ĐƠN VỊ THỰC TẬP
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
- Tên đơn vị: Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi.
- Địa chỉ: 600 Trần Phú, Thị trấn PleiKần,Huyện Ngọc Hồi, Tỉnh Kon Tum.
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 20-LCT, công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đánh dấu ngày thành lập ngành Kiểm sát nhân dân Theo Hiến pháp Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan Nhà nước độc lập trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước.
Vào tháng 10 năm 1991, tỉnh Kon Tum được tái lập từ việc chia tách tỉnh Gia Lai - Kon Tum thành hai tỉnh riêng biệt Cùng với sự tái lập này, Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Kon Tum cũng được thành lập theo quyết định số 88/QĐ-TC ngày 21 tháng 8 năm 1991 của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao Bộ máy làm việc và tổng biên chế cán bộ của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh được thực hiện theo quyết định số 115/V9 ngày 20 tháng 9 năm 1991.
Khi mới thành lập, VKSND tỉnh Kon Tum gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ Dưới sự chỉ đạo của VKSND tối cao và Tỉnh ủy Kon Tum, lãnh đạo VKSND tỉnh đã kiện toàn tổ chức, rà soát và sắp xếp đội ngũ cán bộ, thực hiện đúng chức năng theo quy định của Luật tổ chức VKSND Hoạt động của VKSND hai cấp luôn bám sát nhiệm vụ công tác ngành KSND và yêu cầu chính trị địa phương, tập trung vào kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực như quản lý đất đai, thuế, và các chương trình phát triển nông thôn Qua công tác kiểm sát, nhiều vi phạm trong quản lý kinh tế và xã hội đã được phát hiện và xử lý, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật Đồng thời, công tác kiểm sát hình sự đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi phạm tội, bảo đảm quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân.
Tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ ngày đầu thành lập:
Khi mới thành lập, bộ máy làm việc của VKSND tỉnh Kon tum có 5 phòng nghiệp vụ và 6 VKS huyện, thị xã.
* Các phòng nghiệp vụ, gồ m:
- Văn phòng TH&TC-KT.
- Phòng KS điều tra và KSXX sơ thẩm án hình sự.
- Phòng KS xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, giam giữ cải tạo và chấp hành án hình sự.
- Phòng KS xét xử và chấp hành án dân sự.
* Các VKS huy ện, thị xã gồm:
- VKSND thị xã Kon tum thành lập tháng 8/1976.
- VKSND huyện ĐăkGlei thành lập tháng 8/1976.
- VKSND huyện ĐăkTô thành lập tháng 8/1977.
- VKSND huyện Sa thầy thành lập tháng 1/1979.
- VKSND huyện KonPlông thành lập tháng 1/1979.
- VKSND huyện Ngọc hồi thành lập tháng 12/1991.
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền công tố và giám sát hoạt động tư pháp tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhiệm vụ chính của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, quyền con người và quyền công dân, cũng như bảo vệ chế độ.
Xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân Điều này góp phần đảm bảo rằng pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
Phòng 1 (phòng thực hành quyền công tố - kiểm sát điều tra hình sự án trị an, kinh tế, chức vụ) của Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh Kon Tum có chức năng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự; kiểm tra, giám sát trong suốt quá trình điều tra, truy tố và ra các quyết định theo đúng thủ tục tố tụng như: quyết định phân công Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ án hay không khởi tố vụ án, quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám định, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án (Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những công tác sau đây
1 Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
2 Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp;
3 Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự;
4 Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
5 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhân dân;
6 Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1 Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; Yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
2 Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật;
3 Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
4 Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật;
5 Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra;
6 Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố với các nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng, bao gồm việc kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân, đồng thời tham gia vào việc đưa ra các đề nghị, quan điểm về việc giải quyết vụ án.
1 Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà;
2 Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm;
3 Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
Chức năng thực hành quyền công tố theo điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự, nhằm thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội Hoạt động này bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và kéo dài suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân được thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
Mọi hành vi phạm tội sẽ được phát hiện và xử lý kịp thời, đảm bảo điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Quy trình này nhằm tránh làm oan người vô tội và ngăn chặn việc để lọt tội phạm.
- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp theo Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 là nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các hành vi và quyết định trong lĩnh vực tư pháp Hoạt động này được thực hiện từ giai đoạn tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cho đến suốt quá trình xử lý vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, cũng như trong việc thi hành án và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:
Việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, cùng với kiến nghị khởi tố, được thực hiện đúng theo quy định pháp luật Đồng thời, các vụ án hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, cũng như các lĩnh vực kinh doanh, thương mại và lao động đều được xử lý một cách hiệu quả Việc thi hành án và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp cũng được thực hiện đúng quy định, đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong các hoạt động tư pháp khác.
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI
ĐÔI NÉT VỀ NỘI DUNG CÔNG VIỆC TRONG ĐỢT THỰC TẬP
- Cập nhật sổ sách, kiểm sát việc thụ lí giải quyết tin báo tố giác tội phạm của Công an huyện Ngọc Hồi.
- Phụ giúp KSV lập phiếu thống kê, phiếu kiểm sát bản án, báo cáo xét xử vụ án, phiếu thống kê tội phạm.
- Sang Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi kí thống kê liên ngành, giao một số giấy tờ trong hồ sơ.
- Cùng KSV Hoàng Ngọc Oanh lấy lời khai bị can.
- Tham dự phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi.
- Cùng KSV đi tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, khám nghiệm tử thi.
- Cùng kiểm sát viên đi kiểm sát trực tiếp tin báo, tố giác về tội phạm tại Công an huyện Ngọc Hồi.
- Cùng Kiểm sát viên tham gia kiểm sát tại nhà tạm giữ Công an huyện Ngọc Hồi.
- Phụ giúp kiểm sát viên đóng dấu bút lục, nghiên cứu hồ sơ án dân sự.
- Đi cùng Kiểm sát viên Lương Văn Bình tham gia hoạt động kiểm sát tại nhà tạm
Phó Viện trưởng Phó Viện Trưởng
Nguyễn Văn Khanh Hà Sỹ Thái
Bộ phận Dân sự, khiếu tố kinh doanh thương mại, hành chính, lao động
Bộ phận kiểm sát tin báo, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét
Bộ phận kiểm sát tạm giữ, tạm giam, THA hình xử hình sự
01 chuyên sự, THA dân sự
02 kiểm sát viên 01 kế toán;
02 kiểm sát viên giữ Công an huyện Ngọc Hồi.
Phụ giúp Kiểm sát viên trong việc cập nhật sổ thụ lý kiểm sát thi hành án dân sự liên quan đến các quyết định thi hành án được ban hành bởi Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hồi.
- Phụ giúp KSV nhập thống kê tội phạm theo tháng vào thống kê trên máy.
> Qua quá trình thực tập thì bản thân tôi nhận thấy rằng:
- Được tiếp cận, nghiên cứu, cập nhật thông tin của nhiều hồ sơ án mới.
- Mức độ đi khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện giao thông cùng kiểm sát viên được thực hiện nhiều hơn.
Thành thạo các nhiệm vụ như lập phiếu thống kê, đánh bút ký phiên tòa, sắp xếp hồ sơ, đánh trích cứu hồ sơ kiểm sát và ghi chép nhật ký kiểm sát điều tra là rất quan trọng trong công việc.
- Biết cách viết biên bản lời khai, hỏi cung bị can trong một số trường hợp VKS tham gia lấy lời khai, hỏi cung hoặc phúc cung.
- Hoàn thành công việc được giao và đúc kết được nhiều kinh nghiệm cho bản thân.
- Học hỏi được nhiều kinh nghiệm, phương pháp làm việc
- Có một kỳ thực tập ý nghĩa tại đơn vị.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm của người dưới 18 tuổi:
Người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ về nhân cách và chưa có đủ quyền lợi cũng như nghĩa vụ của công dân Mỗi quốc gia đều có quy định riêng về độ tuổi của người chưa thành niên Theo Điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày 20/11/1989, trẻ em được định nghĩa là những người dưới 18 tuổi.
Theo Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em, được thông qua bởi Đại hội đồng Liên hợp quốc vào ngày 20/11/1989, trẻ em được định nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp quy định tuổi thành niên sớm hơn.
18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Theo quy định tại Điều 90 BLHS năm 2015, người chưa thành niên phạm tội được xác định là những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi Những người từ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội danh nghiêm trọng như giết người, cố ý gây thương tích, hiếp dâm và cướp tài sản Khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội” trong pháp luật hình sự nhằm xác định tính chất của hành vi phạm tội và áp dụng hình phạt phù hợp, dựa trên đặc điểm tâm lý và sinh lý của người chưa thành niên vào thời điểm phạm tội.
Từ những phân tích trên có thể khái niệm:người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ
Từ 14 đến dưới 18 tuổi, cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do những hạn chế về tâm lý và sinh lý Những người này có thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm các quy định của luật hình sự, với lỗi có thể là cố ý hoặc vô ý.
Theo định nghĩa khoa học, người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành có những dấu hiệu cơ bản như sau: họ chưa đủ tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm hình sự, nhưng vẫn có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
- Có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm, sinh lý
5Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em
- Đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
- Hành vi mà người đó thực hiện là hành vi bị luật hình sự cấm
- Có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi đó
2.1.2 Các hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người dưới 18 tuổi
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) 7 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
"1 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác."
❖ Hành vi trộm cắp tài sản:
"Điều 173 Tội trộm cắp tài sản 8
1 Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169,
Theo các điều 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, nếu chưa xóa án tích và có hành vi vi phạm, sẽ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội Đặc biệt, tài sản liên quan đến vụ việc có thể là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, hoặc là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị tinh thần đặc biệt đối với người bị hại.
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; g) Tái phạm nguy hiểm.
3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
8Điều 173 BLHS 2015 trộm cắp tài sản
4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5 Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng."
❖ Hành vi đua xe trái phép:
Hành vi đua xe trái phép sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 Cụ thể, Điều 266 quy định về tội đua xe trái phép, nhấn mạnh tính nghiêm trọng của hành vi này và các hình thức xử lý phù hợp.
1 Người nào đua trái phép xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%; c) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; đ) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý khôngcứu giúp người bị nạn; e) Tham gia cá cược; g) Chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép; h) Đua xe nơi tập trung đông dân cư; i) Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua; k) Tái phạm nguy hiểm.
3 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Làm chết 02 người;
5 Điều 266 BLHS 2015 tội đua xe trái phép
Gây thương tích cho hai người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, hoặc gây hại cho ba người với tổng tỷ lệ tổn thương từ 122% đến 200% sẽ bị xử lý nghiêm Ngoài ra, hành vi gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu đến dưới 1,5 tỷ đồng cũng sẽ chịu trách nhiệm pháp lý.
4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Làm chết 03 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
5 Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
2.2.1 Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Thứ nhất, về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Việt Nam đã hình thành và phát triển song song với lịch sử pháp luật hình sự của đất nước Việc xử lý đối tượng này cần cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau, nhằm đảm bảo tính nhân đạo và bảo vệ quyền lợi cho trẻ em.
Người phạm tội 18 tuổi có những khác biệt rõ rệt so với người trưởng thành, đặc biệt trong quy định về trách nhiệm hình sự Những quy định này phản ánh sự nhận thức về độ tuổi và khả năng chịu trách nhiệm của người dưới 18 tuổi, nhấn mạnh sự cần thiết phải có các biện pháp giáo dục và cải tạo thay vì chỉ trừng phạt.
Khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, cần tuân thủ các nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi và sự phát triển của trẻ em Các quy định này nhấn mạnh việc áp dụng biện pháp giáo dục và cải tạo thay vì hình phạt nghiêm khắc, đồng thời xem xét hoàn cảnh và hành vi của người phạm tội để đưa ra quyết định phù hợp Việc xử lý phải đảm bảo tính nhân đạo, khuyến khích sự tái hòa nhập cộng đồng và giảm thiểu nguy cơ tái phạm.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới
Chủ trương giáo dục và hỗ trợ người dưới 18 tuổi nhằm giúp họ sửa chữa sai lầm và phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan có thẩm quyền cần xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm Nguyên tắc này nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục và trách nhiệm xã hội trong việc hỗ trợ thanh thiếu niên, thể hiện tính nhân đạo của hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam và phù hợp với các công ước quốc tế về tư pháp cho người dưới 18 tuổi Mục tiêu cuối cùng là bảo vệ quyền lợi và đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, được coi là nguyên tắc cốt lõi trong tất cả các hoạt động liên quan đến họ, như đã được ghi nhận tại Điều 3 8 của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Các cơ quan có thẩm quyền ưu tiên áp dụng biện pháp thay thế xử lý hình sự cho người dưới 18 tuổi phạm tội, như khiển trách, hòa giải cộng đồng, giám sát và giáo dục tại địa phương Nguyên tắc quan trọng trong xử lý người dưới 18 tuổi là bảo đảm lợi ích tốt nhất cho các em Việc lựa chọn phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi và tạo môi trường phát triển bình thường là rất cần thiết Trong nhiều trường hợp, áp dụng các biện pháp ngoài hệ thống tư pháp chính thức, mang tính răn đe và giáo dục xã hội, đã cho thấy hiệu quả tích cực Đây là một biện pháp tiến bộ mà hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên đang khuyến khích, như được nêu trong Điều 40 (3)(b) của Công ước quốc tế về Quyền trẻ em.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi chỉ được thực hiện khi cần thiết, dựa trên tính chất hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và yêu cầu phòng ngừa tội phạm Nguyên tắc này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt cho những trường hợp có thể xử lý bằng biện pháp khác Quy định này yêu cầu người áp dụng pháp luật cân nhắc kỹ lưỡng khi quyết định hình thức và biện pháp xử lý, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của chế tài hình sự đối với người chưa đủ 18 tuổi.
8 Điều 3, Điều 40 Công ước quốc tế về quyền trẻ em
Tòa án cần phải lựa chọn biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt hoặc biện pháp tư pháp đối với 17 tội danh cụ thể.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi nhận thấy việc miễn trách nhiệm hình sự không đủ hiệu quả Nếu các biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không đảm bảo mục tiêu giáo dục và phòng ngừa, hình phạt sẽ được xem xét.
Theo quy định pháp luật, người dưới 18 tuổi không bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, bởi đây là hai hình phạt nghiêm khắc nhất, một là tước tự do suốt đời và một là tước quyền sống Những hình phạt này chỉ được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt khi hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm tội cho thấy họ khó hoặc không còn khả năng cải tạo, giáo dục Do đó, việc áp dụng những hình phạt này trái với nguyên tắc xử lý chung đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi các biện pháp giáo dục khác không hiệu quả Khi xử phạt, mức án dành cho người chưa thành niên sẽ nhẹ hơn so với người lớn, nhằm phù hợp với sự thiếu hoàn thiện trong nhận thức và kinh nghiệm sống của họ Quy định này thể hiện chính sách khoan hồng, hạn chế tác động tiêu cực từ môi trường trại giam Đồng thời, nó cũng thể hiện sự tuân thủ các nguyên tắc của tư pháp hình sự đối với trẻ em, theo Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, bảo đảm rằng không có trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách bất hợp pháp trong quá trình tư pháp.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, vì họ thường chưa tham gia lao động và chưa hiểu đúng giá trị tài sản trong cuộc sống Việc áp dụng hình phạt tiền có thể không mang lại hiệu quả giáo dục và cải tạo cho đối tượng này.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; chỉ có hình phạt chính được áp dụng Quy định này thể hiện nguyên tắc tiết chế hình phạt cho đối tượng này Đối với người chưa đủ 16 tuổi, án tuyên không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, cho thấy sự khoan hồng hơn trong xử lý hình sự đối với người từ 14 đến dưới 16 tuổi so với người từ 16 đến dưới 18 tuổi.
Thứ hai, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi
Tinh thần xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần thể hiện rõ tính nhân đạo Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), quy định này nhấn mạnh việc bảo vệ quyền lợi và tạo điều kiện cho sự phát triển của trẻ em trong quá trình xử lý pháp lý.
“1 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123,
265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
So với Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thu hẹp phạm vi các tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự Cụ thể, những người này chỉ phải chịu trách nhiệm về tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo 28 điều luật Quy định này thể hiện chính sách hình sự khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhằm bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, đồng thời tập trung vào giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm và phát triển thành công dân có ích cho xã hội.