Khái quát
Bảo hộ sáng chế tại Việt Nam
Tại Việt Nam, sau khi được Cục SHTT cấp văn bằng bảo hộ có hiệu lực trên toàn lãnh thổ, sáng chế được bảo vệ trong 20 năm kể từ ngày nộp đơn Chủ sở hữu sáng chế (CSHSC) có quyền độc quyền sử dụng và định đoạt sản phẩm chứa sáng chế (SPCSC) thông qua ba nhóm quyền năng Đặc biệt, CSHSC có quyền sản xuất các sản phẩm dựa theo bản mô tả hoặc khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ.
CSHSC có quyền áp dụng quy trình được bảo hộ hoặc khai thác sản phẩm do quy trình đó sản xuất Nếu đối tượng bảo hộ chỉ là quy trình mà không nhằm sản xuất sản phẩm, quyền sử dụng chỉ giới hạn ở quy trình Tuy nhiên, nếu quy trình trực tiếp tạo ra sản phẩm, thì sản phẩm đó cũng sẽ được bảo hộ.
8 Điểm a, c Khoản 1 Điều 124 Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 50/2005/QH11) ngày 29/11/2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật SHTT 2005)
9 Điểm b, c Khoản 1 Điều 124 Luật SHTT 2005
Quyền lưu thông, quảng cáo và chào hàng sản phẩm được bảo hộ là rất quan trọng CSHSC có quyền quyết định cho phép hoặc ngăn cấm bất kỳ đối tượng nào nhập khẩu, bán, trưng bày hay vận chuyển sản phẩm đã được bảo hộ vào thị trường Việt Nam.
Giới hạn độc quyền của chủ sở hữu sáng chế
Quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế là hình thức bảo vệ tài sản của cá nhân và tổ chức, cho phép họ khai thác và chuyển nhượng theo quy định pháp luật Độc quyền này được xem như phần thưởng cho những nỗ lực sáng tạo và đầu tư trí tuệ của chủ sở hữu Như Abraham Lincoln đã từng nói, quyền này phản ánh giá trị của sự đổi mới và công sức lao động.
“Hệ thống bằng độc quyền sáng chế đổ thêm dầu lợi ích vào ngọn lửa thiên tài”
"Dầu lợi ích" là động cơ chính thúc đẩy sự phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế, khuyến khích con người sáng tạo và lao động để thỏa mãn nhu cầu cá nhân Nỗ lực của mỗi cá nhân không chỉ phục vụ lợi ích riêng mà còn góp phần vào sự phát triển chung của xã hội, vì lợi ích cá nhân chính là nguồn tài nguyên quý giá Khi kinh tế phát triển, nhu cầu bảo hộ độc quyền sáng chế không còn chỉ giới hạn ở cá nhân mà đã trở thành lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp Bằng độc quyền sáng chế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận từ việc bán, chuyển nhượng quyền sử dụng, đồng thời cung cấp nguồn thu tài chính và động lực cho nhà sáng chế tái đầu tư vào quá trình sáng tạo.
Việc chỉ tập trung vào bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ có thể dẫn đến lạm dụng độc quyền, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tri thức và thành quả khoa học của công chúng Hơn nữa, việc bảo hộ quá lâu và quá rộng có thể cản trở giao lưu văn hóa và khoa học giữa các quốc gia Ngoài các quyền cơ bản như quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và tự do ngôn luận, công chúng còn có quyền tiếp cận tri thức một cách công bằng và hợp lý.
10 Điểm d Khoản 1 Điều 124 Luật SHTT 2005
11 Kamil Idris (2005), Sở hữu trí tuệ : Một công cụ đắc lực để phát triển nền kinh tế, Hà Nội, tr 78
In his seminal work "An Inquiry into the Nature and Cause of the Wealth of Nations," Adam Smith emphasizes the rightful access and inheritance of human knowledge To balance social interests, it is essential to limit monopolistic control over inventions while still protecting the legitimate rights of creators.
Tại Việt Nam, pháp luật quy định bốn giới hạn về quyền độc quyền sử dụng sáng chế Các chủ thể có quyền sử dụng mà không cần xin phép trong các trường hợp sau: (i) khi hết thời gian bảo hộ, tức là 20 năm kể từ ngày nộp đơn; (ii) khi phạm vi bảo hộ chỉ giới hạn trong lãnh thổ Việt Nam, cho phép sử dụng tự do ở những quốc gia không bảo hộ sáng chế; (iii) khi thừa nhận quyền sử dụng trước sáng chế; (iv) trong trường hợp bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế; và (v) khi hết quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế.
Hết quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế
Thuyết hết quyền SHTT, hay còn gọi là thuyết bán lần đầu, khẳng định rằng khi chủ sở hữu sáng chế (CSHSC) hoặc bất kỳ ai được chuyển nhượng quyền sử dụng sáng chế đưa sản phẩm ra thị trường, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đối với sản phẩm đó sẽ chấm dứt Người được cấp bằng độc quyền sẽ không còn quyền loại trừ người mua khỏi việc sử dụng hoặc bán lại sản phẩm đã mua Nguyên tắc cơ bản của thuyết này là người được cấp bằng sáng chế đã nhận được sự công nhận và phần thưởng cho những nỗ lực sáng tạo và đầu tư của họ trong việc phát triển sáng chế.
Hệ quả của việc hết quyền sở hữu trí tuệ chỉ giới hạn quyền can thiệp của chủ sở hữu sản phẩm đến việc lưu thông, nhập khẩu và khai thác công dụng của sản phẩm đã bán, mà không trao thêm quyền nào cho người mua Đặc biệt, quyền sản xuất sản phẩm vẫn hoàn toàn thuộc về độc quyền của chủ sở hữu sản phẩm.
Tại Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 125 của Luật SHTT 2005 Theo đó, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được cấp quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý không có quyền cấm người khác lưu thông, nhập khẩu hoặc khai thác công dụng của sáng chế.
Lê Thị Nam Giang (2009) trong bài viết “Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội” đã phân tích mối quan hệ giữa quyền lợi của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích chung của xã hội Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đạt được sự cân bằng hợp lý giữa hai bên, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và công bằng trong việc sử dụng và bảo vệ tài sản trí tuệ.
16 Điểm d kKhoản 2 Điều 125 Luật SHTT 2005
17 Điểm đ Khoản 2 Điều 125 Luật SHTT 2005
18 Điểm b Khoản 2 Điều 125 Luật SHTT 2005
Theo Khoản 1 Điều 124 và Điểm b Khoản 1 Điều 125 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sản phẩm được đưa ra thị trường hợp pháp, bao gồm cả thị trường nước ngoài, trừ những sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được ủy quyền phát hành Định nghĩa về "sản phẩm được đưa ra thị trường một cách hợp pháp" được quy định rõ tại Khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP, nêu rõ rằng sản phẩm này phải do chính chủ sở hữu hoặc người được chuyển nhượng quyền sử dụng, bao gồm cả việc chuyển nhượng theo quyết định bắt buộc, hoặc người có quyền sử dụng trước đó đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đưa ra thị trường trong nước hoặc nước ngoài.
CSHSC không có quyền ngăn chặn việc lưu thông, nhập khẩu, hay khai thác công dụng của sản phẩm đã được phát hành trên thị trường toàn cầu, nhưng có quyền ngăn cản các chủ thể khác thực hiện những hành vi tương tự đối với sản phẩm mà không phải do CSHSC hoặc bên được CSHSC ủy quyền đưa ra thị trường.
Theo Điểm b Khoản 2 Điều 125 và Khoản 2 Điều 21 Nghị định 103/2006/NĐ-CP, quyền của chủ sở hữu sáng chế (CSHSC) sẽ chấm dứt khi hai điều kiện sau được thỏa mãn: (i) Sản phẩm đã được đưa ra thị trường, không phân biệt thị trường trong nước hay nước ngoài; (ii) Người đưa sản phẩm ra thị trường có thể là CSHSC, người được chuyển nhượng quyền sử dụng, hoặc người có quyền sử dụng trước sáng chế Học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) có thể được minh họa thông qua ví dụ cụ thể.
A được cấp bằng độc quyền sáng chế, được sử dụng để tạo sản phẩm X tại Việt Nam;
A cấp phép cho B được sản xuất và bán X duy nhất tại thị trường Lào;
C mua sản phẩm X từ B ở Lào, đem đến Việt Nam, bán lại cho D để sử dụng;
Hành vi bán lại của C và việc sử dụng sản phẩm của D không xâm phạm quyền của A hoặc B, vì việc bán sản phẩm đã làm tiêu hao quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế của chủ sở hữu.
20 Nguyễn Như Quỳnh, tlđd (4), tr 34-35
Học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ chỉ áp dụng cho hành vi bán hợp pháp; ví dụ, nếu B bán sản phẩm X tại Thái Lan mà không có quyền từ A, thì cả B và E đều vi phạm quyền SHTT của A Điều kiện áp dụng học thuyết này tại Việt Nam khác với Hoa Kỳ, EU và các nước ASEAN Tại EU, để áp dụng học thuyết, các bên phải chứng minh rằng sản phẩm đã được đưa ra thị trường hợp pháp và thị trường đó là EU, với tính hợp pháp được xác định bởi sự đồng ý của chủ sở hữu Tại Philippines, độc quyền của chủ sở hữu không còn khi hàng hóa được đưa ra thị trường, trong khi Singapore quy định rằng việc nhập khẩu sản phẩm được bảo hộ không vi phạm quyền nếu sản phẩm được sản xuất bởi chính chủ sở hữu hoặc với sự đồng ý của họ.
Tại Hoa Kỳ, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) theo thuyết bán lần đầu chấm dứt khi sản phẩm được bán lần đầu tiên trên thị trường bởi chính chủ sở hữu hoặc với sự đồng ý của họ Đặc biệt, việc bán sản phẩm của người có quyền sử dụng trước cũng dẫn đến việc chấm dứt quyền SHTT Tương tự, tại Malaysia, theo Mục 37.2 Đạo luật Sáng chế năm 1983, việc công nhận nhập khẩu song song chỉ xảy ra khi sản phẩm được đưa ra thị trường bởi chủ sở hữu hoặc người được chuyển nhượng quyền sử dụng sáng chế.
21 Tranh chấp thực tế liên quan: Security Materials Co v Mixermobile Co., 72 F Sutr 450 (S.D Cal 1947)
22 Tranh chấp thực tế liên quan: General Talking Pictures Corp v Western Elec Co., 304 U.S 175 (1938); cũng xem: Chemagro Corporation v Universal Chemical Co., 244 F Sutr 486 (E.D Tex 1965)
The American Inventors Protection Act of 1999 (AIPA) under 23 U.S.C Title 35, Article 273(d) addresses the exhaustion of patent rights It states that when a person entitled to assert a defense based on prior commercial use sells or otherwise disposes of a useful end result, this action will exhaust the patent owner's rights to the same extent as if the patent owner had made the sale This provision ensures that the rights of patent owners are limited in situations where prior commercial use is established, promoting fairness in patent law.
(iii) người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quyết định bắt buộc chuyển giao; (iv) người có quyền sử dụng trước sáng chế 24
Theo Khoản 2 Điều 21 Nghị định 103/2006/NĐ-CP, quyền sở hữu trí tuệ sẽ hết hiệu lực ngay cả khi sản phẩm được đưa ra thị trường bởi người được chuyển nhượng quyền sử dụng sáng chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tương tự như quy định tại Malaysia, hoặc bởi người có quyền sử dụng trước sáng chế theo luật Hoa Kỳ và Malaysia Điều này đặt ra câu hỏi về tính hợp lý của quy định này, cũng như việc "đưa sản phẩm ra thị trường" có chỉ bao gồm hành vi bán sản phẩm hay còn có các hành vi khác Phần tiếp theo sẽ phân tích chi tiết các điều kiện áp dụng học thuyết, theo từng điều kiện liên quan đến việc đưa sản phẩm ra thị trường và chủ thể thực hiện hành vi này.
Điều kiện đưa sản phẩm ra thị trường
Xác định thị trường
Thị trường là tập hợp người mua và người bán cho một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể, trong đó người bán quyết định cung cấp sản phẩm, còn người mua xác định nhu cầu Đưa sản phẩm ra thị trường là giai đoạn cuối trong chuỗi thực hiện từ khi hình thành ý tưởng, nơi diễn ra hai hoạt động chính là tiếp thị và bán hàng.
Khái niệm “đưa sản phẩm ra thị trường” trong kinh tế, bao gồm tiếp thị và bán sản phẩm, trở nên quá rộng khi áp dụng cho học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ Một ví dụ điển hình là tình trạng kinh doanh hàng khuyến mại, trong đó công ty A ký hợp đồng với công ty B để sản xuất xe đạp, sử dụng xe đạp này làm quà tặng khi khách hàng mua một số lượng sữa nhất định Mặc dù hàng hóa được ghi rõ là “tặng kèm, không bán”, nhưng thực tế, nhiều xe đạp vẫn bị bán ra do tồn kho từ các đợt khuyến mại hoặc do các siêu thị và cửa hàng cố tình không tặng cho khách hàng.
24 Pháp luật các nước ASEAN, được tổng hợp từ: Nguyễn Như Quỳnh, tlđd (4), tr 28-36 (Đã kiểm tra hiệu lực văn bản tính đến 10/7/2017)
25 N Gregory Mankiw (2011), Principles of Economics, Sixth Edition, Cengage Learning, tr 66
Mô hình Stage-Gate của Robert Cooper bao gồm 5 giai đoạn quan trọng trong quy trình đưa sản phẩm ra thị trường: (i) Định nghĩa phạm vi, (ii) xây dựng mô hình sản phẩm, (iii) phát triển sản phẩm, (iv) thử nghiệm và (v) đưa sản phẩm vào thị trường Mô hình này đã được nhiều công ty quốc tế áp dụng thành công Trong bối cảnh một công ty B sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho chiếc xe đạp, câu hỏi đặt ra là liệu công ty này có quyền ngăn cấm các chủ thể khác bán lại sản phẩm khuyến mại hay không Điều này phụ thuộc vào việc xác định chiếc xe đạp đã được đưa ra thị trường hay chưa và liệu học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ có áp dụng trong trường hợp này hay không.
Thị trường là tập hợp những người mua và bán một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể Để áp dụng học thuyết về quyền sở hữu trí tuệ, cần xác định rõ thị trường sản phẩm, có thể là giữa công ty A và nhà sản xuất xe đạp tại thời điểm bàn giao sản phẩm, hoặc là thị trường nơi người tiêu dùng nhận chiếc xe đạp và có nhu cầu sử dụng.
Sản phẩm được coi là đã được đưa vào thị trường ngay khi công ty sản xuất (công ty B) chuyển giao quyền sở hữu cho bên có nhu cầu (công ty A), cho phép họ tiếp cận, sở hữu và sử dụng sản phẩm Việc sử dụng này không chỉ bao gồm khai thác các tính năng vật lý của sản phẩm mà còn có thể bao hàm việc khai thác giá trị thương mại, như sử dụng sản phẩm cho mục đích khuyến mại hoặc tặng kèm Do đó, sản phẩm đã chính thức có mặt trên thị trường từ thời điểm chuyển giao, bất kể chức năng của sản phẩm đã được khai thác hay chưa.
Sản phẩm được bảo hộ theo học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) phải chứa đối tượng là sáng chế Theo Khoản 2 Điều 4 của Luật SHTT 2005, có hai loại sản phẩm chứa sáng chế được bảo hộ: thứ nhất, sản phẩm có một hoặc nhiều bộ phận cấu thành là sáng chế; thứ hai, sản phẩm được tạo ra từ một quy trình Để xác định sản phẩm đã được đưa ra thị trường, cần làm rõ hai yếu tố quan trọng: các hành vi thực hiện và thời điểm sản phẩm được bảo hộ sáng chế ra thị trường.
Các hành vi đưa sản phẩm ra thị trường
Một sản phẩm có thể đảm nhận hai chức năng chính trong kinh doanh: (i) được bán ra thị trường; hoặc (ii) không được bán mà phục vụ cho các mục đích kinh doanh khác.
Trong bối cảnh thị trường hiện nay, việc "ăn chặn" đồ khuyến mãi đang trở thành một hiện tượng phổ biến, khi nhiều mặt hàng khuyến mãi được tuồn ra chợ với giá rẻ Các sản phẩm khuyến mãi này không chỉ thu hút người tiêu dùng mà còn tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà bán lẻ Việc xác định rõ ràng các hình thức đưa sản phẩm ra thị trường rất quan trọng, bởi nó ảnh hưởng đến việc áp dụng học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) Do đó, việc quản lý và kiểm soát hàng khuyến mãi là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và các doanh nghiệp hợp pháp.
Pháp luật SHTT Việt Nam chưa có định nghĩa rõ ràng về nội hàm liên quan đến việc đưa hàng hóa ra thị trường, trong khi quy định về quản lý chất lượng sản phẩm lại nhấn mạnh khái niệm "lưu thông trên thị trường" Theo đó, hành vi lưu thông sản phẩm được hiểu bao gồm cả việc bán, trưng bày để bán và vận chuyển Tuy nhiên, quy định hiện hành không cho phép đưa ra kết luận chính xác, nhưng từ các văn bản pháp luật trước đó, có thể nhận thấy rằng nhà lập pháp có xu hướng tập trung vào hành vi "bán" sản phẩm.
Trong vụ tranh chấp giữa Tribeco và Tân Mỹ vào năm 1999, Tân Mỹ đã mua vỏ chai của Tribeco, sau đó cho sữa cacao vào và dán nhãn “An Bình” để bán ra thị trường Mặc dù vỏ chai xuất hiện trên thị trường, nhưng Tribeco chỉ có mục đích bán nước giải khát và yêu cầu các đại lý hoàn lại vỏ chai sau khi khách hàng sử dụng Tribeco đã khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường dựa trên Khoản 2 Điều 803 của Bộ luật Dân sự 1995, quy định rằng trong thời gian bảo hộ sáng chế, mọi cá nhân và pháp nhân có quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mà không cần xin phép hay trả thù lao cho chủ sở hữu, nếu sản phẩm được đưa ra thị trường bởi chủ sở hữu hoặc người có quyền sử dụng trước.
KHCNMT kết luận, vỏ chai được Tân Mỹ sử dụng không do Tribeco trực tiếp bán
The second function can be illustrated through the dispute between Tribeco and Tan My, as referenced in the work by Viet Dung, Tran, Nguyen Nhu, Quynh, and Giang, Le Thi Nam (2011), titled “Vietnam - A Case Study for Sustainable Technology Transfer, Sustainable Technology Transfer - From Developed To Least Developed Countries,” published by Kluwer Law International, pages 236-239 A summary of the case can be found in Appendix 1.
29 Điều 4 Điều kiện bảo đảm chất lượng sản phẩm trong sản xuất trước khi đưa ra thị trường
Người sản xuất cần tuân thủ các yêu cầu quản lý chất lượng sản phẩm để đảm bảo hàng hóa đạt tiêu chuẩn trước khi đưa ra thị trường Điều 7 quy định về các điều kiện cần thiết để bảo đảm chất lượng hàng hóa nhập khẩu trước khi lưu thông.
Người nhập khẩu cần tuân thủ các yêu cầu quản lý chất lượng hàng hóa trước khi lưu thông sản phẩm trên thị trường, theo Nghị định số 132/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/12/2008, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Khoản 1 Điều 21 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định rằng việc bán hoặc đưa sản phẩm ra thị trường là không được phép Đặc biệt, kết luận đã xem xét đến yếu tố "đồng ý" của CSHSC, mặc dù điều này chưa được quy định trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam tại thời điểm giải quyết.
Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, ban hành ngày 3/5/2000, quy định rõ về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp Theo đó, điều 8.1 nêu rõ các trường hợp ngoại lệ không bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có việc sử dụng hoặc thực hiện các hoạt động thương mại như nhập khẩu, bán, tàng trữ để bán, rao bán, quảng cáo để bán các sản phẩm, hàng hóa đã được chủ sở hữu công nghiệp đưa ra thị trường, bao gồm cả thị trường nước ngoài.
Hoạt động "đưa ra thị trường" được hiểu là "cung cấp" sản phẩm, bao gồm phân phối và bán, do CSHSC thực hiện Mặc dù có quy định về việc "đưa sản phẩm ra thị trường", nhưng ý định của nhà lập pháp thực sự là nhấn mạnh vào việc "bán hoặc phân phối sản phẩm" Tuy nhiên, điều đáng tiếc là đến Luật SHTT 2005 và Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN vẫn chưa làm rõ vấn đề này.
Vào ngày 29/6/2015, Bộ Khoa học Công nghệ đã ban hành Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp Tuy nhiên, Thông tư này không cung cấp giải thích cụ thể về các hành vi vi phạm Phân tích dưới đây sẽ làm rõ cách hiểu phù hợp với ý tưởng của nhà làm luật theo quy định pháp luật hiện hành.
1.2.2.1 Bán sản phẩm Đầu tiên, hành vi bán là trường hợp phổ biến để đưa sản phẩm ra thị trường Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14/6/2005 (Luật Thương mại
Theo quy định năm 2005, hành vi mua bán hàng hóa được xác định là hoạt động thương mại, trong đó bên bán có trách nhiệm giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua, đồng thời nhận thanh toán Bên mua cũng có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán và nhận hàng cùng quyền sở hữu theo thỏa thuận Điều này giải thích nguyên nhân phát sinh học thuyết về việc hết quyền sở hữu trí tuệ (SHTT).
31 Điểm d Điều 8.1 Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT
Theo Khoản 8 Điều 4 Luật Thương mại 2005, việc sử dụng sáng chế để sản xuất sản phẩm được coi là hành vi thương mại hóa sáng chế Dù là ai sử dụng sáng chế trong giai đoạn này, việc sử dụng SPCSC vẫn được xem là hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi Do đó, pháp luật thương mại sẽ điều chỉnh việc đưa sản phẩm ra thị trường.
Khi quyền sở hữu sản phẩm đã được chuyển giao cho người mua, chủ sở hữu không còn khả năng can thiệp vào quyền quyết định sản phẩm Mặc dù quyền sở hữu sáng chế vẫn thuộc về chủ sở hữu sáng chế, sản phẩm đã trở thành một thực thể độc lập, trong đó sáng chế chỉ là một phần cấu thành hoặc được sản xuất theo quy trình được bảo vệ Do đó, quyền sở hữu sáng chế và quyền sở hữu sản phẩm tồn tại độc lập với nhau.
Thời điểm đưa sản phẩm ra thị trường
Hiện nay, có hai loại sáng chế với thời điểm hết quyền khác nhau: sáng chế đơn thông thường và sáng chế kết hợp.
1.2.3.1 Sáng chế đơn thông thường
Theo một số tác giả, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đối với sáng chế sẽ chấm dứt khi chủ sở hữu sáng chế (CSHSC) nhận được lợi ích kinh tế Vậy thời điểm CSHSC nhận lợi ích kinh tế là khi nào? Theo pháp luật Việt Nam, thời điểm này được xác định là khi quyền sở hữu sáng chế được chuyển giao Cụ thể, Bộ luật Dân sự (BLDS số 91/2015/QH13) ban hành ngày 24/11/2015 quy định rõ về vấn đề này.
Theo quy định năm 2015, có ba loại hợp đồng mua bán phổ biến: mua thông thường (Điều 430), mua sau khi sử dụng thử (Điều 452) và mua trả chậm, trả dần (Điều 453) Ngoài ra, Luật Thương mại 2005 cũng công nhận hoạt động mua bán qua sở giao dịch hàng hóa (Mục 3 Chương II).
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh (2016) về pháp luật nhập khẩu song song hàng hóa được bảo hộ nhãn hiệu, có thể thấy rằng trong hợp đồng mua bán thông thường, bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua ngay khi nhận tiền Tương tự, trong hợp đồng mua sau khi sử dụng thử, bên bán giao sản phẩm cho bên mua để dùng thử trong thời gian xác định; nếu bên mua không phản hồi, hợp đồng sẽ được coi là chấp nhận Trong trường hợp này, sản phẩm vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán cho đến khi bên mua thanh toán, do đó không xảy ra hiện tượng hết quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) Đối với hợp đồng mua trả chậm, bên bán vẫn giữ quyền sở hữu cho đến khi bên mua thanh toán đủ, và chỉ khi đó, quyền sở hữu mới được chuyển giao, bên bán mới nhận được lợi ích kinh tế từ sản phẩm.
Hình thức mua bán qua sở giao dịch hàng hóa bao gồm hai loại hợp đồng chính: hợp đồng mua bán hàng hóa kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn Hợp đồng mua bán hàng hóa kỳ hạn cho phép các bên xác định mức giá tại thời điểm ký kết, nhưng việc giao hàng sẽ diễn ra trong tương lai theo thỏa thuận Trong khi đó, hợp đồng quyền chọn cho phép bên mua trả một khoản tiền để có quyền mua hoặc bán hàng hóa với mức giá đã được xác định trước, nhưng không có nghĩa vụ phải thực hiện giao dịch Tại thời điểm ký kết, không có sự chuyển giao quyền sở hữu thực tế, mà chỉ khi đến hạn, bên mua thanh toán giá trị hợp đồng và bên bán giao tài sản thì mối quan hệ mua bán mới được hoàn tất.
41 Khoản 2 Điều 64 Luật Thương mại 2005
Các bên có thể thỏa thuận điều khoản loại trừ giao dịch trong tương lai, cho phép bên mua thanh toán bằng tiền mà không nhận hàng, hoặc bên bán thanh toán bằng tiền mà không giao hàng (Khoản 2, 3 Điều 65 Luật Thương mại 2005) Ngoài ra, các bên có thể ký kết hợp đồng mà không có ý định mua hàng hóa thực sự, nhằm mục đích bảo vệ giá, hạn chế rủi ro biến động giá và sử dụng như công cụ tài chính để kiếm lời từ sự biến động giá cả Khi đó, SPCSC mà các bên giao dịch được coi là đã được đưa ra thị trường.
1.2.3.2 Thời điểm hết quyền sở hữu trí tuệ khi bán sáng chế kết hợp
Hết quyền sở hữu trí tuệ sau khi chuyển giao quyền sở hữu là một khái niệm tổng quát, nhưng khi sản phẩm bán ra là một phần của hệ thống được cấp bằng sáng chế, vấn đề trở nên phức tạp hơn Tại Việt Nam, chưa có vụ việc nào được ghi nhận liên quan đến vấn đề này Tuy nhiên, việc tham khảo kinh nghiệm giải quyết tranh chấp tại Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam xây dựng các quy định có tính dự đoán cao hơn trong tương lai.
Sáng chế kết hợp là loại sáng chế được hình thành từ việc kết hợp các thành phần hiện có theo một cách mới, nhằm đạt tiêu chí tính mới Mỗi thành phần riêng lẻ trong sáng chế kết hợp không được bảo hộ và không thể thực hiện chức năng của sản phẩm một mình Thông thường, sáng chế kết hợp bao gồm hai thành phần trở lên, tạo thành một tổng thể được bảo hộ, khác với sáng chế thông thường chỉ cần một thành phần đơn lẻ để đủ điều kiện bảo hộ.
Chẳng hạn, X là sáng chế thuộc sở hữu của T X cấu thành bởi ba bộ phận, được cung cấp lần lượt bởi các nhà cung ứng linh kiện A, B, C
Giả sử T cấp phép cho D sử dụng sáng chế X để lắp ráp sản phẩm, thì việc A, B, C cung cấp linh kiện và D sản xuất sản phẩm là hợp pháp Khi D bán sản phẩm ra thị trường, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) của T sẽ bị ảnh hưởng.
Nếu T chỉ cấp phép cho nhà cung cấp linh kiện A, khi A cung cấp linh kiện cho D lắp ráp, liệu điều này có ảnh hưởng đến quyền sở hữu trí tuệ của T đối với toàn bộ sáng chế không? Câu hỏi đặt ra là linh kiện của A chỉ là một phần trong tổng thể sáng chế X.
Năm 2008, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ xét xử tranh chấp liên quan đến câu hỏi pháp lý trên, trong vụ việc giữa Quanta Computer, Inc v LG Electronics, Inc 45
(phán quyết Quanta) Tòa án Tối cao ủng hộ quan điểm của Quanta, bởi vì bộ vi xử
44 Edmund J Seaset (1970), “Patent Law: Repair-Reconstruction A Review, Analysis, and Proposal”, Drake
Trong số 20 của Tạp chí Luật, trang 85, có đề cập đến việc một số sáng chế dược phẩm đã được chuyển nhượng quyền sử dụng cho Công ty Dược phẩm DO HA và được bảo hộ tại Việt Nam Một ví dụ điển hình là sáng chế “CLOPIDOGREL + ACETYL SALICYLIC ACID OR ASPIRIN”, kết hợp giữa clopidogrel và acetyl salicylic acid (hay aspirin) Để biết thêm thông tin, vui lòng truy cập: [http://www.dohapharma.com/index.php?page=list-of-valid-patents-in-vietnam] (truy cập ngày 13/7/2017).
Quanta Computer, Inc v LG Electronics, Inc (2008) nhấn mạnh rằng các vi xử lý và chipset của Intel không thể hoạt động cho đến khi được kết nối với bộ nhớ và các linh kiện khác Intel thiết kế sản phẩm của mình để chỉ hoạt động khi quy trình này được thực hiện, do đó Quanta không có lựa chọn nào khác ngoài việc tuân thủ các yêu cầu của Intel khi tích hợp sản phẩm của họ vào máy tính Quanta không có kiến thức về cấu trúc bên trong của bộ vi xử lý hay chipset mà Intel sở hữu, và để thực hiện chức năng của bằng sáng chế, Intel yêu cầu phải tích hợp sản phẩm của họ vào máy tính.
Theo phán quyết, nguyên tắc quan trọng được rút ra là quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) không chỉ kết thúc với một sản phẩm cụ thể, mà là "hết quyền đồng thời" Điều này có nghĩa là quyền SHTT đối với sáng chế sẽ chấm dứt khi bất kỳ thành phần nào trong tổng thể sáng chế được bán ra thị trường, miễn là thành phần đó là thiết yếu và thực hiện chức năng của sáng chế.
Tính thiết yếu của thành phần trong sáng chế có nghĩa là nếu thiếu thành phần đó, sáng chế sẽ không còn giá trị sử dụng và không đủ điều kiện để được bảo hộ Điều này có nghĩa rằng các thành phần khác của sáng chế phải không thiết yếu Cần lưu ý rằng chỉ xét đến bộ phận thiết yếu của sáng chế, không phải của sản phẩm, vì sản phẩm có thể bao gồm nhiều bộ phận, trong đó có những phần không được bảo hộ Đối với sáng chế kết hợp hay sáng chế phụ thuộc, chỉ một số phần trong nhiều bộ phận cấu thành được coi là thiết yếu Ví dụ, trong vụ việc liên quan đến bộ nhớ và một số bộ phận khác của Quanta gắn vào bộ vi xử lý, nếu sáng chế kết hợp có từ hai thành phần thiết yếu trở lên, việc bán một bộ phận sẽ không làm mất quyền sở hữu trí tuệ.
Cơ chế này cho phép chủ sở hữu bằng sáng chế tiếp tục nhận giá trị từ sản phẩm, miễn là thành phần đó không phải là tính năng duy nhất thiết yếu.
Điều kiện về chủ thể đưa sản phẩm ra thị trường
Chủ sở hữu sáng chế đưa ra thị trường
Chủ thể có quyền đưa hàng hóa ra thị trường là CSHSC, có thể thực hiện việc này trực tiếp hoặc thông qua nhà phân phối CSHSC cũng có thể ủy thác cho bên thứ ba như đại lý thương mại để bán hàng hóa thay mình Trong cả hai trường hợp, hàng hóa được đưa ra thị trường với sự đồng ý của chủ sở hữu, đảm bảo tính hợp pháp trong quá trình phân phối.
“đồng ý” có nghĩa khái quát và phù hợp để giải thích trong trường hợp CSHSC thông qua trung gian thương mại để đưa sản phẩm ra thị trường
Bên được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế đưa ra thị trường
Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ghi nhận SPCSC được đưa ra thị trường bởi người được chuyển giao quyền sử dụng, kể cả chuyển giao quyền sử dụng theo quyết định bắt buộc So sánh với quy định tại Châu Âu, Hoa Kỳ hay một số nước ASEAN, ở đó chủ thể đưa sản phẩm ra thị trường là chủ sở hữu hoặc bên khác với sự đồng ý của chủ sở hữu Như vậy, pháp luật Việt Nam có sự khác biệt cơ bản: Đầu tiên, từ “đồng ý” của các nước được thay thế bằng bên được
"Chuyển giao quyền sử dụng" thực chất là việc chủ sở hữu sáng chế (CSHSC) đồng ý cho bên thứ ba đưa sản phẩm ra thị trường Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng quy định về trường hợp chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng sáng chế.
1.3.2.1 Chủ sở hữu sáng chế đồng ý chuyển giao quyền sử dụng Đây là các tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền sử dụng theo Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP Khi được cấp bằng độc quyền sáng chế, chủ sở hữu có quyền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế 55 qua hình thức bằng hợp đồng độc quyền hoặc không độc quyền; hoặc thông qua hình thức chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng sáng chế Hình thức chuyển giao bắt buộc sẽ được làm rõ ở phần sau Đưa sản phẩm vào thị trường là một hình thức lưu thông sản phẩm để tìm kiếm lợi nhuận Đây là quyền sử dụng của CSHSC khi được cấp văn bằng bảo hộ 56
Nếu chỉ dựa vào ngôn ngữ một cách cứng nhắc, bên nhận ủy thác và bên đại lý thương mại khi bán sản phẩm có thể không thực hiện đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu sản phẩm Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa bên cung cấp và bên có nhu cầu trên thị trường, chủ sở hữu sản phẩm vẫn được coi là bên bán Thông tin chi tiết được trình bày trong Phụ lục 4.
55 Lần lượt được quy định tại Mục 1 và Mục 2 Chương X Luật SHTT 2005
CSHSC có thể chuyển giao quyền sử dụng cho bên thứ ba và nhận giá chuyển giao thông qua hợp đồng bằng văn bản Hợp đồng này xác nhận quyền của bên nhận chuyển giao trong việc lưu thông sản phẩm, bao gồm bán, trưng bày để bán và vận chuyển Tuy nhiên, quyền này không bị chấm dứt khi hàng hóa được đưa ra thị trường, trừ khi bên nhận chuyển giao sử dụng sáng chế vượt quá phạm vi đã thỏa thuận.
Tại các quốc gia theo hệ thống Dân luật, học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) dựa trên sự đồng ý ngầm định cho phép người mua sở hữu tài sản mà không bị ràng buộc Khi chủ sở hữu sản phẩm (CSHSC) bán hàng mà không kèm theo điều kiện, người mua (SPCSC) có quyền sử dụng sản phẩm theo ý định của họ Tuy nhiên, nếu CSHSC cung cấp sản phẩm với thông tin rõ ràng về các điều kiện như khuyến mại hay thu hồi, họ có quyền ngăn cản việc bán lại sản phẩm đó, như trong vụ việc Tribeco.
Trong bối cảnh so sánh pháp luật giữa EU và các nước ASEAN, thuật ngữ “đồng ý” được sử dụng thay cho “được chuyển giao” trong mối quan hệ quyền sở hữu trí tuệ Mối quan hệ “đồng ý” có thể xuất hiện trong bốn trường hợp chính: (i) khi chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ ở quốc gia xuất khẩu cũng là chủ sở hữu tại quốc gia nhập khẩu đối với cùng một đối tượng sở hữu trí tuệ; (ii) khi có mối quan hệ kinh tế giữa các bên thông qua công ty mẹ - con; (iii) qua hợp đồng cung cấp – phân phối, bao gồm đại lý thương mại và ủy thác mua hàng hóa; và (iv) khi chuyển giao quyền sử dụng sáng chế.
Hành vi được pháp luật SHTT Việt Nam công nhận chỉ bao gồm một trong bốn trường hợp đã nêu Nếu các chủ thể từ (i) đến (iii) đưa sản phẩm ra thị trường, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sở hữu trí tuệ.
58 Khoản 1 Điều 21 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP
59 Điểm d Khoản 1 Điều 144 Luật SHTT 2005
In "Parallel Trade in Europe: Intellectual Property, Competition and Regulatory Law," Stothers (2007) explores the complexities of parallel trade within the European context, emphasizing its implications for intellectual property rights and competition law This analysis is further contextualized by Ghosh (2013) in the ICTSD Issue Paper, which discusses the lessons learned from national experiences in implementing exhaustion policies, highlighting the need for a balanced approach to intellectual property management.
Tác phẩm của Nguyễn Thanh Tú và Lê Thị Thu Hiền (2014) đã phân tích vấn đề nhập khẩu song song dưới góc độ pháp luật sở hữu trí tuệ, hợp đồng và cạnh tranh Trong đó, quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu sở hữu công nghiệp (CSHSC) được bảo lưu nhưng không đủ rộng, dẫn đến việc mở rộng độc quyền trong việc sử dụng sáng chế.
1.3.2.2 Bên đƣợc chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng sáng chế đƣa ra thị trường
Quyền sử dụng sáng chế có thể bị chuyển giao bắt buộc cho tổ chức hoặc cá nhân khác theo quyết định của cơ quan nhà nước mà không cần sự đồng ý của người nắm độc quyền Chủ thể này chỉ cần nhận một khoản tiền đền bù phù hợp, tùy thuộc vào giá trị kinh tế của quyền sử dụng Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam, học thuyết hết quyền sở hữu trí tuệ vẫn có thể xảy ra dù không có sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế Điều này đặt ra câu hỏi về tính hợp lý của quy định này.
Nghiên cứu của một nhóm tác giả về án lệ EU chỉ ra rằng việc CSHSC bị buộc phải đưa sản phẩm ra thị trường không được coi là sự đồng ý theo học thuyết hết quyền Nhóm tác giả khẳng định rằng trong trường hợp này, CSHSC không thể được xem là đồng ý với việc khai thác quyền SHTT của bên được cấp quyền sử dụng Sự bắt buộc này cản trở CSHSC trong việc tự do định đoạt các điều kiện khi đưa sản phẩm ra thị trường.
Theo một tác giả, việc chấm dứt quyền sở hữu trí tuệ xảy ra ngay cả trong trường hợp bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế tại Việt Nam, nhằm nâng cao khả năng tiếp cận với những thành quả sáng tạo Việt Nam thường là bên nhận chuyển giao trong các hợp đồng này Khi quyền sở hữu trí tuệ kết thúc, họ có quyền tuyệt đối trong việc khai thác và sử dụng sản phẩm được bảo hộ mà không bị can thiệp từ chủ sở hữu sáng chế.
Trước khi đánh giá tính hợp lý của chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng sáng chế, cần xem xét nguyên nhân tồn tại của quy định này Theo một nghiên cứu, có ba lý do chính được công nhận: đầu tiên là nhằm kiểm soát sự lạm dụng độc quyền của chủ sở hữu sáng chế, đặc biệt khi họ từ chối chuyển giao quyền sử dụng với các điều kiện thương mại không hợp lý.
63 Điều 24 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP
Tại địa chỉ 64 Nguyễn Thanh Tú, Lê Thị Thu Hiền (Chủ biên), tlđd (61), trang 156-157, có thể tham khảo thêm phần tranh luận của các bên trong phán quyết Pharmon BV v Hoechst AG., [1985] EUECJ R-19/84 (9 tháng 7 năm 1985) tại Phụ lục 1.
65 Nguyễn Như Quỳnh, tlđd (4), tr 36
Do bên có quyền sử dụng trước đưa ra thị trường
Hành vi lưu thông, nhập khẩu và khai thác SPCSC của bên thứ ba là hợp pháp khi CSHSC đã hết quyền SHTT đối với sáng chế, điều này chỉ xảy ra khi CSHSC đưa SPCSC ra thị trường Tuy nhiên, nếu người có quyền sử dụng trước bán sản phẩm mà không áp dụng học thuyết hết quyền SHTT, hành vi bán vẫn hợp pháp theo Điều 134 Luật SHTT 2005, nhưng người mua sẽ xâm phạm quyền SHTT đối với sáng chế do CSHSC vẫn còn quyền Điều này tạo ra nghịch lý khi không công nhận học thuyết hết quyền SHTT, khiến người có quyền sử dụng trước không thể thực hiện quyền của mình, vì khách hàng có thể từ chối mua hàng do lo ngại về việc xâm phạm quyền SHTT, ngay cả khi chỉ sử dụng sản phẩm.
Trường hợp 2: Việt Nam thực hiện đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) liên quan đến việc đưa sản phẩm vào thị trường bởi những người có quyền sử dụng trước, theo quy định của Luật SHTT.
Theo quy định hiện hành năm 2005, C không vi phạm quyền độc quyền sử dụng sáng chế, mặc dù không phải là bên bán sản phẩm CSHSC đã mất quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế được B sản xuất Điều này hợp lý vì từ giai đoạn sản xuất, A đã không có quyền can thiệp vào số lượng, mẫu mã, giá bán hay đối tượng mua hàng của B Do đó, CSHSC đã mất một phần quyền sở hữu trí tuệ ngay khi quyền của người có quyền sử dụng trước được công nhận.
Pháp luật Việt Nam công nhận rằng quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) của chủ sở hữu sẽ chấm dứt khi người có quyền sử dụng trước đưa sản phẩm ra thị trường, điều này thể hiện sự hợp lý trong việc giải quyết các nghịch lý giữa hai trường hợp khác nhau.