muốn của người chết trong việc chuyển nhượng tài sản cho những người thân thích nhất.

Cá nhân không chỉ có quyền để lại di sản thừa kế mà còn có quyền hưởng di sản Quyền hưởng di sản theo di chúc được xác định dựa trên ý chí của người để lại di sản, thể hiện trong di chúc của họ Ngược lại, quyền hưởng di sản theo pháp luật được xác định theo các quy định của pháp luật hiện hành.

Theo Bộ luật Dân sự 2005 và 2015, quyền thừa kế của cá nhân bao gồm: quyền để lại di sản theo di chúc, quyền để lại di sản theo pháp luật, quyền hưởng di sản theo di chúc và quyền hưởng di sản theo pháp luật.

1.1.3 Khái niệm chung về người thừa kế

Người thừa kế là khái niệm quan trọng xuất hiện cùng với chế định pháp luật thừa kế, phản ánh nhu cầu cần có người thừa kế trong xã hội Khái niệm này đã tồn tại từ những bộ luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại và cũng đã được ghi nhận trong các luật cổ của Việt Nam.

Hiện nay, pháp luật thừa kế Việt Nam chưa quy định rõ về khái niệm người thừa kế Qua các giai đoạn xã hội khác nhau, người thừa kế vẫn được hiểu chung là những cá nhân nhận di sản từ người đã khuất, dựa trên di chúc hoặc quy định của pháp luật.

Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản

Qua các thời kỳ lịch sử, pháp luật Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, kế thừa tinh hoa và tiến bộ từ các giai đoạn trước Mặc dù mỗi thời kỳ có sự điều chỉnh khác nhau do ảnh hưởng của tục lệ và luật pháp xã hội, nhưng quy định về quyền thừa kế đã dần hoàn thiện, phù hợp hơn với thực tiễn.

1.2.1 Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản giai đoạn từ thế kỷ XV đến ngày 01/7/1996

1.2.1.1 Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản giai đoạn từ thế kỷ XV đến tháng Tám năm 1945

Thời Lê, hay còn gọi là thời Hậu Lê, là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, đánh dấu sự ổn định và phát triển của đất nước Thời kỳ này ghi nhận những thành tựu lớn trong việc chống ngoại xâm, bảo vệ và mở rộng biên giới, đồng thời xây dựng một nhà nước tập quyền mạnh mẽ với uy tín cao trong khu vực Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI, các mâu thuẫn nội bộ và sự nổi dậy của các thế lực phong kiến đã làm suy yếu chính quyền trung ương, dẫn đến tình trạng phân chia đất nước Trong giai đoạn này, Vương triều Lê chỉ tồn tại về mặt danh nghĩa, trong khi quyền lực thực tế rơi vào tay các thế lực phong kiến khác như Mạc, Trịnh, Nguyễn.

Sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, chính trị và xã hội, cùng với ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật và Nho giáo, đã tác động lớn đến nội dung pháp luật, đặc biệt là quy định về thừa kế trong Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức) Tư tưởng tôn ti, thứ bậc trong gia đình, như con trưởng, vợ cả, vợ lẽ, và hương hỏa, được coi trọng như chuẩn mực đạo đức và lẽ sống Những nguyên tắc này không chỉ phản ánh trật tự trong quan hệ dòng họ mà còn thể hiện rõ nét trong các quy định về thừa kế dưới triều Lê.

Trong truyền thống nông nghiệp, đất đai được xem là tài sản quý giá nhất và là di sản thừa kế thiết yếu mà mỗi người để lại cho con cháu sau khi qua đời Pháp luật nhà Lê đã dành riêng một chương để quy định về vấn đề thừa kế di sản đất đai, khẳng định tầm quan trọng của tài sản này trong đời sống xã hội.

Chương "Điền sản" trong Quốc triều Hình luật quy định các vấn đề liên quan đến thừa kế đất đai, bao gồm di chúc, pháp luật, quyền lợi của người thừa kế, phương thức phân chia di sản, cũng như việc sử dụng di sản cho mục đích hương hỏa và thờ cúng Đặc biệt, điều 388 nêu rõ các trường hợp không được quyền hưởng di sản, nhằm xác định những người "bất xứng" trong việc thừa kế.

Khi cha mẹ qua đời mà chưa kịp lập di chúc, anh chị em sẽ tự chia nhau tài sản, trong đó lấy một phần hai mươi (1/20) diện tích ruộng đất để làm hương hỏa, giao cho người trai trưởng quản lý Phần của con vợ lẽ và nàng hầu sẽ bị giảm bớt Nếu có di chúc hoặc lệnh từ cha mẹ, thì phải tuân theo, nếu không sẽ mất quyền lợi của mình.

Pháp luật thời phong kiến chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Nho giáo, đặc biệt là trong việc thờ cúng tổ tiên Di sản thừa kế phải ưu tiên cho việc hương hỏa, với yêu cầu con cháu dành một phần hai mươi tài sản cho mục đích này Trong trường hợp ruộng đất hạn chế, phần hương hỏa và phần của con cháu có thể chia theo sự đồng thuận Hương hỏa được giao cho con trai trưởng, nếu không có, sẽ chuyển cho cháu trai trưởng, hoặc con thứ, và trong trường hợp không có con cháu, một người trong dòng họ sẽ được chọn làm người thờ cúng Ngoài ra, ông bà, cha mẹ có thể lập di chúc hoặc lệnh chia tài sản cho con cháu; nếu ai vi phạm sẽ mất quyền thừa kế, coi như phạm tội bất hiếu theo quy định trong sách Hồng Đức và Quốc triều Hình luật.

Khi người thừa kế vi phạm các tội bất hiếu hoặc không tuân theo lệnh và di chúc của ông bà, cha mẹ, điều này có thể trở thành căn cứ để tước quyền hưởng di sản mà ông bà, cha mẹ để lại.

Hoàng Việt Luật Lệ, còn gọi là Luật Gia Long, chịu ảnh hưởng từ pháp luật nhà Thanh, dẫn đến việc ít kế thừa các quy định của Luật Hồng Đức Trong Luật Gia Long, chế độ gia trưởng trong gia đình được xem là tuyệt đối, quy định rằng nếu trong gia đình còn ông bà hoặc cha mẹ, con cháu không được phép yêu cầu chia tài sản Những ai vi phạm sẽ bị phạt 100 trượng, và nếu ông bà kiện thì sẽ bị buộc tội Trong thời gian để tang cha mẹ, nếu anh em tách hộ khẩu và đòi chia gia sản, họ sẽ bị phạt 80 trượng.

Theo quy định tại Điều 82 và Điều lệ 10 Biệt tịch dị tài, nếu ông bà hoặc cha mẹ không lập di chúc, quyền gia trưởng sẽ quản lý di sản chung của gia đình, không được phân chia Trong trường hợp ông bà, cha mẹ đã qua đời, di sản sẽ được chuyển giao cho tôn trưởng để tiếp tục quản lý Quy định này phản ánh thực trạng kinh tế - xã hội thế kỷ XIX tại Việt Nam, khi nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và ruộng đất hạn chế Việc chia nhỏ ruộng đất sẽ dẫn đến khó khăn trong canh tác, do đó hình thức gia đình đại diện cho nhiều thế hệ sống chung, khiến tài sản vẫn thuộc về đại gia đình, và vấn đề thừa kế theo pháp luật trở nên không cần thiết Do đó, Luật Gia Long không có quy định rõ ràng về thừa kế.

Pháp luật bảo vệ quyền gia trưởng trong gia đình nhưng cũng tôn trọng ý chí của người lập di chúc Do đó, người thừa kế theo di chúc có quyền yêu cầu chia di sản ngay cả khi đang trong thời gian để tang cha hoặc mẹ.

Khi người quá cố không để lại di chúc, di sản sẽ được chuyển giao cho người nắm quyền gia trưởng hoặc tôn trưởng để quản lý và sử dụng phục vụ cho kinh tế của đại gia đình Nếu các thành viên như anh, em, con, cháu sống chung với tôn trưởng, thì tôn trưởng sẽ có trách nhiệm quản lý tài sản Các thành viên trong gia đình không được phép tự ý tiêu xài; nếu vi phạm, tôn trưởng có quyền khởi kiện, và mức phạt có thể từ 20 roi đến 100 trượng tùy theo từng trường hợp.

Luật Gia Long về thừa kế có nội dung khá đơn giản, chủ yếu quy định di sản không được chia, ngoại trừ trường hợp có di chúc, mà giao cho người đứng đầu gia đình quản lý Điều này dẫn đến việc vấn đề tước quyền hưởng di sản gần như không được đề cập, làm cho việc nghiên cứu về vấn đề này trở nên khó khăn Pháp luật phong kiến Việt Nam, mặc dù chịu ảnh hưởng từ pháp luật nước ngoài, nhưng vẫn được xây dựng dựa trên quy định của nhà nước phong kiến Trong khi đó, pháp luật thời Pháp thuộc được áp dụng qua Bộ dân luật năm 1931 và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật năm 1936, được xây dựng dựa trên Bộ luật Dân sự Pháp 1804.

Luật Gia Long, được trình bày trong tác phẩm của Nguyễn Văn Thành (1999), có nhiều điểm tương đồng với Bộ luật dân sự của Pháp Tuy nhiên, luật này đã được điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam vào giữa thế kỷ XX.

Theo Điều 313 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 306 Hoàng Việt Trung Kỳ, những trường hợp không được hưởng di sản hoàn toàn giống nhau Cụ thể, Điều 313 quy định rằng những người sau đây sẽ không được quyền thừa kế và bị tước quyền thừa kế:

“1 Kẻ nào đã do người mệnh một có chúc thư để lại nói rõ là kẻ ấy không xứng đáng ăn thừa kế;

2 Kẻ đã xâm phạm đến tính mệnh người mệnh một, là chánh phạm, đồng phạm hay tùy phạm mặc lòng;

3 Kẻ đã cố ý đả thương người mệnh một, hoặc ông bà, cha mẹ người ấy;

Thủ tục yêu cầu tuyên bố người thừa kế không được quyền hưởng di sản45 1 Chủ thể yêu cầu Tòa án tuyên bố người thừa kế không được quyền hưởng di sản

1.3.1 Chủ thể yêu cầu Tòa án tuyên bố người thừa kế không được quyền hưởng di sản

Trong các triều đại phong kiến, tư tưởng Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ xã hội, đặc biệt từ thời Lê, khi các tư tưởng này được nhà nước phong kiến công nhận thành luật Các mối quan hệ hôn nhân, gia đình và thừa kế cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ của tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhấn mạnh vai trò của người chồng và quyền lực của người nắm giữ gia trưởng trong gia đình.

Trong thời phong kiến, tài sản gia đình chủ yếu được xác định qua điền thổ, và tư tưởng Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến việc thừa kế di sản này Theo đó, các thành viên trong gia đình phải tuân theo quyết định của người đứng đầu gia đình Nếu người thừa kế vi phạm đạo hiếu, họ sẽ bị tước quyền thừa kế di sản từ ông bà, cha mẹ khi người nắm quyền gia trưởng khởi kiện.

So với pháp luật thời phong kiến, các văn bản pháp luật về thừa kế thời Pháp thuộc và các Bộ luật Dân sự hiện hành không quy định rõ về quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố người thừa kế không có quyền hưởng di sản Tuy nhiên, những người thừa kế khác, bao gồm cả người thừa kế theo di chúc và theo pháp luật, có quyền yêu cầu nếu có người không được hưởng di sản Khi một người thừa kế bị tước quyền, phần di sản của họ sẽ được chia đều cho những người thừa kế hợp pháp còn lại, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ Do đó, chỉ những người thừa kế không vi phạm mới có quyền yêu cầu Tòa án xem xét tình trạng này.

Trong thực tiễn xét xử, khi người thừa kế trình bày di chúc của người để lại di sản nhưng di chúc đó không hợp pháp và có dấu hiệu giả mạo, người thừa kế sẽ không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 Mặc dù có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố di chúc không hợp pháp, nhưng nếu chủ thể không thực hiện quyền này, Tòa án sẽ tự động tuyên bố di chúc vô hiệu và chia di sản theo quy định của pháp luật Một ví dụ điển hình cho trường hợp này là Bản án số 275/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, liên quan đến tranh chấp di sản thừa kế quyền sử dụng đất giữa các con của ông Huỳnh Văn Gạo và bà Trần Thị Tư.

Bà Tư để lại di sản gồm thửa đất số 659 và thửa đất số 660, hiện đang được bà Nguyễn Thị Thuận quản lý và sử dụng.

Theo bà Nghiêm, hai thửa đất có nguồn gốc từ cách mạng cấp cho bà Tư từ năm 1965 Năm 1996, bà Tư đã đăng ký quyền sử dụng đất và nhận giấy chứng nhận từ nhà nước cho hai thửa đất này Từ năm 1988 đến nay, bà Tư cho vợ chồng ông Sum, bà Thuận thuê đất để canh tác, với tiền thuê hàng năm tương đương với số thuế bà Tư phải nộp Tuy nhiên, vợ chồng bà Thuận đã không trả tiền thuê đất cho bà Tư như thỏa thuận, trong khi bà Nghiêm là người trực tiếp nộp thuế thay cho bà Tư.

Vào năm 2004, bà Tư qua đời và bà Nghiêm đã trình bày di chúc của bà Tư, được xác nhận bởi Ủy ban nhân dân thị trấn Thủ Thừa vào ngày 29/4/2003 Di chúc nêu rõ bà Tư để lại toàn bộ di sản, bao gồm hai thửa đất số 659 và 660, cho bà Nghiêm Dựa trên di chúc này, bà Nghiêm đã tiến hành kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện Tân Trụ cấp quyền sử dụng đất.

Bà Nghiêm khởi kiện yêu cầu bà Thuận trả lại cho bà hai thửa đất là di sản của bà

Tư mà bà Thuận đang trực tiếp quản lý, sử dụng

Di chúc của bà Tư không hợp pháp vì bà đã già yếu và không thể tự viết di chúc Hơn nữa, di chúc này không có người làm chứng Bà Nghiêm, người viết di chúc, đã để lại toàn bộ di sản cho mình và cũng là người mang di chúc đi công chứng sau ngày lập di chúc.

Bà Nghiêm đã giả mạo di chúc của bà Tư để chiếm đoạt toàn bộ di sản, gây thiệt hại quyền lợi của những người thừa kế khác, bao gồm bà Thuận Tuy nhiên, bà Thuận và các thừa kế khác không yêu cầu Tòa án tuyên bố quyền thừa kế của bà Nghiêm là không hợp pháp Do đó, Tòa án đã quyết định hủy di chúc của bà Tư, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Tân Trụ cấp cho bà Nghiêm, và chia di sản của bà Tư theo quy định pháp luật.

Trong bối cảnh pháp lý Việt Nam, quyền yêu cầu liên quan đến việc không có quyền hưởng di sản của một cá nhân được xem là quyền gắn liền với nhân thân của người đó Do đó, chỉ có cá nhân có quyền hưởng di sản mới có quyền thực hiện yêu cầu này trước Tòa án.

Theo một số luật học phương Tây, việc mở rộng quyền yêu cầu tuyên bố một người không có quyền hưởng di sản cho các chủ nợ của người thừa kế không phù hợp với mục đích xây dựng quy định về người không có quyền hưởng di sản Điều luật này nhằm áp dụng chế tài đối với những người thừa kế có hành vi bất xứng, không phải để bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ Hơn nữa, xu hướng lập pháp hiện nay ở các nước phương Tây cũng đang dần loại bỏ quan niệm này.

Hiện nay, pháp luật thừa kế tại Việt Nam không quy định rõ ràng về thủ tục thiết lập tình trạng không có quyền hưởng di sản, dẫn đến tình trạng này phát sinh tự động khi các điều kiện pháp lý được đáp ứng Nếu có sự phản đối, vụ án có thể được hình thành, nhưng Tòa án chỉ thực hiện việc xác nhận tình trạng này.

Bản án số 275/2016/DS-PT ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An liên quan đến tranh chấp di sản thừa kế quyền sử dụng đất, nêu rõ các vấn đề pháp lý và quyền lợi của các bên liên quan trong vụ án.

Xem thêm Phụ lục 2: Bản án số 14/2015/DS-PT ngày 13/01/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

Tình trạng không có quyền hưởng di sản không thể được xác nhận chỉ dựa trên kết quả thẩm định mà cần xem xét các yếu tố liên quan, bao gồm sự tồn tại của bản án kết án người thừa kế có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của người có di sản, cũng như việc vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng Nói cách khác, chỉ có bản án tuyên bố tình trạng không có quyền hưởng di sản mà không có bản án thiết lập tình trạng này.

1.3.2 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố người thừa kế không có quyền hưởng di sản

Hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia quy định rõ ràng về thời hiệu yêu cầu Tòa án tước quyền hưởng di sản của người thừa kế Chẳng hạn, theo luật pháp Brazil, việc yêu cầu tước quyền hưởng di sản cần phải được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định.

Hậu quả pháp lý khi người thừa kế thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản

1.4.1 Vấn đề thừa kế thế vị

Theo phân tích tại mục 1.1.3, người thừa kế phải là cá nhân còn sống tại thời điểm mở thừa kế Do đó, nếu con chết trước cha mẹ, thì không có quyền hưởng di sản từ cha mẹ Điều này được quy định rõ trong Điều 677 Bộ luật Dân sự.

Theo Điều 652 Bộ luật Dân sự 2015, thừa kế thế vị được quy định trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với họ Trong trường hợp này, cháu sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu lẽ ra được hưởng nếu còn sống Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản, thì chắt sẽ được hưởng phần di sản đó nếu còn sống.

Theo quy định, thừa kế thế vị cho phép con thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để nhận di sản từ ông bà hoặc cụ nếu bố mẹ qua đời trước hoặc cùng thời điểm với những người này Phần di sản mà con nhận được tương ứng với phần di sản mà cha hoặc mẹ của họ lẽ ra được hưởng nếu còn sống Tuy nhiên, thừa kế thế vị chỉ áp dụng cho di sản chia theo pháp luật, không áp dụng cho di sản theo di chúc Một vấn đề quan trọng đặt ra là liệu thừa kế thế vị có được áp dụng khi người thừa kế thuộc các trường hợp quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 hay không, nếu họ chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản Hiện nay, trong khoa học pháp lý, có hai quan điểm trái ngược: một số cho rằng thừa kế thế vị bị loại trừ nếu người thừa kế không có quyền hưởng di sản, do cha mẹ của họ đã có hành vi quy định tại các điều luật trên, dẫn đến việc không còn đối tượng để thừa kế.

Trong 200 năm qua, theo Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804, phần di sản của người không được hưởng sẽ chuyển sang các đồng thừa kế, và con, cháu của người này không được hưởng phần di sản đó Tuy nhiên, từ năm 2001, pháp luật Pháp đã thay đổi theo hướng cho phép con của người thừa kế không được hưởng di sản do có hành vi nghiêm trọng đối với người để lại di sản được thế vào vị trí của họ Điều này có nghĩa là quyền lợi của người thừa kế không được hưởng sẽ được chuyển giao cho con của họ, trừ khi họ không có con Tương tự, Bộ luật Dân sự Thái Lan và Bộ luật Dân sự Nhật Bản cũng quy định các điều khoản tương ứng với Điều 729-1 của Bộ luật Dân sự Pháp, trong đó Bộ luật Dân sự Thái Lan quy định rằng hiệu lực loại trừ khỏi thừa kế mang tính cá nhân nhưng con cháu vẫn có quyền thừa kế.

22 Hoàng Thế Liên (2010), tlđd 7, tr 422

Theo Điều 729-1 Bộ luật Dân sự Pháp, con của người không xứng đáng vẫn được thừa kế và trở thành người thừa kế chính thức hoặc người thừa kế thế vị, mặc dù cha hoặc mẹ của họ có lỗi Tuy nhiên, người thừa kế bị loại trừ không có quyền quản lý và thu hoa lợi từ tài sản để lại Trong khi đó, Điều 887 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định rằng nếu con cái của người để lại di sản chết hoặc mất quyền thừa kế, thì con cái của họ sẽ trở thành người thừa kế thế vị, nhưng quy định này không áp dụng cho những đứa trẻ không phải là con cháu trực hệ của người để lại thừa kế.

Theo quy định pháp luật của các nước, người được hưởng thừa kế thế vị không chỉ nhận di sản từ người đã chết, mà còn từ những người chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản Trong trường hợp người không có quyền hưởng di sản hoặc bị truất quyền, con cháu của họ vẫn có quyền thừa kế thế vị Điều này thể hiện sự phát triển hợp lý của pháp luật, vì người thừa kế không được hưởng di sản do hành vi vi phạm là một chế tài áp dụng riêng cho người có lỗi.

Pháp luật phong kiến Việt Nam, đặc biệt là Quốc triều Hình luật thời Lê và Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Nho giáo, với việc coi trọng hiếu nghĩa và thờ cúng tổ tiên Di sản của người quá cố phải dành một phần cho việc hương hỏa, trong khi phần lớn còn lại do người đứng đầu gia đình quản lý Những người thừa kế không tuân thủ quy định về hiếu nghĩa sẽ mất quyền thừa kế, và vấn đề thừa kế thế vị chưa được đề cập rõ ràng Tuy nhiên, trong thời kỳ Pháp thuộc, các quy định về thừa kế đã được cụ thể hóa trong Bộ Dân luật Bắc – Trung và Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 Theo đó, người bất xứng không được thừa kế, nhưng phần di sản của họ sẽ được chuyển cho con cháu, trừ khi con cháu cũng không xứng đáng.

24 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1995), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 631

25 Bộ luật Dân sự Nhật Bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 560

Theo Vũ Văn Hiền (1998), trong chế độ tài sản gia đình Việt Nam, những người không được hưởng di sản từ con cháu sẽ không có quyền nhận hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản được truyền lại theo hình thức thừa kế thế vị.

Mặc dù quy định này đã tồn tại trong pháp luật từ trước, nhưng nó thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong quan điểm Những người thừa kế có hành vi vi phạm sẽ bị tước quyền hưởng di sản, đây là chế tài riêng áp dụng cho họ Tuy nhiên, con cháu của những người này, nếu không có lỗi, sẽ không phải chịu hình phạt và quyền thừa kế, bao gồm quyền hưởng di sản, của họ cần được pháp luật bảo vệ.

1.4.2 Xác định kỷ phần bắt buộc cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc khi trong số những người thừa kế có người bị tước quyền hưởng di sản Điều 631 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”

Pháp luật công nhận quyền tự do định đoạt tài sản của cá nhân, cho phép người lập di chúc chỉ định người thừa kế và truất quyền thừa kế của người khác Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế theo pháp luật có mối quan hệ gần gũi với người để lại di sản, pháp luật đã đặt ra những hạn chế đối với quyền định đoạt di sản của người lập di chúc, theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015.

Những người sau đây được hưởng hai phần ba suất di sản của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ được hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; và con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

Theo Điều 505 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972, người bất xứng hoặc bị truất quyền sẽ không được coi là người thừa kế Tuy nhiên, phần di sản mà họ lẽ ra được hưởng sẽ được truyền cho con cháu của họ, trừ khi những người này cũng bất xứng hoặc bị truất quyền Trong mọi trường hợp, người thừa kế bất xứng không có quyền hưởng dụng phần di sản do con mình truyền thụ, theo quy định tại Điều 274 Điều luật này cũng nêu rõ các đối tượng được hưởng "kỉ phần bắt buộc".

Điều luật quy định về "hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật" nhưng không chỉ rõ các trường hợp được xem là "nhân suất" để xác định tỷ lệ này, dẫn đến sự hiểu biết khác nhau về điều luật và việc áp dụng không đồng nhất.

Việc xác định "kỉ phần bắt buộc" trong di sản sẽ trở nên dễ dàng và chính xác hơn khi những người thừa kế theo luật không bị truất quyền hưởng di sản, không từ chối nhận di sản, và không bị tước quyền hưởng di sản Đồng thời, người thừa kế cũng phải còn sống sau người để lại di sản, đặc biệt khi người để lại di sản có con hoặc cháu được hưởng thừa kế thế vị.

BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:38

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
22. Kỳ Duyên (2013), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tiếng Việt
Tác giả: Kỳ Duyên
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2013
23. Đỗ Văn Đại (2009), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2009
24. Đỗ Văn Đại (2013), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2013
25. Đỗ Văn Đại và Hoàng Thế Cường (2010), “Sự giao thoa giữa pháp luật thừa kế và pháp luật hôn nhân – gia đình”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03, tr 58-64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự giao thoa giữa pháp luật thừa kế và pháp luật hôn nhân – gia đình”, "Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Đỗ Văn Đại và Hoàng Thế Cường
Năm: 2010
26. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về Thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam, NXB Trẻ, Tp.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học về Thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điện
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2001
27. Vũ Văn Hiền (1998), Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế độ tài sản trong gia đình Việt Nam
Tác giả: Vũ Văn Hiền
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 1998
28. Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật Dân sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật Dân sự
Tác giả: Học viện tư pháp
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2007
29. Trần Thị Huệ (1997), “Thừa kế thế vị có đặt ra theo quy định tại Điều 646 và Điều 680 Bộ luật Dân sự không?”, Tạp chí Luật học, số 04, tr 18-19 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thừa kế thế vị có đặt ra theo quy định tại Điều 646 và Điều 680 Bộ luật Dân sự không?”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Trần Thị Huệ
Năm: 1997
30. Trần Thị Huệ (1998), “Bàn về việc xác định “Hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật””, Tạp chí Luật học, số 02, tr 21-24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về việc xác định “Hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật””, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Trần Thị Huệ
Năm: 1998
31. Lê Minh Hùng (2003), Hoàn thiện chế định quyền thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện chế định quyền thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành
Tác giả: Lê Minh Hùng
Năm: 2003
32. Ngô Thị Hường (2005), “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và Gia đình”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 157, tr 10-11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và Gia đình”," Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
Tác giả: Ngô Thị Hường
Năm: 2005
33. Nguyễn Thị Liên Hương (2004), “Về việc tước quyền thừa kế theo luật của bà Võ Thị Xuân”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 02, tr 11-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về việc tước quyền thừa kế theo luật của bà Võ Thị Xuân”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Nguyễn Thị Liên Hương
Năm: 2004
34. Hoàng Thế Liên (2010), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, Tập III, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, Tập III
Tác giả: Hoàng Thế Liên
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2010
35. Nguyễn Thị Hồng Lụa (2003), “Một vài ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung các quy định thừa kế trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 02, tr 5-6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một vài ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung các quy định thừa kế trong Bộ luật Dân sự”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Lụa
Năm: 2003
36. Tưởng Bằng Lượng (2001), “Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân trong thời gian vừa qua”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03, tr 30-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân trong thời gian vừa qua”, "Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Tưởng Bằng Lượng
Năm: 2001
37. Tưởng Bằng Lượng (2002), “Một vài ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03, tr 4-8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một vài ý kiến về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Tưởng Bằng Lượng
Năm: 2002
38. Tưởng Duy Lượng (2002), “Một số vướng mắc và kiến nghị về phần thừa kế theo di chúc và thừa kế theo luật trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 09, tr 8-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vướng mắc và kiến nghị về phần thừa kế theo di chúc và thừa kế theo luật trong Bộ luật Dân sự”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Tưởng Duy Lượng
Năm: 2002
39. Tưởng Duy Lượng (2002), Một số vấn đề trong thực tiễn xét xử các tranh chấp về thừa kế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề trong thực tiễn xét xử các tranh chấp về thừa kế
Tác giả: Tưởng Duy Lượng
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2002
40. Vũ Văn Mẫu (1998), Lê triều Hình luật, NXB Văn Hóa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lê triều Hình luật
Tác giả: Vũ Văn Mẫu
Nhà XB: NXB Văn Hóa
Năm: 1998
41. Phan Như Phương, Lê Minh Hiếu, “Bàn về bài viết “Về việc tước quyền thừa kế theo luật của bà Võ Thị Xuân””, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13, tr 35-36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về bài viết “Về việc tước quyền thừa kế theo luật của bà Võ Thị Xuân””, "Tạp chí Tòa án nhân dân

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w