1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hoạt động logistics của các doanh nghiệp việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

55 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Logistics Của Các Doanh Nghiệp Việt Nam Trong Điều Kiện Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Tác giả Trần Thị Hồng Vân
Người hướng dẫn Th.S. Nguyễn Ngọc Lâm
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2013
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 55
Dung lượng 1,21 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG LOGISTICS THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM (8)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm của logistics, dịch vụ logistics (8)
      • 1.1.1. Khái niệm (8)
      • 1.1.2. Đặc điểm (10)
    • 1.2. Vai trò của logistics trong hoạt động thương mại (11)
      • 1.2.1. Vai trò của logistics trong lĩnh vực kinh tế - thương mại (12)
      • 1.2.2. Vai trò của logistics trong lĩnh vực vận tải (13)
      • 1.2.3. Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp (15)
      • 1.2.4. Vai trò của logistics trong lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng (17)
    • 1.3. Một số vấn đề pháp lý về hoạt động logistics (18)
      • 1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh dooanh dịch vụ logistics (18)
      • 1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia hợp đồng dịch vụ logistics19 1.3.3. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm trong kinh doanh dịch vụ logistics (23)
      • 1.3.4. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics (29)
  • CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ (36)
    • 2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam (36)
      • 2.1.1. Những thành tựu đạt được (36)
      • 2.1.2. Những thực trạng đáng lưu ý (38)
    • 2.2. Những nguyên nhân cơ bản dẫn đến một số bất cập trong thực tiễn hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam (41)
      • 2.2.1. Chính sách phát triển logistics của nước ta chưa được đầu tư đúng mức và thiếu sự đồng bộ (41)
      • 2.2.2. Cơ sở hạ tầng chưa là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho dịch vụ logistics phát triển (45)

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG LOGISTICS THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Khái niệm, đặc điểm của logistics, dịch vụ logistics

Logistics là một khái niệm khó định nghĩa một cách chính thức và thống nhất, mặc dù nó đã tồn tại từ lâu và phát triển rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau Ban đầu, logistics có nguồn gốc từ quân sự, với định nghĩa của Napoleon rằng “Logistics là hoạt động để duy trì lực lượng quân đội” Trong lĩnh vực này, logistics được xem như là khoa học của việc lập kế hoạch và thực hiện di chuyển, tập trung các lực lượng, cũng như quản lý thiết kế, phát triển, mua sắm, lưu kho và phân phối trang thiết bị Theo từ điển Oxford, logistics là một nhánh của khoa học quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiện, thiết bị và nhân sự.

Mặc dù được hình thành sau nhưng logistics hiện nay với ý nghĩa kinh tế được quan tâm nhiều hơn, do đó tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau hơn

Theo quan điểm của nhà quản trị chuỗi cung ứng, logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát dòng chảy cũng như lưu kho nguyên vật liệu và hàng hóa, đồng thời xử lý thông tin liên quan trong toàn bộ chuỗi cung ứng Ngoài ra, theo quan điểm "5 đúng", logistics đảm bảo cung cấp đúng sản phẩm đến đúng địa điểm, vào đúng thời điểm, với điều kiện và chi phí hợp lý cho khách hàng.

Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ (Council of Logistics Management) -

Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả chi phí trong việc lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cùng thông tin liên quan từ điểm khởi đầu đến điểm tiêu thụ cuối cùng, nhằm thỏa mãn yêu cầu của khách hàng Là một ngành khoa học, logistics tổ chức và quản lý việc phân phối hàng hóa, đảm bảo quá trình sản xuất xã hội diễn ra nhịp nhàng và liên tục với chi phí thấp nhất Đồng thời, logistics còn tối ưu hóa vị trí và thời điểm trong chuỗi cung ứng, từ sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua các hoạt động kinh tế đa dạng.

Luật Thương mại Việt Nam, được Quốc hội thông qua vào ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ 01/01/2006, đã thay thế Luật Thương mại 1997 Luật này chính thức định nghĩa "dịch vụ logistics" là hoạt động thương mại, trong đó thương nhân tổ chức thực hiện nhiều công đoạn như nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, làm thủ tục hải quan, tư vấn khách hàng, và giao hàng, nhằm hưởng thù lao theo thỏa thuận với khách hàng.

Theo những khái niệm nêu trên, ta dễ dàng nhận thấy logistics có thể tách thành 2 nhóm là nghĩa hẹp và nghĩa rộng

Logistics, trong nghĩa hẹp, gần giống với hoạt động giao nhận hàng hóa và gắn liền với các dịch vụ cụ thể Bản chất của logistics là tập hợp các yếu tố hỗ trợ quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, bao gồm nhận, lưu thông và phân phối hàng hóa Trong ngữ cảnh này, logistics chủ yếu liên quan đến vận tải, do đó không có nhiều sự khác biệt so với nhà cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (MTO - Multimodal Transport Operator).

Logistics là một khái niệm bao quát, bắt đầu từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến hậu sản xuất, bao gồm toàn bộ quá trình từ khi nguyên vật liệu được vận chuyển đến nơi sản xuất cho đến khi hàng hóa được người tiêu dùng cuối cùng sử dụng Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong từng giai đoạn của chuỗi cung ứng.

1 GS TS NGƯT Đặng Đình Đào – TS Nguyễn Minh Sơn (2012), “Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, tr 22.

Logistics là quá trình quản lý nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất và phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng Điều này giúp phân biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ đơn lẻ như vận tải, giao nhận hay khai hải quan, với các nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, những người đảm nhận toàn bộ quy trình từ hình thành đến phân phối sản phẩm.

Nhà cung cấp dịch vụ logistics theo nghĩa rộng đảm nhận nhiều công việc hơn so với nhà cung cấp theo nghĩa hẹp, và điều này ngày càng được thừa nhận trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay Thời kỳ logistics toàn cầu đặt ra thách thức lớn cho các nhà cung cấp dịch vụ, yêu cầu họ phải trở thành những chuyên gia có bản lĩnh và trách nhiệm.

Logistics mặc dù được tiếp cận ở những khái niệm khác nhau nhưng có thể rút ra một số đặc điểm chung sau:

Logistics là một quá trình hệ thống, liên tục từ sản xuất đến tiêu dùng, không chỉ gắn với dịch vụ đơn lẻ mà là chuỗi hoạt động liên kết Các nhà cung cấp dịch vụ logistics đầu tư cho hoạt động kinh doanh của mình và chịu trách nhiệm từ khâu tiền sản xuất đến hậu sản xuất.

Logistics hiện nay không chỉ đơn thuần là vận tải mà còn là một hệ thống đồng bộ từ giao nhận đến phân phối hàng hóa, bao gồm cung ứng nguyên vật liệu và lưu trữ Khái niệm logistics đã phát triển vượt bậc để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hội nhập, khác biệt so với vận tải truyền thống Trước đây, hàng hóa cần phải trải qua nhiều hình thức vận tải khác nhau, dẫn đến rủi ro và mất mát cao, trong khi trách nhiệm của người vận tải chỉ giới hạn trong một đoạn đường Sự ra đời của vận tải đa phương thức từ cuộc cách mạng container hóa đã cải thiện đáng kể quy trình này.

Trong giai đoạn 60-70 của thế kỷ XX, những nhược điểm trong lĩnh vực vận tải đã được khắc phục, cho phép chủ hàng chỉ cần ký một hợp đồng duy nhất với nhà kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức Đến nay, logistics đã tích hợp hình thức kinh doanh này và phát triển nó thành một chiến lược kinh doanh chủ yếu, bên cạnh các lĩnh vực khác.

Logistics bao gồm hai cấp độ quan trọng: hoạch định và tổ chức Cấp độ hoạch định liên quan đến việc xác định nguyên vật liệu cần thiết, nguồn cung cấp, thời điểm, quy trình sản xuất và lựa chọn địa điểm tiêu thụ Trong khi đó, cấp độ tổ chức tập trung vào vận chuyển và lưu trữ, tức là phương thức và phương tiện để thực hiện các kế hoạch đã được đề ra trong giai đoạn hoạch định.

Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát dòng chu chuyển và lưu kho hàng hóa, từ khởi đầu đến kết thúc Nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, logistics trở nên chủ động và linh hoạt hơn trong việc điều tiết khối lượng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường Điều này không chỉ giúp ngăn chặn tình trạng thiếu hụt sản phẩm ở một số khu vực mà còn giảm thiểu tình trạng tồn đọng ở nơi khác, từ đó đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.

Vào thứ năm, dịch vụ logistics được coi là một hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi Các nhà cung cấp dịch vụ logistics thực hiện hoạt động này để nhận thù lao và các chi phí hợp lý khác Trong quá trình hoạt động, thương nhân kinh doanh dịch vụ thực hiện và chịu trách nhiệm theo hợp đồng dịch vụ đã ký kết với khách hàng.

Vai trò của logistics trong hoạt động thương mại

Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa quy trình lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu chuỗi cung ứng đến tay người tiêu dùng Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động xã hội, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu Nếu logistics không được phát triển, sẽ có nhiều hệ lụy cho công tác hậu cần trong các cuộc chiến, nền kinh tế của các quốc gia, cũng như khả năng vận chuyển hàng hóa đúng thời gian và nhu cầu tiêu dùng Do đó, vai trò của logistics là không thể thiếu trong việc đảm bảo sự hiệu quả và bền vững cho các hoạt động kinh tế và xã hội.

3 Xem GS TS NGƯT Đặng Đình Đào – TS Nguyễn Minh Sơn (2012), “Dịch vụ logistics ở Việt

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, logistics đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực mang lại những giá trị riêng biệt Bài viết này sẽ tập trung vào vai trò của logistics trong hoạt động thương mại, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, vận tải, doanh nghiệp, và sản xuất - tiêu dùng.

1.2.1 Vai trò của logistics trong lĩnh vực kinh tế - thương mại

Logistics là hoạt động liên kết toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa, giúp các nhà quản lý giải quyết các vấn đề về số lượng, vị trí và tính chất nguồn nguyên liệu Mỗi hoạt động trong chuỗi logistics đều có vị trí và chi phí riêng Theo Narin Phol, Giám đốc Điều hành Damco tại Việt Nam và Campuchia, chi phí logistics so với GDP của một số quốc gia như Mỹ là 7,7%, Singapore 8%, EU 10%, Nhật Bản 11% và Trung Quốc 18% Việc giảm 1% chi phí logistics có thể tiết kiệm hàng trăm triệu USD cho nền kinh tế, đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả hoạt động logistics sẽ cải thiện đáng kể hiệu quả kinh tế - xã hội.

Logistics là công cụ quan trọng giúp đảm bảo sự lưu thông nhịp nhàng của các giao dịch kinh tế Sự gián đoạn ở bất kỳ khâu nào trong chuỗi logistics có thể gây ra hàng loạt vấn đề cho nền kinh tế Điều này ảnh hưởng đến quá trình di chuyển nguồn tài nguyên từ điểm xuất phát đến sản xuất và phân phối, dẫn đến việc không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng Vì vậy, sự phát triển của các quốc gia không thể tách rời khỏi hoạt động logistics, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập hiện nay.

Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa hiệu quả của các chuỗi cung ứng kinh tế, đồng thời giúp tránh lợi ích bộ, lợi ích nhóm gây tổn hại đến lợi ích quốc gia Sự phát triển của logistics không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia Khi logistics được chú trọng, quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ sẽ được cải thiện về thời gian và chất lượng, từ đó giảm chi phí đầu tư và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Hoạt động logistics, bao gồm mua bán, vận chuyển, lưu kho và phân phối, giúp hàng hóa được chuyển từ vị trí gốc đến tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng và hiệu quả Nơi tiêu thụ không còn bị giới hạn trong nội quốc mà đã mở rộng ra các quốc gia và châu lục khác nhau Logistics tạo ra mối quan hệ qua lại có lợi giữa khách hàng, doanh nghiệp và các quốc gia, từ đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường và kinh tế thương mại Sự phát triển này đóng góp quan trọng vào quá trình hội nhập của Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.

1.2.2 Vai trò của logistics trong lĩnh vực vận tải

Trong bối cảnh hiện nay, nguồn nguyên vật liệu thường được hình thành ở nhiều địa điểm khác nhau, trong khi các khâu sản xuất lại không tập trung gần nhau, dẫn đến việc hệ thống kho bãi phân tán và nơi tiêu thụ nằm ở các vùng miền hoặc quốc gia khác nhau Để khắc phục tình trạng này, hoạt động logistics cần áp dụng những chiến lược vận tải hiệu quả Vận tải không chỉ là một hoạt động kinh tế quan trọng mà còn là yếu tố quyết định trong việc di chuyển hàng hóa và con người một cách tối ưu Hệ thống vận tải được coi là mạch máu của nền kinh tế, phản ánh sự phát triển và bền vững của một quốc gia Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm trở nên cấp thiết; nếu không đảm bảo cung cấp đúng thời điểm và địa điểm, sản xuất sẽ bị gián đoạn và năng suất sẽ giảm sút.

4 Xem GS TS NGƯT Đặng Đình Đào – TS Nguyễn Minh Sơn (2012), “Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, tr 288

Để cạnh tranh hiệu quả trong ngành logistics, các công ty cần đầu tư nghiêm túc vào điều kiện vận tải, phương thức vận tải, người vận tải và lộ trình vận chuyển Logistics bao gồm bốn yếu tố chính: vận tải, marketing, phân phối và quản lý, trong đó vận tải chiếm tỷ lệ chi phí cao nhất và đóng vai trò quan trọng nhất Hoạt động vận tải không chỉ là trọng tâm của logistics mà còn là yếu tố dễ nhận thấy nhất trong toàn bộ quy trình.

Vận tải bao gồm hai quá trình chính: vận chuyển và tác nghiệp đầu cuối Mục tiêu của vận tải là đảm bảo hàng hóa được giao đến đích trong thời gian ngắn nhất, với chi phí thấp nhất và an toàn cao nhất Đây cũng là những tiêu chí quan trọng mà ứng dụng vận tải cần hướng tới.

Dịch vụ vận tải trong logistics theo mô hình "just-in-time" yêu cầu giao hàng đúng số lượng, đúng địa điểm và đúng thời điểm, từ đó thúc đẩy sự phát triển của logistics và mang lại lợi ích cho doanh nghiệp Vận tải phát triển từ những chuyến hàng nhỏ, giúp giảm thiểu hàng tồn kho, một yếu tố cạnh tranh quan trọng Giá cả sản phẩm mà người tiêu dùng phải trả bao gồm giá sản xuất và chi phí lưu thông, trong đó chi phí vận tải có thể thay đổi tùy thuộc vào khả năng quản lý Việc áp dụng dịch vụ logistics hiện đại sẽ giúp giảm chi phí lưu thông và nâng cao hiệu quả cạnh tranh cũng như năng suất lao động.

Các công ty vận tải tại Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh vực như hàng hải, hàng không, đường thủy nội địa, đường sắt, đường bộ và đường ống Sự phát triển của logistics kéo theo đầu tư mạnh mẽ vào hoạt động vận tải, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao Điều này không chỉ giúp hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông mà còn giảm thiểu tai nạn và ùn tắc giao thông, đồng thời thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.

6 Xem Bài viết của PGS TS Nguyễn Văn Thụ, “Logistics và vận tải”, đăng trên website trường Đại học Giao thông vận tải tháng 8/2010

7 Xem GS TS NGƯT Đặng Đình Đào – TS Nguyễn Minh Sơn (2012), “Dịch vụ logistics ở Việt

Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, tr 32.

Trước đây, hàng hóa phải trải qua nhiều phương thức vận tải và nhiều người vận tải khác nhau, khiến người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng với trách nhiệm hạn chế của từng bên Sự ra đời của logistics đã hình thành chuỗi cung ứng dịch vụ vận chuyển và phân phối, tạo niềm tin cho khách hàng và giúp tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế Dịch vụ logistics được xem là sự phát triển tinh vi của dịch vụ vận tải, và trong xu hướng hội nhập hiện nay, việc các doanh nghiệp thuê dịch vụ logistics từ các công ty chuyên nghiệp ngày càng trở nên phổ biến.

Vận tải và logistics có mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, trong đó logistics đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển của vận tải, trong khi vận tải lại là công cụ chính để duy trì các hoạt động logistics hiệu quả.

1.2.3 Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp

Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ khâu nhập nguyên liệu đến xuất hàng Doanh nghiệp có chiến lược logistics hiệu quả sẽ đạt được lợi nhuận cao hơn, nhờ vào việc giảm thời gian luân chuyển và tiết kiệm chi phí vận chuyển Điều này không chỉ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh mà còn củng cố vị thế của doanh nghiệp trong mắt khách hàng Nhiều doanh nghiệp thành công đã áp dụng chiến lược logistics hợp lý, trong khi những doanh nghiệp không chú trọng đến công tác vận chuyển và lưu trữ thường gặp thất bại.

Các doanh nghiệp hiện nay có quyền chủ động trong việc lựa chọn nguồn nguyên vật liệu, lập kế hoạch sản xuất, quản lý hàng tồn kho, và quyết định phương thức vận chuyển cũng như địa điểm tiêu thụ sản phẩm Logistics là công cụ hỗ trợ quan trọng giúp doanh nghiệp tối ưu hóa các hoạt động này, cho phép các nhà quản lý kiểm soát hiệu quả và đưa ra quyết định chính xác từ đầu đến cuối, nhằm tăng lợi nhuận và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.

Một số vấn đề pháp lý về hoạt động logistics

1.3.1 Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh dooanh dịch vụ logistics

Hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics được xem là một hoạt động thương mại, trong đó các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ dựa trên hợp đồng dịch vụ, theo Điều 406 Bộ Luật Dân sự năm 2005 Hợp đồng này mang tính chất song vụ, liên quan đến quyền của thương nhân và nghĩa vụ của khách hàng, cũng như quyền của khách hàng đối với nghĩa vụ của thương nhân Thương nhân cung cấp dịch vụ logistics cần tuân thủ các quy định chung về quyền và nghĩa vụ cơ bản được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 và Mục 2 Chương 3 LTM 2005, bao gồm các vấn đề như tiền dịch vụ, hoàn thành thỏa thuận trong hợp đồng, và sự tương tác với khách hàng khi phát sinh vấn đề.

Bên cạnh đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác thì Điều 235 LTM

2005 cũng đưa ra một số quyền và nghĩa vụ cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cụ thể như sau:

Thương nhân có quyền nhận thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng Thù lao dịch vụ sẽ tuân theo quy định pháp luật về giá dịch vụ, với ưu tiên cho sự thỏa thuận giữa các bên Nếu không có thỏa thuận, giá dịch vụ sẽ dựa trên giá thị trường tại thời điểm ký kết hợp đồng Ngoài thù lao, các chi phí hợp lý khác cũng được xem xét, bao gồm những chi phí đã được dự trù trong hợp đồng hoặc chi phí phát sinh cần thiết theo yêu cầu của khách hàng Nếu quyền lợi này không được khách hàng đáp ứng, thương nhân sẽ có quyền "cầm giữ và định đoạt hàng hóa" theo quy định của pháp luật thương mại.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể tự ý điều chỉnh theo lợi ích của khách hàng, nhưng cần thông báo ngay cho họ Điều này cho thấy thương nhân có quyền chủ động trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến hàng hóa Quyền quyết định về hàng hóa được chia sẻ giữa thương nhân và khách hàng, tuy nhiên, quyền này chỉ có hiệu lực đối với thương nhân.

11 Điều 518 Bộ luật Dân sự 2005

12 Khoản 2 Điều 524 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 86 LTM 2005

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 235 LTM 2005, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp có lý do chính đáng và vì lợi ích của khách hàng Tuy nhiên, khái niệm "lý do chính đáng" và tiêu chí xác định "vì lợi ích khách hàng" vẫn chưa được làm rõ, dẫn đến khả năng không đồng nhất giữa quan điểm của thương nhân và khách hàng Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, nếu cơ quan giải quyết không đồng tình với quan điểm của thương nhân, họ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại Pháp luật cũng quy định rằng thương nhân phải thông báo cho khách hàng nếu thực hiện khác với chỉ dẫn của họ, nhưng không nêu rõ thời điểm thông báo là trước hay sau khi thực hiện Do đó, thương nhân nên thông báo ngay cho khách hàng sau khi thực hiện khác với chỉ dẫn để đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Thương nhân có trách nhiệm thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn khi không thể thực hiện một phần hoặc toàn bộ chỉ dẫn của khách hàng Nếu thương nhân có căn cứ chứng minh lý do không thể thực hiện, họ cần gửi thông báo xin chỉ dẫn Nghĩa vụ này không hoàn toàn thống nhất với quyền lựa chọn xử lý tình huống, vì nếu thương nhân tự quyết định, họ sẽ đối mặt với nhiều rủi ro hơn, mặc dù cho rằng đó là vì lợi ích của khách hàng Ngược lại, nếu họ xin chỉ dẫn từ khách hàng, họ có thể yên tâm loại trừ trách nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt hại, vì đã tuân thủ theo chỉ dẫn của khách hàng trong suốt quá trình chờ phản hồi.

Theo điểm c khoản 1 Điều 235 LTM 2005, nếu việc thực hiện chỉ dẫn gây ra thiệt hại không đáng có, các thương nhân không phải chịu trách nhiệm Do đó, nhiều doanh nghiệp logistics chọn phương án an toàn hơn, mặc dù phương án này hạn chế sự chủ động và linh hoạt trong công việc Hệ thống pháp lý hiện tại chưa đủ mạnh để bảo vệ họ, đặc biệt khi khách hàng thường là bên thứ ba không có hiểu biết sâu về dịch vụ logistics Việc gửi thông báo xin chỉ dẫn trở nên mang tính tượng trưng, và nếu phản hồi không kịp thời, kết quả mong muốn từ hợp đồng sẽ khó đạt được.

Thương nhân cần thực hiện nghĩa vụ của mình trong thời gian hợp lý khi không có thỏa thuận cụ thể về thời hạn với khách hàng Quy định này nhằm đảm bảo hợp đồng được thực hiện đúng tiến độ, ngay cả khi không có điều khoản thời gian rõ ràng Thời gian hợp lý được xác định dựa trên các điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng biết tại thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm nhu cầu cụ thể của khách hàng liên quan đến thời gian hoàn thành Nếu hợp đồng chỉ có thể thực hiện khi đáp ứng các điều kiện nhất định, thương nhân không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ cho đến khi các điều kiện đó được thỏa mãn Do đó, thời hạn thực hiện nghĩa vụ của thương nhân trong mỗi hợp đồng dịch vụ rất đa dạng, phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên và tính chất của hợp đồng.

Khi thực hiện vận chuyển hàng hóa, các thương nhân trong lĩnh vực logistics cần tuân thủ các quy định pháp luật và tập quán vận tải hiện hành.

Theo Điều 239 LTM 2005, các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quyền cầm giữ hàng hóa và các chứng từ liên quan khi khách hàng không thanh toán nợ đến hạn, với điều kiện phải thông báo bằng văn bản cho khách hàng Sau 45 ngày kể từ ngày thông báo hoặc ngay khi hàng hóa có dấu hiệu hư hỏng, quyền cầm giữ sẽ chuyển thành quyền định đoạt Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của thương nhân trong việc thu hồi chi phí dịch vụ và các khoản chi phí hợp lý khác.

Khái niệm “số lượng nhất định” trong luật thương mại hiện nay được hiểu là toàn bộ hàng hóa, theo Khoản 5 Điều này, cho phép thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sử dụng số tiền thu được từ việc định đoạt hàng hóa để thanh toán các khoản nợ và chi phí liên quan Nếu số tiền thu được vượt quá giá trị khoản nợ, số tiền thừa phải được trả lại cho khách hàng Do đó, để bảo vệ quyền lợi của cả thương nhân và khách hàng, nhà lập pháp nên giới hạn quyền của thương nhân trong phạm vi số hàng hóa tương ứng với khoản nợ, đảm bảo rằng thương nhân có đủ tiền cho chi phí dịch vụ, đồng thời khách hàng vẫn giữ quyền định đoạt hàng hóa của mình.

Một vấn đề quan trọng là liệu quá trình cầm giữ và định đoạt hàng hóa có được xem là chuyển quyền sở hữu hay không, hay thương nhân chỉ cầm giữ hàng hóa theo quy định của pháp luật thương mại Việc định đoạt hàng hóa bị cầm giữ cần tuân thủ quy định của pháp luật về chuyển quyền sở hữu, tức là pháp luật dân sự Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, điều này cần được làm rõ trong bối cảnh pháp lý hiện hành.

Khoản 1 Điều 239 LTM 2005 quy định về quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản Theo đó, việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản sẽ có hiệu lực ngay khi động sản được chuyển giao, trừ khi pháp luật có quy định khác Điều này cho thấy rằng các quy định về quyền cầm giữ và quyền định đoạt hàng hóa cầm giữ được pháp luật thương mại trao cho thương nhân như một biện pháp "đòi nợ" đối với khách hàng, nhấn mạnh quá trình chuyển hóa quyền sở hữu trong giao dịch thương mại.

Quyền sở hữu hàng hóa có thể được chuyển giao mà không cần thông qua pháp luật dân sự, thông qua hợp đồng thương mại Khi khách hàng giao hàng hóa cho bên cung ứng quản lý, nếu bên cung ứng hoàn thành hợp đồng nhưng không nhận được thanh toán đúng hạn, họ có quyền cầm giữ hàng hóa và thông báo cho khách hàng Sau 45 ngày kể từ thông báo hoặc khi hàng hóa có dấu hiệu hư hỏng, quyền cầm giữ sẽ chuyển thành quyền định đoạt Số tiền thu được từ việc định đoạt hàng hóa sẽ thuộc về thương nhân, trong khi phần dư (nếu có) sẽ được trả lại cho khách hàng Do đó, khách hàng sẽ không còn quyền sở hữu hàng hóa, và việc cầm giữ, định đoạt hàng hóa của thương nhân sẽ được xem là chuyển quyền sở hữu từ người thuê sang người thực hiện dịch vụ.

1.3.2 Quyền và nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia hợp đồng dịch vụ logistics

Khách hàng tham gia hợp đồng dịch vụ logistics có quyền và nghĩa vụ tương ứng theo quy định của pháp luật, bao gồm các điều khoản trong luật dân sự và Mục 2 Chương 3 LTM 2005 Ngoài ra, Điều 236 LTM 2005 cũng liệt kê các quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp không có thỏa thuận khác.

Khách hàng có quyền kiểm tra và giám sát việc thực hiện hợp đồng, vì họ là người chi trả chi phí để thuê dịch vụ Việc này đảm bảo rằng các dịch vụ được cung cấp đúng theo cam kết và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

18 Điều 164 Bộ luật dân sự 2005

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:15

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại tập II, NXB Công an nhân dân (2006) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Thương mại tập II
Nhà XB: NXB Công an nhân dân (2006)
2. GS. TS Hoàng Văn Châu,“Vận tải – giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu”, Nxb. Khoa học và kỹ thuật (2003) Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Vận tải – giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu”
Nhà XB: Nxb. Khoa học và kỹ thuật (2003)
4. GS. TS. NGƯT. Đặng Đình Đào – TS. Nguyễn Minh Sơn, “Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”, Nxb. Chính trị quốc gia (2012) Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Dịch vụ logistics ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia (2012)
5. GS. TS Đoàn Thị Hồng Vân, “Logistics – những vấn đề cơ bản”, Nxb. Lao động – xã hội (2011) Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Logistics – những vấn đề cơ bản”
Nhà XB: Nxb. Lao động – xã hội (2011)
6. “Phát triển Logistics-những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan”, GS.TS Đoàn Thị Hồng Vân & Phạm Mỹ Lệ, Tạp chí phát triển và hội nhập số 8 (18), tháng 01-01/2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Phát triển Logistics-những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan”
7. “Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics”, Phạm Thị Thanh Trúc, khóa luận cử nhân luật 28/7/2008. TRANG WEB Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Những vấn đề pháp lý cơ bản của dịch vụ logistics”
1. Bộ luật Dân sự 2005 2. Luật Thương mại 2005 3. Bộ luật Hàng hải 2005 4. Luật Đường sắt 2005 Khác
6. Luật Giao thông đường thủy nội địa 2004 7. Luật Hàng không dân dụng 2006 Khác
8. Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics Khác
9. Nghị định 87/2009/NĐ-CP về vận tải đa phương thức Khác
10. Nghị định 14/2011/NĐ-CP Quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan Khác
11. Nghị định số 115/2007/NĐ-CP ngày 05/7/2007 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ Khác
1. Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển (Công ước Brussels 1924) Khác
2. Công ước của Liên hiệp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển (Công ước Hamburg 1978) Khác
3. Công ước để thống nhất một số quy tắc về vận tải hàng không quốc tế 1929 (Công ước Vacsava 1929) Khác
4. Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-sa-va để thống nhất một số quy tắc về vận tải hàng không quốc tế (Nghị định thư Lahay 1955) Khác
5. Công ước bổ sung cho Công ước Vác-sa-va để thống nhất một số quy tắc liên quan tới chuyên chở quốc tế bằng đường hàng không được thực hiện bởi một người khác không phải là người thầu chuyên (Công ước Guadalajara 1961) Khác
6. Nghị định thư sửa đổi Công ước Vác-sa-va để thống nhất một số quy tắc về vận tải hàng không quốc tế (Nghị định thư Goatemala 1971) Khác
7. Công ước để thống nhất một số quy tắc về vận tải hàng không quốc tế 1929 (Công ước Montreal 1999) Khác
8. Công ước về hợp đồng vận chuyển quốc tế hàng hóa bằng đường bộ (CMR) 9. Công ước của Liên hiệp quốc về chuyên chở hàng hóa bằng vận tải đa phươngthức quốc tế Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN