1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hoạt động thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm

90 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Thanh Tra Vệ Sinh An Toàn Thực Phẩm
Tác giả Đặng Thị Ngọc Uyên
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Thương Huyền
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Thương Mại
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2009
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 90
Dung lượng 749,19 KB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái quát chung về thanh tra VSATTP (10)
    • 1.1.1. Khái niệm thanh tra VSATTP (10)
    • 1.1.2. Vị trí, vai trò của thanh tra VSATTP (18)
  • 1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật thanh tra VSATTP (0)
    • 1.2.1. Giai đoạn năm 1945 – năm 1954 (22)
    • 1.2.2. Giai đoạn 1955 – năm 1975 (0)
    • 1.2.3. Giai đoạn năm 1976 – trước năm 1990 (24)
    • 1.2.4. Giai đoạn 1990 đến nay (0)
  • 1.3. Những quy định của pháp luật hiện hành về thanh tra VSATTP (28)
    • 1.3.1. Pháp luật về tổ chức thanh tra VSATTP (28)
    • 1.3.2. Pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của thanh tra (33)
    • 1.3.3. Pháp luật về hoạt động thanh tra VSATTP (35)
  • 2.1. Thực trạng pháp luật thanh tra VSATTP (44)
    • 2.1.1. Thực trạng pháp luật về tổ chức thanh tra VSATTP (44)
    • 2.1.2. Thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra VSATT (45)
    • 2.1.3. Thực trạng pháp luật về cán bộ, thanh tra viên VSATTP (48)
    • 2.1.4. Thực trạng pháp luật về hoạt động thanh tra VSATTP (51)
  • 2.2. Thực tiễn hoạt động thanh tra VSATTP (56)
    • 2.2.1. Thực tiễn tổ chức thanh tra VSATTP (56)
    • 2.2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra (56)
    • 2.2.3. Thực tiễn đội ngũ thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra VSATTP (57)
    • 2.2.4. Thực tiễn hoạt động thanh tra VSATTP (60)
  • 2.3. Nguyên nhân của thực trạng hoạt động thanh tra VSATTP (65)
    • 2.3.1. Tổ chức thanh tra VSATTP chưa ổn định, thống nhất (65)
    • 2.3.2. Cán bộ, thanh tra viên thiếu, yếu (65)
    • 2.3.3. Công tác tuyên truyền chưa đạt hiệu quả cao (65)
    • 2.3.4. Nhận thức của người dân, của đối tượng thanh tra còn hạn chế (66)
    • 2.3.5. Kinh phí, phương tiện kĩ thuật đảm bảo cho hoạt động thanh tra VSATTP chưa hợp lý (68)
    • 2.3.6. Việc xử lý vi phạm, áp dụng chế tài còn nhiều vướng mắc (69)
    • 2.3.7. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, sâu sát (70)
  • 2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra VSATTP (72)
    • 2.4.1. Hoàn thiện pháp luật về VSATTP (72)
    • 2.4.2. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra VSATTP (0)
    • 2.4.3. Các giải pháp thực tiễn nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra (78)
  • PHỤ LỤC (8)

Nội dung

Khái quát chung về thanh tra VSATTP

Khái niệm thanh tra VSATTP

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng sự thành công hay thất bại của chính sách phụ thuộc vào cách tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và kiểm tra Điều này cho thấy vai trò quan trọng của thanh tra trong việc thực hiện cơ chế, chính sách và quy định pháp luật của nhà nước Thanh tra không chỉ là một phần trong chu trình quản lý hành chính mà còn giúp kiểm nghiệm tính hiệu quả của các chính sách trên thực tế Hoạt động thanh tra phản ánh nội dung và đặc điểm của quản lý, đồng thời điều chỉnh các hoạt động dự báo, lập kế hoạch và tổ chức để phù hợp với thực tiễn Qua đó, thanh tra góp phần thúc đẩy hoạt động quản lý đi đúng hướng và theo quy luật phát triển.

Thanh tra, xuất phát từ tiếng La tinh có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, đề cập đến việc kiểm tra và xem xét hoạt động của một chủ thể đối với một đối tượng cụ thể Nó cũng được hiểu là sự tác động của chủ thể thanh tra lên đối tượng, nhằm thực hiện quyền hạn được giao và đạt được mục đích nhất định.

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thanh tra được hiểu là “điều tra, xem xét để làm rõ sự việc” Trong bối cảnh pháp lý, thanh tra là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật và nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền Căn cứ theo Điều 4, Luật Thanh tra năm 2004, thanh tra nhà nước là quá trình xem xét, đánh giá và xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật của các tổ chức, cá nhân dưới sự quản lý của họ, theo quy trình và thủ tục được quy định Thanh tra nhà nước bao gồm hai loại: thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.

Như vậy, LTT năm 2004 đã chỉ rõ những đặc trưng của hoạt động thanh tra nhà nước, cụ thể:

Thanh tra là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước Hoạt động thanh tra có thể được thực hiện trực tiếp bởi các cơ quan quản lý nhà nước hoặc thông qua các cơ quan thanh tra nhà nước Đối tượng thanh tra bao gồm các cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự quản lý của nhà nước, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa thanh tra và quản lý Tất cả các đối tượng chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước đều có thể trở thành đối tượng của hoạt động thanh tra.

Nội dung thanh tra bao gồm việc xem xét, đánh giá và xử lý việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân Hoạt động thanh tra không chỉ đánh giá sự tuân thủ pháp luật mà còn xem xét tác động của các chính sách và quy định hiện hành, từ đó đề xuất các biện pháp sửa đổi cần thiết Tất cả các hoạt động thanh tra đều dựa trên các quy định pháp luật và các chuẩn mực, chính sách của Nhà nước.

Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2004, thanh tra đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, góp phần vào sự vận hành hiệu quả của các cơ quan quản lý.

Thuật ngữ thanh tra, giám sát và kiểm tra đều mang ý nghĩa tương đồng, nhưng chúng khác nhau về đối tượng, phạm vi, nội dung và chủ thể thực hiện.

Giám sát được định nghĩa là “theo dõi, kiểm tra thực hiện nhiệm vụ” và có thể hiểu là một hoạt động diễn ra trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan Mặc dù giám sát và thanh tra đều có điểm chung trong việc thực hiện nhiệm vụ, nhưng chúng khác nhau cơ bản ở chỗ thanh tra luôn gắn liền với quản lý nhà nước và mang tính quyền lực nhà nước, trong khi giám sát có thể không mang tính quyền lực nhà nước.

Giám sát quyền lực nhà nước là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hệ thống cơ quan nhà nước khác Ví dụ điển hình là sự giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân, nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan này.

7 dân tối cao; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương

Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước là hoạt động giám sát do các chủ thể phi Nhà nước thực hiện, như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, nhằm theo dõi bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức Hình thức giám sát này cũng có thể bao gồm việc giám sát thi công các công trình.

Chức năng giám sát được thực hiện bởi chủ thể mang quyền lực nhà nước hoặc phi nhà nước, trong khi chức năng thanh tra do cơ quan thanh tra thuộc bộ máy hành chính nhà nước đảm nhiệm Đối tượng giám sát bao gồm các cơ quan hành chính và tư pháp, trong khi đối tượng thanh tra chủ yếu là các cơ quan, tổ chức, cá nhân dưới sự quản lý của cơ quan hành pháp Điều này cho thấy phạm vi giám sát rộng hơn so với thanh tra Chủ thể giám sát có thể là cơ quan có hoặc không có quyền lực nhà nước, trong khi chủ thể thanh tra phải là cơ quan thuộc bộ máy hành pháp.

Kiểm tra và thanh tra đều là những công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước, có mối quan hệ chặt chẽ và nhiều điểm giao thoa Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét Trong khi kiểm tra là một hoạt động phản hồi trong chu trình quản lý, thanh tra được hiểu là một loại hình đặc biệt của kiểm tra Các hoạt động trong thanh tra, như kiểm tra sổ sách và đánh giá tài liệu, thực chất cũng là kiểm tra Do đó, nhiều người thường nhầm lẫn giữa hai khái niệm này Tuy nhiên, thanh tra là một hoạt động độc lập và có nhiều điểm khác biệt so với kiểm tra.

Trong hoạt động kiểm tra và thanh tra, Nhà nước là chủ thể chính, nhưng phạm vi của thanh tra hẹp hơn so với kiểm tra Kiểm tra có thể được thực hiện bởi cả chủ thể nhà nước và phi nhà nước, bao gồm các tổ chức chính trị, trong khi thanh tra chủ yếu thuộc về quyền hạn của Nhà nước.

8 tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Công đoàn, Mặt trận, Đoàn thanh niên ) thì chủ thể tiến hành thanh tra phải là Nhà nước

Phạm vi hoạt động kiểm tra rộng rãi và liên tục, diễn ra ở nhiều nơi với đa dạng hình thức, mang tính quần chúng Ngược lại, phạm vi hoạt động thanh tra hẹp hơn, tập trung vào các cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý Với mục đích rõ ràng, Đoàn thanh tra áp dụng các biện pháp nghiệp vụ sâu hơn, đi vào thực chất của vấn đề như xác minh, thu thập chứng cứ, đối thoại, chất vấn và giám định.

Mục đích của thanh tra rộng hơn và sâu hơn so với kiểm tra, đặc biệt là trong các cuộc thanh tra liên quan đến khiếu nại, tố cáo Sự khác biệt này thể hiện rõ khi khiếu nại, tố cáo thường phản ánh sự bức xúc của nhân dân về việc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ Do đó, hoạt động thanh tra không chỉ đơn thuần là xem xét, đánh giá mà còn phải thực hiện các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để tác động lên đối tượng thanh tra.

Vị trí, vai trò của thanh tra VSATTP

a Vị trí của thanh tra VSATTP

Trong hệ thống cơ quan thanh tra Nhà nước, có hai loại thanh tra chính là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành Thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là một hoạt động thanh tra chuyên ngành, có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động thanh tra liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm trong toàn bộ hệ thống thanh tra Nhà nước.

14 này, thanh tra VSATTP đã không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động và củng cố vị trí của mình

Cơ quan thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là một tổ chức nhà nước thuộc hệ thống hành chính, chịu sự quản lý của các cơ quan nhà nước Được Nhà nước trao quyền lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm.

Trước Nghị định 79/2008/NĐ-CP, thanh tra y tế kiêm luôn chức năng thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), dẫn đến việc thanh tra VSATTP không có vị trí độc lập mà chỉ là một phần của thanh tra y tế.

Nghị định 79/2008/NĐ-CP đã mở rộng vị trí của thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), chuyển từ một bộ phận thuộc thanh tra y tế sang một vị trí độc lập trong Cục và Chi cục ATVSTP thuộc Bộ Y tế, cùng với thanh tra Cục và Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản của Bộ NN&PTNT Điều này cho thấy thanh tra VSATTP đã có vị trí riêng và đang từng bước hoàn thiện, phát triển để đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.

Thanh tra VSATTP là hoạt động chuyên ngành nhằm kiểm tra và giám sát, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm Với vai trò độc lập, thanh tra VSATTP không chỉ thực hiện nhiệm vụ thanh tra mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và củng cố vị thế của mình trong lĩnh vực này.

Vai trò của việc hoàn thiện chính sách pháp luật và cơ chế quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) là rất quan trọng, theo Điều 12 Hiến pháp 1992, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện tại còn nhiều khiếm khuyết, do đó, hoạt động thanh tra đóng vai trò thiết yếu trong việc bổ sung và hoàn thiện những thiếu sót này.

Thanh tra, được coi là "tai mắt của trên", thực hiện các hoạt động thanh tra thường xuyên, đặc biệt là thanh tra về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), nhằm tiếp cận trực tiếp các đơn vị cơ sở Qua đó, họ thu thập thông tin và lắng nghe ý kiến, tâm tư từ đối tượng thanh tra Hoạt động này giúp nhận diện những điểm mạnh và hạn chế của các chính sách, quy định pháp luật, đồng thời chỉ ra những vấn đề trong cơ chế quản lý nhà nước, từ đó đưa ra kiến nghị và đề xuất cải tiến.

15 giải pháp cải thiện cho các cơ quan quản lý bao gồm việc hoàn thiện quy định pháp luật và đóng góp ý kiến nhằm nâng cao tổ chức và hoạt động Những biện pháp này sẽ giúp nâng cao năng lực quản lý xã hội của các cơ quan này.

Thanh tra được xem là “cánh tay nối dài” của cơ quan quản lý nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) Trong bối cảnh đổi mới hiện nay, hệ thống quản lý VSATTP còn yếu kém và chưa đồng bộ, do đó hoạt động thanh tra trở thành công cụ pháp lý thiết yếu giúp cơ quan nhà nước kiểm soát và giảm thiểu những rủi ro trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho người tiêu dùng tiếp cận thực phẩm an toàn.

Thanh tra VSATTP giúp phát hiện và phòng ngừa VPPL nói chung và VPPL về VSATTP nói riêng

Hoạt động thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước, nhằm đảm bảo các quy định pháp luật và chính sách được thực hiện nghiêm túc Thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) thực hiện kiểm tra, đánh giá sự chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh thực phẩm, đồng thời chỉ ra các sai phạm và hành vi có nguy cơ vi phạm Hơn nữa, hoạt động này còn nhắc nhở các đối tượng thanh tra tự kiểm tra để tránh vi phạm pháp luật.

Vai trò của thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) trong việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) là điều không thể phủ nhận, đã được chứng minh qua thực tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm soát khéo về sau khuyết điểm nhất định sẽ bớt đi.” Nhận định này thể hiện rõ lợi ích của hoạt động thanh tra và tầm quan trọng của công tác phòng ngừa trong lĩnh vực này.

Hoạt động thanh tra chuyên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện các vi phạm pháp luật (VPPL) mà còn tuân theo nguyên tắc “tuân theo pháp luật”, phù hợp với xây dựng Nhà nước pháp quyền Nguyên tắc này yêu cầu tăng cường tính pháp chế và kỷ cương trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức cũng như trong ứng xử của công dân Việc phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm là cần thiết, và hoạt động thanh tra sẽ “hướng ra bên ngoài” để xem xét, đánh giá các hành vi của đối tượng thanh tra dựa trên quy định pháp luật, từ đó phát hiện sai phạm và đánh giá tính chất của những sai phạm đó.

16 trong phạm vi thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý những vi phạm đó

Các cuộc thanh tra VSATTP đã chỉ ra nhiều sai phạm trong hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước cũng như trong việc tuân thủ pháp luật và tiêu chuẩn kỹ thuật của các đối tượng thanh tra Do đó, việc phát hiện và xử lý vi phạm một cách triệt để hiện nay trở thành nhiệm vụ thiết yếu và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thanh tra VSATTP.

Vai trò đảm bảo pháp chế, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng

Thanh tra VSATTP không chỉ thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành mà còn tư vấn cho cơ quan quản lý về các vấn đề liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm Ngoài ra, họ còn có trách nhiệm giải quyết khiếu nại và tố cáo trong lĩnh vực này, nhằm bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng.

Năm 2004, Mục 3, Chương III đã quy định về hoạt động thanh tra, xác định quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra, cũng như quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến thanh tra Điều này cho thấy sự quan tâm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền dân chủ của cơ quan, tổ chức và cá nhân bị thanh tra, đồng thời đảm bảo sự bình đẳng giữa đối tượng thanh tra và các chủ thể thực hiện thanh tra Qua đó, thể hiện một quan điểm mới về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, cũng như giữa người quản lý và người bị quản lý trong một xã hội công bằng, dân chủ và một Nhà nước pháp quyền.

Sự hình thành và phát triển của pháp luật thanh tra VSATTP

Giai đoạn năm 1945 – năm 1954

Sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời với sự quản lý chủ yếu từ các cơ quan hành chính nhà nước Trong bối cảnh đó, hoạt động thanh tra và kiểm tra tập trung vào việc giám sát các cơ quan và nhân viên thuộc hệ thống hành chính Vào ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64/SL, thành lập Ban Thanh tra Đặc biệt, đánh dấu sự khởi đầu của tổ chức Thanh tra nhà nước hiện nay.

Ban Thanh tra Đặc biệt, hoạt động từ tháng 11/1945 đến tháng 12/1949, đã đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại và giám sát hiệu quả các hoạt động của nhân viên nhà nước, góp phần nâng cao trách nhiệm và minh bạch trong quản lý.

Vào ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến trước sự xâm lược của thực dân Pháp, khi đất nước đang trong tình trạng nguy kịch Để đảm bảo các chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước được thực thi hiệu quả, hoạt động của cơ quan thanh tra trở nên cần thiết Nhằm thích ứng với tình hình mới, vào ngày 18/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 138/SL, thành lập Ban thanh tra Chính phủ, thay thế Sắc lệnh 64/SL trước đó.

Ban Thanh tra Chính phủ được thành lập trực thuộc Thủ tướng Chính phủ với nhiệm vụ xem xét việc thực hiện chính sách và chủ trương của Chính phủ, thanh tra các Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về liêm khiết, cũng như giải quyết các khiếu nại của nhân dân Trong giai đoạn đầu, một số Bộ đã được thành lập, nhưng tổ chức thanh tra ở tỉnh, huyện và các Bộ, ngành vẫn chưa có Mục đích của Ban Thanh tra là hỗ trợ chính quyền non trẻ bảo vệ thành quả cách mạng trước sự phá hoại của thực dân xâm lược.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bắt đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam vẫn chịu sự thống trị của đế quốc Mỹ, dẫn đến cuộc chiến tranh giải phóng tiếp tục diễn ra Đảng và Nhà nước đã tập trung sức người và tài nguyên để khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ở miền Bắc Tình hình mới đã đặt ra nhiệm vụ mới cho hoạt động thanh tra Ngày 28/03/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 261/SL, thành lập Ban thanh tra Trung ương của Chính phủ nhằm giữ gìn pháp luật và bảo vệ tài sản Nhà nước Sắc lệnh này quy định hệ thống thanh tra ở các Bộ, ngành và địa phương, trong đó Điều 7 nêu rõ việc thành lập Ban thanh tra ở các Bộ và khu thành phố sẽ được Chính phủ ấn định sau Đến ngày 26/12/1956, Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập Ban thanh tra tại các Bộ cần thiết ở các liên khu, khu, tỉnh và thành phố.

Ngày 29/09/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 136, thành lập Uỷ ban thanh tra của Chính phủ thay thế Ban thanh tra trung ương trước đây Nghị định quy định tổ chức bộ máy của Uỷ ban gồm Tổng Thanh tra, các Phó Tổng Thanh tra, và các uỷ viên, được hỗ trợ bởi các tổ chức hành chính như Văn phòng và các vụ chuyên trách cho các lĩnh vực thanh tra như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, thương nghiệp, văn hoá-xã hội, và xét khiếu tố.

Thời kỳ này, các lĩnh vực thanh tra đã được phân chia thành nhiều loại khác nhau với sự phân cấp tương đối, nhưng vẫn chưa rõ ràng Các tổ chức thanh tra mới chủ yếu được thành lập ở cấp trung ương, trong khi ở cấp địa phương vẫn chưa được kiện toàn.

Khi đế quốc Mỹ gia tăng bắn phá miền Bắc, nhiều thành phố và cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề, với khẩu hiệu “Tất cả để đánh giặc Mỹ xâm lược” phản ánh tinh thần quyết tâm trong bối cảnh kinh tế “thời chiến” chịu ảnh hưởng lớn từ chiến tranh Để thích ứng với tình hình, vào ngày 6/11/1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Quyết định số 93/NQ-TVQH, giải thể Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ và giao công tác thanh tra cho Thủ trưởng các cơ quan, ngành, cấp, nhằm gắn kết công tác thanh tra với việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch nhà nước và các nhiệm vụ khác.

Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ đã gây ra thiệt hại nặng nề về cơ sở vật chất cho đất nước Bên cạnh đó, tình trạng quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo đã dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, làm gia tăng khiếu nại và tố cáo Để khắc phục tình hình này, vào ngày 31/8/1970, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 164/CP nhằm tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh quản lý.

Nghị định 165/CP quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ sau khi được tái lập, nhằm thanh tra việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, cũng như pháp luật và ngân sách Nhà nước Cơ quan này có trách nhiệm tăng cường kỷ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm và cải tiến tổ chức trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương Bên cạnh việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân, Uỷ ban còn chỉ đạo và hướng dẫn công tác cho các cơ quan Thanh tra chuyên trách Trong giai đoạn này, hệ thống thanh tra đã được thiết lập từ trung ương đến địa phương, với sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ và phối hợp chặt chẽ với các tổ chức liên quan.

1.2.3 Giai đoạn năm 1976 - trước năm 1990

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng vào 30/4/1975, hệ thống thanh tra được thành lập trên toàn quốc với nhiều cấp độ khác nhau Cơ quan thanh tra chuyên trách của Nhà nước bao gồm Uỷ ban Thanh tra Chính phủ, Ban Thanh tra các bộ và ngành quản lý, cùng với Uỷ ban Thanh tra các tỉnh, thành phố và huyện, quận Các tổ chức này thực hiện các hoạt động thanh tra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng các ngành và cấp quản lý tương ứng.

Vào ngày 3/1/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/CP, quy định Điều lệ tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ, nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước, cũng như sự lớn mạnh của ngành Thanh tra.

Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ được tổ chức với một Chủ nhiệm, một số Phó Chủ nhiệm và các Uỷ viên, tạo nên một bộ máy chuyên môn hoá theo từng lĩnh vực công tác Đặc biệt, Uỷ ban chú trọng đến công tác bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ thanh tra, với số lượng đơn vị giúp việc nhiều nhất từ trước tới nay, bao gồm Văn phòng, Vụ Tổng hợp, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Thanh tra công nghiệp, Vụ Thanh tra Giao thông và bưu điện, cùng với Vụ Thanh tra Xây dựng cơ bản.

Thanh tra Nông nghiệp, Vụ Thanh tra Thương nghiệp, Vụ Thanh tra Nội chính - văn xã,

Vụ Thanh tra xét khiếu tố, Vụ Quản lý công tác thanh tra nhân dân, Trường Cán bộ Thanh tra, Tạp chí Thanh tra

Hiến pháp năm 1980 đã đánh dấu sự thay đổi trong bộ máy nhà nước, với sự ra đời của Hội đồng Nhà nước, thay thế cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trước đây Hệ thống hành pháp cũng được cải cách, đổi Hội đồng Chính phủ thành Hội đồng Bộ trưởng, nâng tổng số cơ quan trực thuộc từ 11 bộ lên 34 bộ, cùng với 39 cơ quan khác và các cơ quan Thanh tra chuyên trách trong Uỷ ban Thanh tra nhà nước, cho thấy sự mở rộng và tăng cường chức năng của bộ máy nhà nước.

Cơ quan Thanh tra trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo Điều lệ tổ chức và hoạt động thanh tra của Uỷ ban Thanh tra Chính phủ, được ban hành kèm theo Nghị định số 01/CP ngày 3/1/1977 Trong lịch sử tổ chức, cơ quan này đã trải qua hai lần thay đổi vào năm 1984 và 1988.

Giai đoạn năm 1976 – trước năm 1990

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng vào ngày 30/4/1975, hệ thống tổ chức thanh tra được thành lập trên toàn quốc Cơ quan thanh tra chuyên trách của Nhà nước bao gồm: Uỷ ban Thanh tra Chính phủ, Ban Thanh tra các bộ và ngành quản lý tổng hợp, cũng như các Uỷ ban Thanh tra tại tỉnh, thành phố và huyện, quận Các tổ chức thanh tra này thực hiện các hoạt động thanh tra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng các ngành và cấp quản lý tương ứng.

Vào ngày 3/1/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/CP, quy định Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ, đánh dấu sự phát triển quan trọng của ngành Thanh tra trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.

Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ bao gồm một Chủ nhiệm, một số Phó Chủ nhiệm và các Uỷ viên, với bộ máy giúp việc được tổ chức chuyên môn hoá theo từng lĩnh vực Đặc biệt, Uỷ ban chú trọng đến công tác bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ thanh tra, đồng thời có số lượng đơn vị giúp việc lớn nhất từ trước đến nay, bao gồm Văn phòng, Vụ Tổng hợp, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Thanh tra công nghiệp, Vụ Thanh tra Giao thông và bưu điện, Vụ Thanh tra Xây dựng cơ bản.

Thanh tra Nông nghiệp, Vụ Thanh tra Thương nghiệp, Vụ Thanh tra Nội chính - văn xã,

Vụ Thanh tra xét khiếu tố, Vụ Quản lý công tác thanh tra nhân dân, Trường Cán bộ Thanh tra, Tạp chí Thanh tra

Hiến pháp năm 1980 đã đánh dấu sự thay đổi trong bộ máy nhà nước, khi Quốc hội bổ sung Hội đồng Nhà nước với chức năng và thẩm quyền tương đương Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trước đây Hệ thống hành pháp cũng được cải cách, với Hội đồng Chính phủ được đổi thành Hội đồng Bộ trưởng, số lượng bộ tăng từ 11 lên 34, cùng với 39 cơ quan khác trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Bên cạnh đó, các cơ quan Thanh tra chuyên trách trong Uỷ ban Thanh tra nhà nước cũng được tăng cường so với trước đây.

Cơ quan Thanh tra trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo Điều lệ tổ chức, hoạt động thanh tra của Uỷ ban Thanh tra Chính phủ, được ban hành kèm theo Nghị định số 01/CP ngày 3/1/1977 Bộ máy tổ chức của cơ quan này đã trải qua hai lần thay đổi vào năm 1984 và 1988.

Vào ngày 15 tháng 12 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số 26/HĐBT nhằm tăng cường tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra Nghị quyết này đã xác định rằng trong ngành Thanh tra tồn tại hai hệ thống thanh tra khác nhau.

Hệ thống thanh tra cấp gồm Uỷ ban Thanh tra nhà nước Trung ương, Uỷ ban Thanh tra nhà nước cấp tỉnh, thành phố, huyện, quận và tương đương, cùng với Ban Thanh tra nhân dân cấp cơ sở, tạo thành một mạng lưới thanh tra được quản lý và chỉ đạo thống nhất từ Trung ương đến địa phương.

Hệ thống Ban Thanh tra tại các ngành Trung ương và địa phương được thành lập bởi thủ trưởng ngành, dựa trên các nguyên tắc của Nghị quyết và hướng dẫn từ Ủy ban Thanh tra Nhà nước Trung ương.

Uỷ ban Thanh tra nhà nước bao gồm một Chủ nhiệm và một số Phó Chủ nhiệm, cùng với 12 đơn vị hỗ trợ Các đơn vị này bao gồm Văn phòng, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Thanh tra Công nghiệp A, Vụ Thanh tra Công nghiệp B, Vụ Thanh tra Giao thông và bưu điện, Vụ Thanh tra Xây dựng cơ bản, Vụ Thanh tra Nông nghiệp, Vụ Thanh tra Thương nghiệp, và Vụ Thanh tra Nội chính.

- Văn xã, Vụ Thanh tra xét khiếu tố, Trường Cán bộ Thanh tra, Tạp chí Thanh tra

Mô hình này cho thấy các cơ quan chủ yếu tập trung vào chức năng thanh tra, hơn là thực hiện vai trò quản lý nhà nước về thanh tra Bên cạnh đó, có sự chú trọng đến công tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ thanh tra, cũng như việc tuyên truyền về hoạt động thanh tra.

Năm 1988, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu sự khởi đầu cho giai đoạn đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Trong bối cảnh này, các cơ quan hành chính nhà nước đã thực hiện tinh giản biên chế và sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tạo ra những tác động lớn đến việc kiện toàn tổ chức Uỷ ban Thanh tra nhà nước.

Theo Quyết định số 43/HĐBT ngày 20/5/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, bộ máy giúp việc của Uỷ ban Thanh tra nhà nước đã được thu gọn, bao gồm các đơn vị: Văn phòng, Vụ Tổ chức cán bộ, Cục Thanh tra kinh tế - xã hội (Cục 1), Cục Thanh tra xét khiếu tố (Cục 2), Tổ phái viên, Trường Cán bộ Thanh tra và Tạp chí Thanh tra.

Mô hình tổ chức hiện tại tập trung toàn bộ chức năng hành chính, quản trị và tiếp dân vào Văn phòng, trong khi Cục Thanh tra kinh tế - xã hội thực hiện quyền thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội Cục Thanh tra xét khiếu tố đảm nhiệm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo Việc thu gọn đầu mối tổ chức giúp tách biệt công tác tham mưu với chức năng thanh tra, yêu cầu cán bộ thanh tra có trình độ tổng hợp và hiểu biết đa lĩnh vực Mặc dù hầu hết các Bộ ngành đã có bộ phận thanh tra chuyên trách, thanh tra y tế vẫn cần được củng cố về cơ sở pháp lý Sự phát triển của thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm gắn liền với sự phát triển của thanh tra y tế, cho thấy tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn thực phẩm trong hệ thống thanh tra y tế.

1.2.4 Giai đoạn từ năm 1990 đến nay

Sau Đại hội VI, Việt Nam đã trải qua quá trình đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Ngày 01/04/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, quy định về tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra, khẳng định vai trò quan trọng của thanh tra trong việc đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của các hoạt động kinh tế.

Chức năng thanh tra là một phần quan trọng trong quản lý nhà nước, giúp đảm bảo pháp chế và tăng cường kỷ luật Tổ chức thanh tra được thiết lập từ trung ương đến địa phương, bao gồm các bộ, ngành và sở, nhằm thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn 1990 đến nay

lý vững chắc để hoạt động thanh tra VSATTP được đảm bảo, đáp ứng được nhu cầu của quản lý Nhà nước, góp phần ổn định xã hội.

Những quy định của pháp luật hiện hành về thanh tra VSATTP

Thực trạng pháp luật thanh tra VSATTP

Thực tiễn hoạt động thanh tra VSATTP

Nguyên nhân của thực trạng hoạt động thanh tra VSATTP

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra VSATTP

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:15

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
22. Quyết định số 39/2005/QĐ-BYT ngày 28/11/2005 của Bộ y tế về việc ban hành “Quy định về các điều kiện vệ sinh chung đối với cơ sở sản xuất thực phẩm” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy định về các điều kiện vệ sinh chung đối với cơ sở sản xuất thực phẩm
24. Quyết định số 43/2005/QĐ-BYT ban hành ngày 20/12/2005 của Bộ y tế về việc ban hành “quy định yêu cầu kiến thức về VSATTP đối với người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm” Sách, tạp chí
Tiêu đề: quy định yêu cầu kiến thức về VSATTP đối với người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm
39. Anh Thi. Tìm “tư lệnh” cho lĩnh vực VSATTP. Cập nhật lúc 21h42’, ngày 10/06/2009. Nguồn: Vnmedia Sách, tạp chí
Tiêu đề: tư lệnh
40. Bảo đảm VSATTP là bảo vệ đời sống và sức khoẻ nhân dân. Ngày 01/11/2008. http://attp.xudua.com Link
1. Chỉ thị số 06/2007/CT-TTg ngày 28/03/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai các biện pháp cấp bách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.2. Luật thanh tra năm 2004 Khác
3. Nghị định 100/2007/NĐ-CP ban hành ngày 13/06/2007 của Chính phủ quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra Khác
4. Nghị định 163/2004/NĐ-CP ngày 07/09/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 Khác
5. Nghị định 41/2005/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra Khác
6. Nghị định 45/2005/NĐ-CP ban hành ngày 06/04/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế Khác
7. Nghị định 49/2003/NĐ-CP ban hành ngày 15/05/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ y tế Khác
8. Nghị định 77/2006/NĐ-CP ngày 03/08/2006 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động củaThanh tra Y tế Khác
9. Nghị định 79/2008/NĐ-CP ngày 18/07/2008 của Chính phủ quy định về hệ thống tổ chức, quản lý, thanh tra và kiểm nghiệm về VSATTP Khác
13. Quy chế về công bố tiêu chuẩn sản phẩm thực phẩm (ban hành kèm theo Quyết định số 42/2005/QĐ-BYT ngày 08/12/2005 của Bộ trưởng Bộ y tế) Khác
14. Quyết định 2151/2006/QĐ-TTCP ban hành ngày 10/11/2006 của Thanh tra Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra Khác
15. Quyết định 590-BYT/QĐ ngày 19/07/1993 của Bộ trưởng Bộ y tế về việc ban hành Quy chế thanh tra dược Khác
16. Quyết định số 04/2008/QĐ-BNV ngày17/11/2008 của Bộ Nội Vụ ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành thanh tra Khác
17. Quyết định số 12/2006/QĐ-BYT ngày 09/03/2006 của Bộ y tế về việc ban hành “Quy định phân cấp nhiệm vụ quản lý và tham gia quản lý nhà nước về VSATTP trong ngành y tế Khác
18. Quyết định số 1860/QĐ-TTCP ban hành ngày 06/09/2007 của Thanh tra Chính phủ về việc Ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ thanh tra Khác
19. Quyết định số 2894/2008/QĐ-TTCP ngày 23/12/2008 của Thanh tra Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra Khác
20. Quyết định số 2964/2004/QĐ-BYT ngày 27/08/2004 của Bộ trưởng Bộ y tế về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Vụ, Cục, văn phòng, Thah tra Bộ y tế Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hiệu quả của mô hình này đem lại là: - Hoạt động thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm
i ệu quả của mô hình này đem lại là: (Trang 73)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w