1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hình phạt tù có thời hạn trong luật hình sự việt nam lý luận và thực tiễn

101 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Trong Luật Hình Sự Việt Nam – Lý Luận Và Thực Tiễn
Tác giả Nguyễn Thị Thùy
Người hướng dẫn Th.S. Mai Khắc Phúc
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2014
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 101
Dung lượng 1,67 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái niệm và đặc điểm hình phạt tù có thời hạn (11)
    • 1.1.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn (11)
    • 1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn (13)
  • 1.2. Nội dung, điều kiện và căn cứ áp dụng hình phạt tù có thời hạn (15)
    • 1.2.2. Điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn (18)
    • 1.2.3. Căn cứ áp dụng hình phạt tù có thời hạn (19)
  • 1.3. Vị trí và ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn (23)
    • 1.3.1. Vị trí của hình phạt tù có thời hạn (23)
    • 1.3.2. Ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn (24)
  • 1.4. Khái quát về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam (25)
    • 1.4.1. Hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật phong kiến (25)
    • 1.4.2. Hình phạt tù có thời hạn trong giai đoạn 1945 – 1975 (30)
    • 1.4.3. Hình phạt tù có thời hạn sau 1975 (32)
  • 1.5. Khái quát về chế định hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới (35)
    • 1.5.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga (35)
    • 1.5.2. Bộ luật hình sự CHLB Đức (37)
    • 1.5.3. Bộ luật hình sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (38)
  • CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN (40)
    • 2.1. Pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành quy định về hình phạt tù có thời hạn (40)
      • 2.1.2. Đánh giá quy định HPTCTH ở một số chương trong phần các tội phạm (41)
    • 2.2. Các quy định chung về hình phạt tù có thời hạn (45)
      • 2.2.1. Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên (45)
      • 2.2.2. Quyết định hình phạt tù có thời hạn (46)
      • 2.2.3. Tổng hợp hình phạt tù có thời hạn của nhiều bản án (49)
      • 2.2.4. Miễn, giảm thời hạn, hoãn và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có thời hạn (50)
      • 2.2.5. Án treo (55)
      • 2.2.6. Án tích và xóa án tích đối với người chấp hành xong hình phạt tù có thời hạn (58)
    • 2.3. Hiệu quả hình phạt tù có thời hạn trong BLHS hiện hành (61)
      • 2.3.1. Khái niệm hiệu quả của hình phạt tù có thời hạn (61)
      • 2.3.2. Tác động bất lợi của hình phạt tù có thời hạn về mặt xã hội (63)
      • 2.3.3. Tiêu chí xác định hiệu quả của hình phạt tù có thời hạn (64)
      • 2.3.4. Các yếu tố đảm bảo hiệu quả hình phạt tù có thời hạn (66)
  • CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CỦA HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN (71)
    • 3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hiện hành (71)
      • 3.1.1. Tình hình thực tế áp dụng và thi hành HPTCTH (71)
      • 3.1.2. Những vướng mắc, bất cập trong áp dụng HPTCTH trên thực tế (72)
    • 3.2. Các giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng của (79)
  • KẾT LUẬN (0)
  • PHỤ LỤC (86)

Nội dung

Khái niệm và đặc điểm hình phạt tù có thời hạn

Khái niệm hình phạt tù có thời hạn

Hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam là một công cụ quan trọng để đấu tranh phòng, chống tội phạm, được coi là chế tài đặc biệt trong hệ thống biện pháp cưỡng chế của nhà nước Theo C.Mác, hình phạt là phương tiện tự vệ của xã hội trước những hành vi xâm phạm các điều kiện tồn tại của nó Qua lịch sử, hình phạt đã được giai cấp thống trị quan tâm và cải tiến về lý luận lẫn thực tiễn Trước BLHS 1999, hình phạt chưa được định nghĩa rõ ràng trong văn bản pháp luật, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau Các tài liệu như Từ điển nghiệp vụ phổ thông và Sổ tay thuật ngữ pháp lý đã định nghĩa hình phạt là biện pháp cưỡng chế của nhà nước, được áp dụng bởi Tòa án dựa trên mức độ nguy hiểm của tội phạm và các yếu tố liên quan GS.TSKH Lê Văn Cảm cũng nhấn mạnh rằng hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất để tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do của người bị kết án theo quy định của pháp luật hình sự.

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về hình phạt, nhưng các định nghĩa này vẫn chia sẻ những điểm chung nhất định, thể hiện nội hàm sâu sắc của khái niệm này.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY định nghĩa hình phạt theo Điều 26 BLHS hiện hành như một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền lợi của người phạm tội Đây là khái niệm lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, khác với BLHS 1985 và các văn bản trước đó không có quy định này, tạo ra sự hiểu biết thống nhất cho các chủ thể trong việc áp dụng pháp luật.

Hình phạt tù có thời hạn (HPTCTH) trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam đã chứng minh được hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm Theo Điều 33 BLHS, hình phạt này yêu cầu người bị kết án phải chấp hành tại trại giam trong khoảng thời gian nhất định, với mức tối thiểu là ba tháng và tối đa là hai mươi năm Giáo trình luật hình sự của Đại học Huế cũng nhấn mạnh rằng HPTCTH thực chất là việc cách ly người phạm tội khỏi xã hội để giáo dục và cải tạo họ Do đó, bản chất của hình phạt này là tước đoạt tự do, nhằm bảo vệ xã hội khỏi những hành vi nguy hiểm của người phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định.

Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành, chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn về bản chất của hình phạt tù có thời hạn (HPTCTH) so với định nghĩa trong BLHS năm 1985 Cụ thể, BLHS năm 1985 định nghĩa hình phạt này tại Điều 25 là “Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải bị giam trong thời hạn từ ba tháng đến hai mươi năm, với thời gian tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.”

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY

Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn

HPTCTH là hình phạt có nguồn gốc lâu đời, được quy định trong hầu hết các tội phạm của Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam và pháp luật hình sự quốc tế Theo báo cáo tổng kết 14 năm thi hành BLHS, hình phạt tù giam hiện đang được áp dụng phổ biến, với tỷ lệ trên 90% tổng số vụ án tại TP Hồ Chí Minh Hình phạt này thu hút sự quan tâm của cộng đồng xã hội, vì nó là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước, chỉ áp dụng cho cá nhân phạm tội, và được quy định duy nhất trong BLHS với quyết định từ Tòa án Ngoài những đặc điểm chung của hình phạt, HPTCTH còn có một số đặc điểm riêng biệt.

Hình phạt tước tự do là biện pháp trừng phạt đặc trưng trong pháp luật hình sự, nhằm tước đi quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải cải tạo trong môi trường quản lý nghiêm ngặt và cách ly khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định So với các hình phạt khác như cảnh cáo hay phạt tiền, tước tự do không chỉ nhằm mục đích trừng trị và răn đe mà còn tạo ra tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn tái phạm và bảo đảm an toàn cho cộng đồng Trong các trại cải tạo, người phạm tội phải tuân thủ quy chế về giờ giấc, học tập và lao động, đồng thời vẫn được đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.

1 http://www.baomoi.com/Sua-doi-bo-sung-quy-dinh-ve-hinh-phat-trong-Bo-luat-Hinh-su-Loai-bo-nhung- hinh-phat-khong-hieu-qua/58/13449858.epi

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY nhấn mạnh rằng chính sách nhân đạo của nhà nước thể hiện qua các quyền lợi cơ bản như ăn, ở, mặc và sinh hoạt của người phạm tội Trong thời gian cải tạo, họ sẽ được giáo dục để nhận thức rõ sai lầm do hành vi phạm tội gây ra, từ đó tu dưỡng đạo đức và trở thành công dân có ích sau khi mãn hạn tù.

- Là hình phạt có tính chất cƣỡng chế nghiêm khắc

So với các hình phạt theo Điều 28 BLHS, hình phạt cải tạo không giam giữ (HPCTH) có tính chất cưỡng chế nghiêm khắc hơn, đúng với định nghĩa về hình phạt tại Điều 26 BLHS HPCTH tước tự do của người phạm tội trong một thời gian nhất định, đồng thời hạn chế một số quyền cơ bản như quyền bầu cử, tự do cư trú và đi lại Việc bị tước tự do cũng ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ của người phạm tội với gia đình và xã hội, gây ra sự xáo trộn trong cuộc sống gia đình và có thể dẫn đến hệ lụy cho con cái do thiếu sự quan tâm từ cha mẹ Tuy nhiên, hình phạt này nhẹ hơn so với tù chung thân và tử hình, vì hai hình phạt này không chỉ tước đi tự do mà còn có thể tước đi mạng sống của người phạm tội, đồng thời họ không còn cơ hội trở về với gia đình và xã hội.

Người phạm tội không chỉ phải chịu hình phạt mà còn gánh chịu hậu quả pháp lý từ án tích, điều này ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng Án tích làm xấu hồ sơ lý lịch của họ, gây khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, vì nhà tuyển dụng có thể có ấn tượng không tốt Hơn nữa, án tích còn được xem là yếu tố quan trọng trong việc xác định khả năng tái phạm và tái phạm nguy hiểm, từ đó có thể dẫn đến việc tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY

- Là hình phạt mang tính phổ biến và đƣợc quy định ở hầu hết các tội phạm cụ thể

HPTCTH là hình phạt phổ biến được áp dụng trên toàn cầu và đã tồn tại từ lâu trong pháp luật hình sự Ở Việt Nam, loại hình phạt này cũng có ảnh hưởng đáng kể và dự kiến sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay Khi nền kinh tế thị trường phát triển, tình hình tội phạm ngày càng gia tăng và trở nên nguy hiểm hơn, điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho công tác phòng, chống tội phạm phải được nâng cao hiệu quả.

HPTCTH là chế tài chủ yếu được quy định trong các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự hiện hành tại Việt Nam Tuy nhiên, một số tội như xâm phạm bí mật thư tín, kinh doanh trái phép, trốn thuế, cho vay nặng lãi, xâm phạm quyền tác giả, và xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp không áp dụng hình phạt tù có thời hạn, mà chỉ áp dụng chế tài phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ.

Trong Bộ luật Hình sự (BLHS), trong số 300 tội phạm cụ thể được quy định, chỉ có 6 tội ở khung cơ bản không quy định hình phạt tù có thời hạn (HPTCTH) Điều này chứng tỏ vai trò đặc biệt quan trọng của hình phạt này trong chính sách hình sự của Việt Nam.

Nội dung, điều kiện và căn cứ áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn

TCTH là hình phạt cưỡng chế nghiêm khắc, tước đi quyền lợi thiết thực của người phạm tội, vì vậy việc áp dụng hình phạt này cần tuân thủ các điều kiện nhất định HĐXX cần xem xét hành vi, tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, cùng với các quy định cụ thể của luật, để đảm bảo bản án công minh, đúng người, đúng tội.

Theo Điều 33 BLHS hiện hành, mức tù chung thân (TCTH) đối với người phạm tội có thời gian tối thiểu là ba tháng và tối đa là hai mươi năm Khi tuyên án, Hội đồng xét xử (HĐXX) phải căn cứ vào nhiều yếu tố nhưng không được vượt quá giới hạn này Trong trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, mức tối đa cũng không vượt quá ba mươi năm Tuy nhiên, các tội phạm cụ thể có khung hình phạt khác nhau; ví dụ, tội giết người, phản bội tổ quốc và bạo loạn có mức án tối đa là hai mươi năm, trong khi tội giết con mới đẻ có mức án thấp hơn hai mươi năm.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY quy định mức hình phạt tối đa cho tội vô ý làm chết người (Điều 98) là hai năm, với khoản 1 là năm năm và khoản 2 là mười năm HĐXX phải quyết định mức hình phạt cụ thể cho từng tội phạm Nếu đáp ứng các điều kiện nhất định, HĐXX có thể áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang khung hình phạt liền kề Các quy định này giúp HĐXX thuận lợi trong việc quyết định hình phạt, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của người phạm tội.

Căn cứ áp dụng hình phạt tù có thời hạn

Việc áp dụng hình phạt không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến người phạm tội mà còn tác động đến người thân và toàn xã hội Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người phạm tội và đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng pháp luật, Hội đồng xét xử cần tuân thủ các nguyên tắc như nguyên tắc pháp chế, cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, cùng nguyên tắc nhân đạo Theo Điều 45 Bộ luật hình sự hiện hành, Tòa án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, cùng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự Những căn cứ này đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định hình phạt, giúp đảm bảo tính đúng đắn và hợp lý trong quy trình xét xử.

- Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự

Quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hình phạt và trách nhiệm hình sự Nó không chỉ là cơ sở đầu tiên cho các quyết định về hình phạt, mà còn ảnh hưởng đến các căn cứ pháp lý khác Nếu không dựa vào các quy định của BLHS, các phán quyết của Tòa án sẽ không có hiệu lực thi hành, dẫn đến việc cá nhân không bị coi là có tội và không phải chịu hình phạt.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC, SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY nhấn mạnh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, theo đó, Tòa án khi ra quyết định hình phạt (QĐHP) phải dựa vào các quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) cả phần chung và phần các tội phạm Tòa án chỉ có thể xác định khung hình phạt, còn loại và mức hình phạt cụ thể cần xem xét các căn cứ khác Do đó, khi ra QĐHP cho bị cáo, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS một cách khái quát và thống nhất, đồng thời nêu rõ trong bản án các quy định liên quan đến bị cáo Tác giả chỉ liệt kê một số quy định liên quan đến chế định hình phạt trong phần này mà không đi sâu vào phân tích cụ thể.

 Các quy định về hệ thống hình phạt nói chung (Điều 28), và HPTCTH nói riêng về nội dung, điều kiện, thời hạn áp dụng (Điều 33)

Các quy định về quyết định hình phạt (QĐHP) bao gồm nguyên tắc xử lý tại Điều 3, mục đích hình phạt theo Điều 27, căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được nêu tại Điều 46, và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 48 Ngoài ra, Điều 49 đề cập đến tái phạm và tái phạm nguy hiểm, trong khi Điều 50 quy định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội Cuối cùng, Điều 51 hướng dẫn tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

Các quy định liên quan đến các tội phạm cụ thể trong HPTCTH đề cập đến khung hình phạt và các hình phạt bổ sung như cấm cư trú, quản chế và tước một số quyền công dân.

- Căn cứ vào mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

HPTCTH trong luật hình sự Việt Nam chủ yếu áp dụng cho các tội phạm cụ thể, với quy định về mức án tối thiểu và tối đa mà không xác định chính xác mức án Tội phạm thường diễn biến phức tạp, do đó, việc lựa chọn loại hình phạt phù hợp là cần thiết để đạt được mục đích của hình phạt và nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn cho bị cáo, việc lựa chọn mức án chính xác là rất quan trọng.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC, SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY Hình phạt cần được xác định dựa trên mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, cùng với các yếu tố khác, nhằm đảm bảo một phán quyết công minh, đúng người, đúng tội và tuân thủ pháp luật.

Khi Tòa án xem xét các yếu tố cấu thành mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cần đánh giá tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, hành vi nguy hiểm đã thực hiện, mức độ nghiêm trọng của hậu quả, thủ đoạn và phương pháp thực hiện tội phạm, hình thức và mức độ lỗi, động cơ của người phạm tội, cũng như hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội tại thời điểm xảy ra Các tình tiết về nhân thân và các yếu tố giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng cần được xem xét Đây là căn cứ quan trọng trong việc quyết định hình phạt, do đó Tòa án phải cân nhắc tổng thể các yếu tố trên và ghi rõ trong bản án những tình tiết phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, nhằm chọn loại và mức hình phạt hợp lý, đảm bảo mục đích hình phạt được phát huy tối đa.

- Căn cứ vào nhân thân của người phạm tội

Nhân thân người phạm tội được định nghĩa là những đặc điểm, dấu hiệu phản ánh bản chất của họ, có tác động đến hành vi phạm tội trong các tình huống cụ thể Để thực hiện mục đích trừng trị, giáo dục và ngăn ngừa tái phạm, Tòa án cần cân nhắc các yếu tố liên quan đến nhân thân của người phạm tội, nhằm đánh giá khả năng phát triển nhân cách và tiềm năng cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

Những đặc điểm nhân thân có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cũng như tác động đến mức độ lỗi của người phạm tội Các yếu tố như tuổi tác, giới tính, trình độ học vấn và hoàn cảnh gia đình có thể định hình cách mà một cá nhân thực hiện hành vi phạm tội và khả năng tái phạm Việc hiểu rõ những đặc điểm này giúp cơ quan chức năng đánh giá đúng mức độ nguy hiểm và đưa ra các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC, SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY, phân tích các trường hợp phạm tội liên quan đến hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi Bài viết cũng đề cập đến tội phạm xảy ra do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và các tội phạm do lạc hậu.

Những đặc điểm nhân thân như việc phạm tội lần đầu, tự thú, thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải của người phạm tội phản ánh khả năng cải tạo và giáo dục của họ.

Khi quyết định hình phạt, cần xem xét những đặc điểm nhân thân của người phạm tội, đặc biệt là trong các trường hợp như người già, phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ Việc này không chỉ đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của luật hình sự mà còn giúp đạt được mục đích hình phạt một cách hiệu quả nhất.

Khi quyết định hình phạt trong một vụ án, Tòa án cần xem xét đầy đủ các khía cạnh nhân thân của người phạm tội, bao gồm cả những yếu tố tích cực và tiêu cực, để đưa ra phán quyết chính xác Điều quan trọng là các đặc điểm của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được xem xét như là dấu hiệu bắt buộc trong việc định tội danh, mà không nên xem xét chúng như những yếu tố thuộc nhân thân khi quyết định hình phạt.

- Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng được quy định lần lượt ở các Điều 46 và Điều

48 BLHS quy định các tình tiết có thể làm tăng hoặc giảm mức độ trách nhiệm hình sự trong khung hình phạt nhất định, nhưng không định tội hay khung hình phạt cụ thể Mỗi vụ án có những tình tiết riêng, phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau Nhà làm luật đã quy định chung về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trong một điều luật mà không chỉ định cụ thể cho từng tội phạm Do đó, khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cần cân nhắc và đánh giá các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng liên quan.

Vị trí và ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn

Vị trí của hình phạt tù có thời hạn

Hệ thống hình phạt trong Bộ Luật Hình sự là một tổng thể bao gồm các hình phạt được quy định, có sự liên kết theo một trật tự nhất định dựa trên tính chất nghiêm khắc của từng loại hình phạt.

Theo Điều 28 Bộ luật Hình sự, hình phạt được chia thành hai loại: hình phạt chính và hình phạt bổ sung Hình phạt chính được phân thành hai nhóm: hình phạt tước tự do (bao gồm tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình) và hình phạt không tước tự do (gồm cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất, cải tạo không giam giữ) Bảy hình phạt trong nhóm hình phạt chính được sắp xếp theo mức độ nghiêm khắc tăng dần, phản ánh quan điểm của nhà nước về tội phạm và hình phạt.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC, SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY, trong BLHS, HPTCTH thuộc nhóm hình phạt tước tự do, có mức độ nghiêm khắc trung bình Hình phạt này nghiêm khắc hơn các hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng nhẹ hơn hình phạt tù chung thân và tử hình.

Bản chất của hình phạt tù có thời hạn (HPTCTH) là tước tự do của người phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm giáo dục và cải tạo họ trong các khu vực quy định Người phạm tội sẽ bị cách ly khỏi xã hội và tham gia lao động cải tạo theo pháp luật, giúp triệt tiêu các điều kiện phạm tội, đồng thời rèn luyện nề nếp sinh hoạt, lao động và học tập theo chuẩn mực sống Quá trình này giúp họ nhận thức được sai lầm, tự hối cải và sửa chữa bản thân, để sau khi mãn hạn tù, họ có thể trở thành công dân có ích cho xã hội Với những ưu điểm này, HPTCTH là hình phạt phổ biến nhất trong chế tài của các tội phạm cụ thể Trong gần 300 tội cụ thể trong Bộ luật Hình sự, chỉ có 6 điều luật ở khung cơ bản không quy định HPTCTH.

Theo Điều 170a, khoản 1 Điều 171 BLHS, hình phạt HPTCTH được ưu tiên lựa chọn bởi Tòa án, cho thấy vai trò quan trọng của nó trong hệ thống hình phạt HPTCTH không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm mà còn thực hiện mục đích trừng trị, giáo dục và cải tạo người phạm tội Đồng thời, hình phạt này cũng giúp giáo dục quần chúng nhân dân tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.

Ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn

HPTCTH đóng vai trò quan trọng trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm, được xem như một biện pháp pháp lý trong hệ thống hình phạt Việc áp dụng hình phạt này không chỉ nhằm giáo dục người phạm tội mà còn ảnh hưởng đến nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là những cá nhân có tâm lý không vững.

Hình phạt tù có thời hạn (HPTCTH) là biện pháp tước quyền tự do của người phạm tội trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm giáo dục và cải tạo họ Trong thời gian này, người phạm tội có cơ hội học tập, lao động và rèn luyện nhân phẩm để tái hòa nhập cộng đồng Khác với hình phạt tử hình, HPTCTH không chỉ mang tính trừng phạt mà còn thể hiện tinh thần nhân đạo của nhà nước, cho phép người phạm tội sửa chữa lỗi lầm và trở thành công dân lương thiện.

Hình phạt tù có thời hạn, cùng với các hình phạt khác theo quy định của Bộ luật Hình sự, tạo ra sự đa dạng trong cơ sở pháp lý Điều này giúp các chủ thể liên quan thực thi pháp luật hình sự một cách thuận lợi, đồng thời trở thành công cụ hiệu quả cho nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội vi phạm quy phạm pháp luật hình sự.

Khái quát về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam

Hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật phong kiến

Trong thời kỳ phong kiến, nhiều bộ luật nổi tiếng và có giá trị lịch sử đã được ban hành, tiêu biểu như Hình thư của triều đại nhà Lý (1010 – 1225), được ban hành vào năm Nhâm Ngọ.

1042) – đây được coi là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta; Triều đại nhà Trần

Từ năm 1225 đến 1400, Việt Nam đã ban hành năm Bộ luật quan trọng, bao gồm Quốc triều thường lễ (1230), Quốc triều thông chế (1230), Năm công văn cách thức (1290), Hình luật thư (1241) và Hoàng triều đại điển (1241) Triều đại nhà Lê (1428 – 1788) nổi bật với Quốc triều hình luật, hay còn gọi là Luật Hồng Đức (1483) Trong khi đó, triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945) được biết đến với Bộ Hoàng Việt luật lệ, hay Luật Gia Long (1812) Mỗi Bộ luật này đều phản ánh bản chất và ý chí của giai cấp thống trị trong từng giai đoạn lịch sử.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY nghiên cứu sâu về các quy định hình phạt trong hai Bộ luật nổi tiếng thời phong kiến là Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long), không chỉ dừng lại ở việc tổng hợp các bộ luật của từng giai đoạn.

QTHL được coi là đỉnh cao của pháp luật thời phong kiến, thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp so với các bộ luật trước đó, đồng thời mang tính đa dạng và phong phú về nội dung Bộ luật này không chỉ có giá trị pháp lý mà còn chứa đựng tính nhân văn sâu sắc, bao quát hầu hết các quan hệ xã hội trong thời kỳ đó QTHL ra đời trong triều đại Hậu Lê (sơ kỳ), đánh dấu thời kỳ đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền tại Việt Nam, sau khi nhân dân đấu tranh giành thắng lợi và lập ra nhà Hậu Lê vào năm 1428.

Lê Thái Tổ và Lê Lợi đã khởi xướng các hoạt động lập pháp quan trọng, bao gồm việc thảo luận với các đại thần về luật lệ kiện tụng, phân chia ruộng đất, và quy định hình phạt Mặc dù vậy, pháp luật thời kỳ này vẫn còn nhiều hạn chế, và các vua sau đã tiếp tục hoàn thiện bộ luật Năm 1483, vua Lê Thánh Tông đã cho pháp điển hóa Bộ QTHL, bao gồm các quy định được ban hành trong thời kỳ Lê sơ Hiện nay, văn bản gốc của Bộ luật này không còn, nhưng theo tài liệu, QTHL có 13 chương với 722 điều, được chia thành 6 quyển Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về chế định hình phạt trong QTHL.

Hệ thống hình phạt gồm 5 loại hình phạt chính:

Hình phạt đầu tiên là xuy hình (đánh roi) với 5 mức độ: 10 roi, 20 roi, 30 roi, 40 roi và 50 roi Người phạm tội có thể phải chịu hình phạt này kèm theo phạt tiền hoặc biếm chức.

Trượng hình là hình phạt thứ hai chỉ áp dụng cho đàn ông, với năm mức độ: 60, 70, 80, 90 và 100 trượng Ngoài hình phạt chính này, người phạm tội còn có thể bị áp dụng thêm các hình phạt bổ sung như đồ hình, lưu hình hoặc biếm chức.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY

Loại hình phạt thứ ba là Đồ hình, bao gồm ba bậc công việc nặng nhọc Bậc một dành cho đàn ông là làm dịch đinh, thực hiện các công việc nhẹ nhàng tại gia môn, trại lính hoặc trong làng, trong khi đàn bà làm dịch phụ, như làm vườn, công việc vặt hoặc chăn nuôi tằm Bậc hai yêu cầu đàn ông làm tượng phường binh, tức lính quét dọn chuồng voi, còn đàn bà làm xuy thất tì, phục vụ trong nhà bếp Cuối cùng, bậc ba yêu cầu đàn ông làm chủng điền binh, khai thác đồn điền ở biên giới, trong khi đàn bà làm thung thất tì, phục vụ xay lúa và giã gạo.

Loại hình phạt thứ tư là lưu hình (đi đày) với ba bậc khác nhau Bậc một, châu gần, áp dụng cho đàn ông với hình phạt 90 trượng, bị khắc 6 chữ lên mặt, đeo xiềng và bị đày đi làm việc tại Nghệ An, Hà Hoa; phụ nữ sẽ bị đánh 50 roi, khắc 6 chữ lên mặt và phải làm việc nhưng không đeo xiềng Bậc hai, châu ngoài, người phạm tội sẽ bị đánh 90 trượng, khắc 8 chữ lên mặt, đày đi làm việc ở Quảng Bình và bị xiềng hai vòng Bậc ba, châu xa, hình phạt nặng hơn với 100 trượng, khắc 10 chữ lên mặt, đi đày ở các tỉnh Cao Bằng và bị đeo xiềng ba vòng.

- Loại hình phạt thứ năm: Tử hình có ba bậc: Bậc một: Thắt cổ, chém; Bậc hai: Chém bêu đầu; Bậc ba: Lăng trì

Sau khi nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng mặc dù hệ thống hình phạt trong QTHL không quy định hình phạt tù có thời hạn, nhưng Đồ hình và Lưu hình có nhiều điểm tương đồng với hình phạt này Đồ hình yêu cầu người phạm tội làm việc tại những địa điểm nhất định như quân đội hay nhà bếp, trong khi Lưu hình nghiêm khắc hơn, buộc người phạm tội phải đi đày xa và làm việc Cả hai hình phạt này đều dẫn đến việc người phạm tội bị tước tự do, cách ly khỏi xã hội và phải tuân thủ các quy tắc tại nơi bị giam giữ.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC, SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY, đề cập đến nội dung HPTCTH theo Điều 33 BLHS hiện hành Mặc dù hệ thống hình phạt có phần nghiêm khắc, nhưng QTHL được xem là một bộ luật tiến bộ về kỹ thuật lập pháp và mang tính nhân đạo sâu sắc Điều này thể hiện rõ qua sự phân hóa hình phạt giữa nam và nữ trong các hình phạt Đồ hình và Lưu hình.

Bộ luật QTHL mang bản chất phong kiến, trở thành công cụ của giai cấp địa chủ thống trị, với mục đích chính là bảo vệ quyền lợi của họ Pháp luật hình sự trong Bộ luật này chủ yếu tập trung vào việc trừng trị mà thiếu đi yếu tố giáo dục và cải tạo, điều này tạo nên sự khác biệt rõ rệt so với pháp luật hình sự hiện nay Tuy nhiên, không thể phủ nhận những giá trị lịch sử mà Bộ luật này đã đóng góp cho nền pháp luật Việt Nam.

HVLL, hay còn gọi là Luật Gia Long, là bộ luật cuối cùng của thời kỳ phong kiến Việt Nam và được xem là bộ luật chính thức đầu tiên của triều đại nhà Nguyễn Vua Gia Long đã giao cho Tổng trấn Nguyễn Văn Thành biên soạn bộ luật này, và nó được ban hành vào năm 1815 HVLL được áp dụng xuyên suốt thời kỳ nhà Nguyễn, với các vua sau này chỉ thực hiện sửa đổi, bổ sung một số nội dung Đặc biệt, sau khi thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam, bộ luật này vẫn tiếp tục được áp dụng tại Trung Kỳ.

Bộ Hoàng Việt luật lệ, với 398 điều và 30 điều tỷ dẫn, được chia thành 22 cuốn, đã sao chép gần như nguyên văn Bộ luật nhà Thanh, dẫn đến việc mất đi tính đặc thù của nền pháp luật Việt Nam Theo tác giả trong cuốn Cổ Luật Việt Nam và tư pháp sử, sự tân kỳ và mới lạ của bộ luật triều Lê không còn được lưu giữ trong bộ luật này.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY đã nhấn mạnh rằng mặc dù Bộ luật nhà Nguyễn có những hạn chế, nhưng không thể phủ nhận giá trị của nó Trong bài tham luận “Hoàng Việt luật lệ và di sản văn hóa triều Nguyễn” tại hội thảo khoa học về triều Nguyễn do trường Đại học Sư phạm Huế tổ chức, tác giả Nguyễn Quang Thắng đã nhận định rằng Hoàng Việt luật lệ, hay còn gọi là Luật, có vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy di sản văn hóa của triều đại này.

Hình phạt tù có thời hạn trong giai đoạn 1945 – 1975

Ngày 09/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam được thông qua, tạo nền tảng pháp lý cho việc xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng thời bảo đảm quyền lợi của nhân dân Dựa trên Hiến pháp 1946, nhiều văn bản pháp luật được ban hành, đặc biệt là trong lĩnh vực hình sự, như Sắc lệnh số 27 SL ngày 28/02/1946 về trừng trị các hành vi bắt cóc, tống tiền và ám sát; Sắc lệnh số 223 SL ngày 17/11/1946 về tội hối lộ; Sắc lệnh số 61 SL ngày 05/7/1947 cấm xuất cảng tư bản; và Sắc lệnh số 150 ngày 20/12/1950 liên quan đến tội phá hoại tiền tệ và giá trị bạc Việt Nam.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY Hiện nay, chưa có một văn bản pháp luật hình sự chung nào quy định tổng hợp, dẫn đến việc thiếu một Bộ luật hình sự cụ thể Các vấn đề liên quan đến tội phạm và hình phạt được quy định rải rác trong các sắc lệnh và pháp lệnh, chưa được nâng lên thành luật, gây khó khăn trong việc áp dụng cho các Tòa án và cá nhân có thẩm quyền Trong giai đoạn này, hình phạt tù có thời hạn đã thể hiện hiệu quả, trở thành một trong những hình phạt chính thường được áp dụng đối với người phạm tội.

Sắc lệnh 133 – SL ngày 20/01/1953 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định về việc trừng trị các đối tượng Việt gian phản động, với hình phạt tù không có mức sàn và tối đa, tùy thuộc vào nhận định của cơ quan xét xử Theo đó, các tội phạm có thể bị phạt tù từ 10 năm trở xuống hoặc từ 10 năm đến tù chung thân Điều 4 của Sắc lệnh nêu rõ hình phạt đối với những kẻ hoạt động đắc lực gây hại, như bắt, giết, tra tấn, và áp bức nhân dân, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở lên, trong khi mức nhẹ có thể chỉ là 10 năm trở xuống Điều 5 quy định rằng các chủ mưu, tổ chức và chỉ huy có hành vi lừa phỉnh, cưỡng ép nhân dân, hoặc khủng bố sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân, hoặc có thể bị xử án tử hình.

Sắc lệnh 151 SL ngày 12/4/1953 của Chủ tịch nước quy định các hình phạt đối với địa chủ vi phạm pháp luật trong bối cảnh thực hiện chính sách cải cách ruộng đất Các địa chủ bị xử lý nếu có hành vi câu kết với đế quốc, ngụy quyền, hoặc thành lập các tổ chức phản động nhằm chống lại chính phủ, phá hoại kháng chiến, gây hại cho nhân dân, và giết hại nông dân cùng cán bộ.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC, SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY chỉ ra rằng việc thành lập tổ chức vũ trang để bạo động, cùng với các hành vi như đánh bị thương, ám sát nông dân và cán bộ, đốt phá tài sản, và xúi giục gây phiến loạn sẽ bị xử phạt nghiêm khắc, từ 10 năm tù giam đến án tử hình Những hình phạt này đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm, bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời đảm bảo sự vững mạnh của chế độ chính trị, dẫn dắt nhân dân đến thắng lợi cuối cùng.

Hình phạt tù có thời hạn sau 1975

Vào năm 1980, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp mới, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đất nước Bản Hiến pháp này thể chế hóa đường lối và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, phản ánh giai đoạn mới của cách mạng.

Nhà nước Việt Nam quản lý xã hội theo pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Sau khi Hiến pháp được ban hành, Quốc hội đã tiếp tục xây dựng các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hình sự, như Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ (20/5/1981) và Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (30/6/1982) Tuy nhiên, bài viết này sẽ tập trung vào Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam BLHS 1985, ban hành ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ 01/01/1986 và hết hiệu lực vào 00 giờ ngày 01/7/2000, khi BLHS 1999 có hiệu lực, đã quy định đầy đủ và cụ thể về tội phạm, hệ thống hình phạt cùng các quy định liên quan.

Hệ thống hình phạt theo Điều 21 bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung Hình phạt chính gồm các hình thức như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội, tù chung thân và tử hình Hình phạt bổ sung có thể là cấm đảm nhiệm các chức vụ hoặc thực hiện những nghề, công việc nhất định.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY đề cập đến các hình phạt như cấm cư trú, quản chế, tước quyền công dân, tước danh hiệu quân nhân, tịch thu tài sản và phạt tiền, trong đó phạt tiền không phải là hình phạt chính So với Bộ luật Hình sự, các hình thức xử lý này thể hiện sự nghiêm khắc trong việc bảo vệ trật tự xã hội.

1999 thì BLHS 1985 có quy định nhiều hơn một số loại hình phạt như hình phạt cải tạo ở đơn vị kỉ luật quân đội, tước danh hiệu quân nhân

Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật Hình sự, tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải giam từ ba tháng đến hai mươi năm, trong đó thời gian tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt So với quy định tại Điều 33 của BLHS hiện hành, quy định của BLHS 1985 còn thiếu sót khi không nêu rõ bản chất của hình phạt này và chỉ quy định trừ thời gian tạm giam mà không đề cập đến thời gian tạm giữ Điều này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người chấp hành án, vì cả tạm giam và tạm giữ đều tước tự do trong một thời gian nhất định để phục vụ cho công tác điều tra Do đó, cần quy định trừ thời gian tạm giữ vào thời hạn chấp hành án, và BLHS hiện hành đã khắc phục được thiếu sót này.

Trong hệ thống hình phạt, TCTH đóng vai trò quan trọng đối với các tội phạm cụ thể, vì tất cả các tội phạm trong Bộ luật Hình sự (BLHS) 1985 đều quy định về loại hình phạt này Từ khi có hiệu lực vào năm 1986 cho đến giữa năm 2000, BLHS 1985 đã trải qua bốn lần sửa đổi và bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1992.

Năm 1997, một số tội phạm mới đã được bổ sung vào quy định Hình sự Tố tụng hình sự (HPTCTH), trong khi một số tội phạm cũ đã được sửa đổi, dẫn đến việc giảm mức hình phạt hoặc nâng cao mức hình phạt tù.

- Trong lần sửa đổi, bổ sung đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1989, các nhà lập pháp đã bổ sung thêm Điều 96a – “Tội sản xuất,

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY đề cập đến việc nâng mức hình phạt tù đối với tội tàng trữ, mua bán, và vận chuyển trái phép chất ma túy, với mức phạt tăng theo khung hình phạt Cụ thể, mức hình phạt cao nhất cho tội giết người theo khoản 2 Điều 101 BLHS 1985 được nâng từ mười lăm năm lên hai mươi năm Đồng thời, mức hình phạt tù cao nhất trong khung cơ bản của tội cướp tài sản công dân theo khoản 1 Điều 151 đã được giảm từ mười hai năm xuống còn bảy năm.

Vào ngày 12/8/1991, Quốc hội đã thông qua lần sửa đổi, bổ sung thứ hai, trong đó các nhà lập pháp đã kế thừa và điều chỉnh các quy định trước đó Cụ thể, mức án tù cho một số tội phạm như tổ chức, cưỡng ép người khác trốn ra nước ngoài đã được giảm từ ba đến mười hai năm xuống còn hai đến bảy năm (Điều 88 Khoản 1) Đồng thời, mức hình phạt cho khung tăng nặng của tội hiếp dâm (khoản 4 Điều 112) được quy định từ mười hai đến hai mươi năm Ngoài ra, mức hình phạt tối đa trong khung cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân (Khoản 1 Điều 157) cũng được tăng từ ba năm lên năm năm.

Vào ngày 22/12/1992, Quốc hội đã thông qua lần sửa đổi, bổ sung thứ ba, trong đó nâng mức hình phạt tù cho một số tội danh Cụ thể, tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 97) có khung hình phạt cơ bản tăng từ một năm đến năm lên hai năm đến bảy năm Tương tự, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 139) cũng tăng mức hình phạt cơ bản từ sáu tháng đến năm năm lên một năm đến bảy năm.

Vào ngày 10/5/1997, Quốc hội đã thông qua lần sửa đổi, bổ sung thứ tư, trong đó các nhà lập pháp đã nâng mức hình phạt tù cho một số tội phạm điển hình Cụ thể, tội tham ô chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa tại Điều 133 có mức tối thiểu tăng từ một năm lên hai năm ở khung cơ bản, và mức tối thiểu ở khung tăng nặng tại khoản 2 từ năm năm lên bảy năm Bên cạnh đó, Điều 134a cũng được bổ sung.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY

Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa có mức phạt tù từ hai đến bảy năm.

Như vậy, trong suốt mười lăm năm có hiệu lực, với những quy định của BLHS

Năm 1985, việc thống nhất đã tạo nền tảng vững chắc cho công tác phòng chống tội phạm, trong đó hình phạt và TCTH đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam Điều này không chỉ đảm bảo an ninh trật tự mà còn góp phần vào sự an toàn xã hội, hướng tới một xã hội văn minh, giàu đẹp, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

Khái quát về chế định hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới

Bộ luật hình sự Liên bang Nga

Liên bang Nga, kế thừa từ Liên Xô cũ, là một quốc gia có nền kinh tế phát triển và hệ thống pháp luật tiên tiến Trong bối cảnh Việt Nam đang hoàn thiện pháp luật, đặc biệt là sửa đổi Bộ luật Hình sự, việc học hỏi từ các quy định pháp luật hình sự của Nga là cần thiết.

Hệ thống hình phạt tại Liên bang Nga được quy định tại Điều 44 Bộ luật Hình sự hiện hành, bao gồm 13 loại hình phạt chính và hình phạt bổ sung Đặc biệt, năm loại hình phạt mới đã được bổ sung, trong đó có lao động bắt buộc, với các hình thức cụ thể do các cơ quan tự quản địa phương quy định, và hạn chế phục vụ trong quân đội, áp dụng cho quân nhân phục vụ theo hợp đồng.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY đề cập đến các hình phạt trong Bộ luật Hình sự Nga, bao gồm hạn chế tự do, phạt giam từ một đến sáu tháng, và tù chung thân Nội dung và điều kiện áp dụng các hình phạt này được quy định tại các Điều 13, Điều 46 đến Điều 57, Điều 59 Đặc biệt, hình phạt tù có thời hạn được quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

“Điều 56 Tù có thời hạn

1 Hình phạt tù có thời hạn là việc đưa người phạm tội cách ly khỏi xã hội bằng cách chuyển họ đến những nơi giam giữ, các trại giáo dưỡng, cơ sở cải tạo chữa bệnh, trại cải tạo theo chế độ chung, trại cải tạo theo chế độ nghiêm ngặt và trại cải tạo theo chế độ đặc biệt trong nhà tù

2 Hình phạt tù được quy định trong thời hạn từ hai tháng đến hai mươi năm

3 Trong trường hợp tổng hợp từng phần hoặc tất cả các thời hạn tù khi áp dụng hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội thì hình phạt tù tối đa không được vượt quá 25 năm, còn đối với trường hợp tổng hợp các bản án không quá 30 năm”

Bộ luật quy định chi tiết về hình phạt cách ly xã hội, phân loại người phạm tội theo tính chất tội phạm Thời hạn giam giữ tối thiểu là hai tháng, thấp hơn một tháng so với quy định tại Việt Nam, trong khi mức tối đa là hai mươi năm, tương tự như quy định của Việt Nam Điểm khác biệt là quy định về tổng hợp hình phạt, trong khi Việt Nam quy định riêng tại Điều 50 và 51 BLHS, Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định mức tối đa là 25 năm cho tổng hợp nhiều tội và 30 năm cho tổng hợp nhiều bản án Những quy định này bảo vệ quyền lợi của người phạm tội một cách tối đa.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC, SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY đề xuất rằng trong quá trình soạn thảo dự thảo Bộ luật hình sự sắp tới, Việt Nam nên xem xét và học hỏi các quy định liên quan đến tội phạm.

Bộ luật hình sự CHLB Đức

Đức, một quốc gia liên bang ở Trung Âu, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn như Liên hợp quốc, WTO, OECD, G8 và G20 Với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và vị thế dẫn đầu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, Đức có hệ thống hình phạt trong pháp luật hình sự đặc biệt Tác giả cho rằng Việt Nam có thể học hỏi từ các quy định của Đức để cải thiện và tiến bộ hóa pháp luật quốc gia.

Theo luật hình sự CHLB Đức, hệ thống hình phạt được phân thành bốn loại chính: hình phạt tự do (tù), hình phạt tiền, hình phạt tài sản và hình phạt phụ, không giống như pháp luật hình sự Việt Nam Hình phạt tự do bao gồm hình phạt có thời hạn và tù chung thân, với quy định rằng hình phạt tù là có thời hạn nếu không có quy định cụ thể về tù chung thân Mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn là một tháng và tối đa là mười lăm năm, khác với quy định của Việt Nam là từ ba tháng đến hai mươi năm Thời hạn hình phạt dưới một năm được tính theo tuần và tháng, trong khi hình phạt nặng hơn được tính theo tháng và năm Đặc biệt, hình phạt tù có thể thay thế cho hình phạt tiền và tài sản nếu không thể buộc người bị kết án chấp hành hình phạt tiền, với quy định rằng mỗi đơn vị thu nhập ngày tương đương với một ngày hình phạt tự do.

Hình phạt tự do thay thế có thể được áp dụng với mức tối đa là hai năm và tối thiểu là một tháng Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể tuyên án tù ngắn hạn dưới sáu tháng nếu có những tình tiết đặc biệt liên quan đến hành vi hoặc nhân thân của người phạm tội Nếu không đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tù, Tòa án có thể chuyển đổi hình phạt ngắn hạn thành hình phạt tiền, mặc dù luật không quy định rõ ràng về hình phạt này.

Bộ luật hình sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

Nhà nước và pháp luật Hoa Kỳ đặc trưng bởi hai cấp độ song song: liên bang và tiểu bang, với mỗi tiểu bang hoạt động như một Nhà nước độc lập có hệ thống chính quyền và pháp luật riêng Mặc dù có những điểm chung nhất định do ảnh hưởng từ chính quyền liên bang, các tiểu bang thường tham khảo các Bộ luật mẫu do liên bang đề xuất, trong đó có Bộ luật Hình sự (BLHS), nhưng không có giá trị áp dụng chính thức Sự khác biệt trong quan điểm chính trị giữa các bang dẫn đến việc chỉ một số ít tiểu bang áp dụng BLHS mẫu Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu pháp luật hình sự Hoa Kỳ ở cấp độ liên bang.

Trong hệ thống hình phạt, có bốn loại hình phạt chính: phạt tiền, án treo, phạt tù (có thời hạn hoặc chung thân) và tử hình Bên cạnh đó, còn có các hình phạt bổ sung như lao động công ích, tịch thu tài sản và tước bỏ một số quyền như quyền giữ chức vụ và quyền bầu cử.

Hình phạt tù được quy định theo chín mức tương ứng với năm loại trọng tội (A,

B, C, D và E), ba loại khinh tội (A, B, C) và vi cảnh, cụ thể như sau: a) năm mức đối với trọng tội – chung thân hoặc bất kì thời hạn nào (loại A), không quá hai mươi lăm năm (loại B), không quá mười hai năm (loại C), không quá sáu năm (loại D), không quá ba năm (loại E); b) ba mức đối với khinh tội – không quá một năm (loại

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY

A), không quá sáu tháng (loại B), không quá ba mươi ngày (loại C); c) một mức phạt vi cảnh – không quá năm ngày Trong trường hợp phạm trọng tội loại A hoặc phạm nhiều tội, thì mức hình phạt tù có thể lên đến hàng trăm năm Đồng thời, sau khi ra tù, phạm nhân còn chịu sự giám sát trong một thời hạn: a) đối với trọng tội loại A hoặc B – không quá năm năm; b) đối với trọng tội loại C hoặc D – không quá ba năm; c) đối với trọng tội loại E hoặc khinh tội (ngoài tội không đáng kể) – không quá một năm

Những quy định này sẽ tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn chế tài áp dụng cho người phạm tội và phân hóa tội phạm với các mức phạt khác nhau Việt Nam nên xem xét áp dụng linh hoạt những quy định này vào pháp luật hình sự, phù hợp với tình hình và điều kiện kinh tế, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.

GVHD: Th.S MAI KHẮC PHÚC SVTH: NGUYỄN THỊ THÙY

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CỦA HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:14

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
49. Từ điển nghiệp vụ phổ thông, Viện Nghiên Cứu Khoa học công an, 1997 F. TRANG WEB 50. http://luathinhsu.com.vn Link
19. Hồ Sĩ Sơn, Chế định hình phạt trong bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp và một số gợi mở nhằm hoàn thiện BLHS ở nước ta, Tạp chí nhà nước & pháp luật, số 03/2009 Khác
20. Hồ Sĩ Sơn, Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt nhìn từ hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, Tạp chí nhà nước & pháp luật, số 02/2007 Khác
21. Lê Đăng Doanh, So sánh hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam với hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự Thụy Điển, Tạp chí TAND, số 1.1/2012 Khác
22. Nguyễn Khắc Quang. Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí TAND, số 7. 4/2012 Khác
23. Nguyễn Sơn, Bàn về chức năng hình phạt, Tạp chí Nhà nước & pháp luật, Số 09/2002 Khác
24. Trần Văn Dũng & Hoàng Ngọc Thành, Hình phạt tù có thời hạn tiếp cận dưới góc độ so sánh giữa Luật hình sự Việt Nam và Luật hình sự Cộng Hòa Pháp, Tạp chí TAND, số 2. 1/2012 .D. SÁCH CHUYÊN KHẢO Khác
25. Chuyên đề những vấn đề cơ bản trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, Thông tin khoa học pháp lý số 08/2002, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư pháp Khác
26. Đinh Văn Quế, Tìm hiểu tội phạm và hình phạt trong LHSVN, 2007, Nhà xuất bản Phương Đông, 2007 Khác
27. Hoàng Việt luật lệ, tập 1, Nguyễn Văn Thành – Vũ Trinh – Trần Hựu; do Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Văn Tài dịch, Nhà xuất bản VHTT, 1994 Khác
28. Hội thảo Pháp –Việt đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1999 Khác
30. Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung – sách chuyên khảo sau đại học), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 Khác
32. PGS.TS Trịnh Quốc Toản, Những vấn đề lí luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại hoc quốc gia Hà Nội, 2011 Khác
33. PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung) – Đại học Huế, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2006 Khác
34. Quốc triều hình luật, Viện Sử Học Việt Nam, Nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội, 1991 Khác
35. Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2001 Khác
36. Trần Minh Hưởng, Tìm hiểu BLHS nước CHXHCNVN, Nhà xuất bản Lao Động, 2002 Khác
37. Trần Minh Hưởng, Tìm hiểu hình phạt và các biện pháp tư pháp trong LHSVN, Nhà xuất bản Lao Động, 2007 Khác
38. Trần Quang Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004 Khác
39. TS. Cao Văn Liên, Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước, Nhà xuất bản Thanh niên, 2004 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG LUẬT  HÌNH SỰ VIỆT NAM – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN - Hình phạt tù có thời hạn trong luật hình sự việt nam lý luận và thực tiễn
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (Trang 1)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w