1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện theo bộ luật dân sự 2015

138 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giao Dịch Dân Sự Do Người Không Có Quyền Đại Diện Xác Lập, Thực Hiện Theo Bộ Luật Dân Sự 2015
Tác giả Cao Hồng Quân
Người hướng dẫn Thạc Sĩ Nguyễn Nhật Thanh
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 138
Dung lượng 3,27 MB

Cấu trúc

  • BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

  • KHÓA LUẬN CAO HỐNG QUÂN

    • Final Ho_¦ng Qua_n - Khoa8 lua=_n PDF

    • 1

    • 2

    • 3

    • 4

    • 5

    • 6

Nội dung

Khái quát chung về giao dịch dân sự

Khái niệm giao dịch dân sự

Pháp luật dân sự đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu dân sự và tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam Từ thời kỳ phong kiến cho đến nay, các vấn đề dân sự đã ảnh hưởng đến hành vi và đời sống con người, góp phần vào sự ổn định và phát triển của xã hội Hệ thống pháp luật dân sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân, điều chỉnh các hành vi trong xã hội Giao dịch dân sự là một phần thiết yếu của Bộ luật Dân sự, thể hiện ý chí và thiết lập quyền lợi của các bên, đáp ứng nhu cầu lẫn nhau.

Trong bối cảnh phát triển của công nghiệp và ảnh hưởng của thời đại 4.0, nhiều yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đạo đức đã tác động đến các quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 Tuy nhiên, khái niệm giao dịch dân sự tại Điều 116 BLDS 2015 vẫn giữ nguyên so với BLDS 2005, định nghĩa rằng giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương dẫn đến việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

Việt Nam được biểu hiện dưới hai hình thức: hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương

Giao dịch dân sự được hiểu là hành vi pháp lý có mục đích, thể hiện ý chí của các chủ thể để xác lập quan hệ pháp luật dân sự, từ đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Quan điểm này được tác giả đồng tình vì nó khái quát bản chất của giao dịch dân sự một cách rõ ràng và đầy đủ.

Giao dịch dân sự được hiểu là hành vi mà các bên thực hiện dựa trên thỏa thuận nhằm hình thành hợp đồng Ngoài ra, hành vi pháp lý đơn phương cũng được xem là một dạng giao dịch dân sự.

2 Trường Đại học Luật TP HCM (2017), Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.275

Trần Thị Huệ (2015) trong bài viết “Kiến nghị hoàn thiện các quy định về giao dịch dân sự trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15, nhấn mạnh rằng giao dịch dân sự là những sự kiện pháp lý quan trọng, có khả năng phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Cả hai loại hình giao dịch này đều hình thành các quan hệ dân sự, và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, chúng có thể dẫn đến sự thay đổi trong quyền lợi hoặc nghĩa vụ của các bên liên quan.

Giao dịch dân sự, dù dưới hình thức hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương, đều thể hiện “hành vi có ý thức” của các chủ thể tham gia nhằm đạt được mục đích cụ thể Do đó, có thể khẳng định rằng “giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch.”

Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

Để giao dịch có hiệu lực pháp luật và ràng buộc các bên, cần đảm bảo các điều kiện theo Điều 117 BLDS 2015 Quy định này kế thừa từ Điều 122 BLDS 2005, đưa ra bốn điều kiện quan trọng mà giao dịch phải tuân thủ.

(i) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

(ii) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

(iii) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;

Hình thức của giao dịch dân sự là yếu tố quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp Một giao dịch chỉ có hiệu lực khi tuân thủ đầy đủ các điều kiện đã nêu Nếu thiếu một trong các điều kiện này, giao dịch sẽ bị coi là không có giá trị pháp lý và có thể dẫn đến việc vô hiệu hóa giao dịch dân sự.

1.1.2.1 Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập Điều kiện tiên quyết đầu tiên được đặt ra chính là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia giao dịch

4 Trường Đại học Luật TP HCM, tlđd (2), tr.277

5 Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập I, tr.282

Theo Điều 16 Bộ luật Dân sự, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự Đối với pháp nhân, năng lực pháp luật dân sự được hiểu là khả năng có các quyền và nghĩa vụ dân sự, và không bị hạn chế trừ những trường hợp cụ thể.

Theo Điều 22 Bộ luật Dân sự, năng lực hành vi dân sự được định nghĩa là khả năng của cá nhân trong việc xác lập và thực hiện quyền cũng như nghĩa vụ dân sự thông qua các hành vi của mình Các quy định liên quan trong bộ luật này và các luật khác có thể có sự khác biệt.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 131 BLDS 1995 và điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS 2005, “Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự” đã được bổ sung trong BLDS 2015 với khái niệm “chủ thể” có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự “phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” Mặc dù sự thay đổi này có vẻ chỉ là kỹ thuật, nhưng cụm từ “phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” lại mang ý nghĩa quan trọng, vì nội dung và mức độ năng lực hành vi của mỗi chủ thể trong các loại giao dịch là khác nhau Điều này được thể hiện rõ qua điểm a khoản 2 Điều 125 BLDS 2015, quy định về độ tuổi có thể thực hiện giao dịch dân sự.

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự là hai yếu tố quan trọng, đóng vai trò quyết định để đảm bảo tính hợp lệ của giao dịch Việc không tuân thủ những yếu tố này có thể dẫn đến việc giao dịch bị tuyên bố vô hiệu.

Trong giao dịch dân sự, năng lực hành vi của chủ thể là yếu tố quan trọng, bởi những hạn chế trong nhận thức có thể dẫn đến việc cần bảo vệ quyền lợi của họ Trong một vụ án cụ thể, Tòa án nhận định rằng ông Hội, mặc dù chưa bị tuyên bố mất năng lực hành vi, nhưng đã bị tai biến mạch máu não và bại liệt từ cuối năm 2008 Do đó, hợp đồng mà ông Hội ký kết không phát sinh hiệu lực, dẫn đến việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hội và bà Hương với ông Hùng và bà Trinh bị vô hiệu một phần đối với ông Hội Tòa án cũng đã đưa ra những nhận định tương tự trong các vụ việc khác.

6 Tưởng Duy Lượng (2017), Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, tr.22

Bản án số 42/2016/DS-PT ngày 08/8/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã xác định rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tuấn V, bà Trương Thị T và anh Trần Thọ Đ là giao dịch dân sự vô hiệu Kết luận từ biên bản giám định sức khỏe tâm thần số 68/PYTT ngày 10/8/2012 cho thấy ông Nguyễn Tuấn V không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cần người giám hộ Ông V bị câm, điếc bẩm sinh và không có khả năng nhận thức từ trước tuổi thành niên đến thời điểm giám định.

Trong thực tiễn xét xử, Tòa án thường tuyên bố vô hiệu các giao dịch khi một bên không có khả năng nhận thức hoặc không nhận thức được hành vi của mình Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người không đủ năng lực hành vi dân sự, đảm bảo rằng các giao dịch được thực hiện một cách hợp pháp và công bằng.

1.1.2.2 Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện

Tự nguyện, theo Từ điển Tiếng Việt, là hành động mà cá nhân tự mình mong muốn thực hiện mà không bị ép buộc hay đe dọa Trong khoa học dân sự, tính tự nguyện được hiểu là sự tự do ý chí và khả năng bày tỏ ý kiến của cá nhân Bản chất của giao dịch dân sự chính là sự thống nhất trong việc thể hiện ý chí một cách tự do giữa các bên tham gia Nếu không có tự do ý chí, khái niệm tự nguyện sẽ không tồn tại.

Nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Dân sự 2015 khẳng định rằng cá nhân và pháp nhân có quyền tự do xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình dựa trên sự tự nguyện và cam kết Ý chí tự do và tự nguyện của các chủ thể là yếu tố quan trọng trong quan hệ dân sự, vừa thể hiện quyền con người, vừa là quyền công dân, góp phần đảm bảo tính hợp pháp của giao dịch Nếu giao dịch dân sự thiếu tính tự nguyện, sẽ không phát sinh hậu quả pháp lý Trong một vụ án, Tòa án đã xác định rằng việc bà Mỳ và anh Khoa cho anh Cửu phần đất 3m là vô hiệu do họ không tự nguyện mà bị đe dọa, ép buộc.

8 Bản án số 150/2017/LH-PT ngày 08/9/2017 của Tòa án nhân dân TP Hà Nội

9 Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, tr.1111

10 Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật,

Vũ Thị Hồng Vân (Chủ biên), tr.176

11 Quyết định số 162/2010/DS-GĐT ngày 24/4/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

Giao dịch dân sự và hợp đồng phải dựa trên sự thống nhất ý chí tự nguyện của các bên Trong trường hợp của bà Mỳ và anh Khoa, giao dịch không đảm bảo tính tự nguyện, do đó có lý do để không công nhận giá trị của giao dịch này.

1.1.2.3 Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội

Theo nguyên tắc, các bên có quyền tự do quyết định về nội dung, hình thức và chủ thể trong giao dịch dân sự Tuy nhiên, xã hội luôn đặt ra những hạn chế đối với tự do giao dịch Một nguyên tắc quan trọng trong Bộ luật Dân sự 2015 được nêu tại Khoản 2 Điều 3 là mọi cam kết và thỏa thuận phải không vi phạm điều cấm của luật và không trái với đạo đức xã hội Điều này cho thấy rằng, sự cấm đoán và đạo đức xã hội là những giới hạn cho tự do hợp đồng Do đó, một trong những điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực là mục đích và nội dung của nó phải tuân thủ quy định pháp luật và đạo đức xã hội.

Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà các bên mong muốn đạt được, với hậu quả pháp lý phát sinh từ giao dịch Nội dung của giao dịch dân sự bao gồm các thỏa thuận xác định quyền và nghĩa vụ của các bên Cụ thể, mục đích là động lực thúc đẩy việc xác lập giao dịch, trong khi nội dung là đối tượng của giao dịch Luật cấm những hành vi nhất định mà chủ thể không được thực hiện, và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

12 Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, tập 1, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.578

13 Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr.578

15 Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội, Vũ Thị Hồng Vân (Chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, năm 2016, tr.176

Những vấn đề chung về đại diện

Khái niệm đại diện

Trong giao lưu dân sự, các chủ thể thường tự xác lập và thực hiện giao dịch để đạt được mục đích và lợi ích cá nhân Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng thực hiện giao dịch một mình; nhiều khi, việc này được giao cho người đại diện Ví dụ, pháp nhân không thể tự ký kết hợp đồng mà phải thông qua người đại diện, vì pháp nhân không có khả năng tự thể hiện Tương tự, người mất năng lực hành vi dân sự cũng cần người đại diện để ký kết hợp đồng, do họ không đủ nhận thức và ý chí để bảo vệ quyền lợi của mình.

Chế định đại diện có vai trò pháp lý quan trọng trong xã hội, cho phép một người sử dụng kinh nghiệm và quan điểm của mình để đại diện cho người khác trong các giao dịch pháp lý Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của các bên mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các giao dịch một cách hiệu quả và hợp pháp.

19 Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm

20 Bản án số 662/2010/DSPT ngày 18/6/2010 của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh

21 Khoản 2 Điều 17 Luật Kinh doanh bất động sản 2014

22 Một nghiên cứu về công ty của R Mortier Conflits d’intérêts: pourquoi et comment apploquer aux sociétés le nouvel article 1161 du Code civil, Droet des sociétés n* 8-9, Aout 2016, estude 11

Điều 23 và Điều 22 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định về vai trò đại diện, nhấn mạnh rằng người đại diện phải có sự hiểu biết cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình, đồng thời người được đại diện cũng phải có khả năng tiếp nhận các hệ quả pháp lý phát sinh từ hành vi của người đại diện.

Đại diện là một chế định có chức năng trợ giúp xã hội, thể hiện trí tuệ pháp lý nhân văn và nhân đạo của con người Nó không chỉ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội mà còn có ảnh hưởng sâu rộng, dẫn đến quan điểm cho rằng đại diện là trung tâm của luật dân sự hiện đại.

Theo góc độ khoa học pháp lý quốc tế, chế định đại diện trong hệ thống thông luật được các quốc gia nghiên cứu qua các học thuyết riêng biệt, tạo thành một khung pháp lý toàn diện cho Luật Đại diện.

Chế định đại diện được đề cập trong các văn bản quốc tế quan trọng như Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit, Nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu và Công ước của Unidroit về đại diện trong mua bán hàng hóa quốc tế.

Phương thức đại diện là yếu tố thiết yếu không thể thiếu trong mọi chế độ phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh phân công lao động liên quan đến sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ.

Trong góc độ thực định pháp luật quốc tế, có nhiều định nghĩa khác nhau về đại diện Theo Điều 99 Bộ luật Dân sự Nhật Bản năm 2005, đại diện được hiểu là sự biểu lộ ý chí của người đại diện, thể hiện rằng hành động này được thực hiện nhân danh người được đại diện và trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện, từ đó ràng buộc người được đại diện Các quy định này cũng áp dụng với những sửa đổi thích hợp đối với bất kỳ sự biểu lộ ý chí nào từ người thứ ba tới người đại diện.

24 Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập I, tr.313

25 Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật hợp đồng phần chung (Dùng cho đào tạo sau đại học), Nxb Đại học Quốc Hà gia Nội, tr.283

26 Mục 2 Điều 2.2.1 UNIDROIT Principles on International Commercial Contracts 2010, https://www unidroit.org/index.php, truy cập ngày 23/3/2020

27 The Principles of European Contract Law 1999, Chapter 3 (Article 3.101-Article 3.304)

28 Unidroit, Convention on Agency in the International Sale of Goods (Geneva, 17 February 1983), https://www.unidroit.org/index.php, truy cập ngày 23/3/2020

29 Konrad Zweigert and Heim Koetz (1998), An Introduction to Comparative Law, Claredon Press, Oxford, p431

30 BLDS Nhật Bản, http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?id 57&vm=2&re, truy cập ngày 27/03/2020

Pháp luật Anh định nghĩa thuật ngữ đại diện (agency) như một mối quan hệ giữa người có thẩm quyền và người được đại diện, cho phép người đại diện (agent) hành động nhân danh người được đại diện (principal) trong các giao dịch với bên thứ ba Theo đó, người đại diện phải có quyền và năng lực pháp lý đầy đủ để thiết lập quan hệ hợp pháp với bên thứ ba thay mặt cho người được đại diện.

Luận thuyết về đại diện của Hoa Kỳ định nghĩa đại diện là mối quan hệ ủy thác, trong đó một người thể hiện sự đồng ý để một người khác hành động nhân danh mình, và người đó phải tuân theo sự kiểm soát của người đã ủy quyền.

BLDS 2015 đã mở rộng tầm nhìn từ hệ thống văn bản pháp luật quốc tế, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực khoa học pháp lý, để xây dựng một chế định lớn về đại diện Theo khoản 1 Điều 134 BLDS, "đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (gọi chung là người đại diện) hành động nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi chung là người được đại diện) trong việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự."

Tức là tính chất đại diện ở đây là “nhân danh” cho người, pháp nhân khác và

Mục đích của việc nhân danh là bảo vệ quyền lợi cho chủ thể được đại diện Đại diện là một chế định pháp lý, trong đó người đại diện độc lập thể hiện ý chí, tạo ra hậu quả pháp lý trực tiếp cho người được đại diện Định nghĩa trong Bộ luật Dân sự 2015 đầy đủ và phù hợp, giúp các chủ thể trong xã hội nhận thức và thực thi pháp luật, đồng thời thể hiện sự tương thích với các quy định quốc tế về chế định đại diện.

Đại diện là một quan hệ pháp luật bao gồm người đại diện và người được đại diện Người được đại diện, có thể là cá nhân hoặc pháp nhân (trừ trường hợp tổ hợp tác và hộ gia đình), là người không trực tiếp thực hiện các giao dịch pháp lý.

31 Vũ Lan Phương (2018), “Bàn về chế định đại diện trong Bộ luật dân sự 2015”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 02 (354), tr.57

Theo Vũ Lan Phương (31), việc giao dịch thông qua hành vi của người đại diện sẽ tạo ra quyền và lợi ích cho người được đại diện Điều này cũng có nghĩa rằng nếu xảy ra những hậu quả pháp lý tiêu cực, người được đại diện sẽ phải chấp nhận và chịu trách nhiệm về những hậu quả đó.

Người đại diện là cá nhân hoặc pháp nhân được ủy quyền thực hiện giao dịch với bên thứ ba, nhằm mang lại lợi ích cho người được đại diện Theo quy định của pháp luật hiện hành, Bộ luật Dân sự đã ghi nhận rõ vai trò và quyền hạn của người đại diện, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch dân sự.

Bản chất của chế định đại diện

Từ những lý luận chung về khái niệm của đại diện, có thể thấy vấn đề đại diện gồm những đặc điểm sau:

Đầu tiên, việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự là rất quan trọng Người đại diện sẽ thực hiện công việc nhân danh người được đại diện, nhưng không phải mọi công việc đều được công nhận Công việc này cần phải liên quan đến việc xác lập và thực hiện một giao dịch dân sự cụ thể.

Việc xác lập và thực hiện không nhất thiết phải diễn ra đồng thời; quan hệ đại diện có thể hình thành từ việc chỉ xác lập hoặc chỉ thực hiện, hoặc cả hai Tùy thuộc vào phạm vi đại diện mà các yếu tố này có thể xảy ra độc lập.

Giao dịch dân sự bao gồm cả hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương, không chỉ giới hạn ở hợp đồng Hành vi pháp lý đơn phương như thanh toán, từ chối nhận di sản, từ bỏ quyền sở hữu hoặc khởi kiện cũng có thể được thực hiện qua ủy quyền, miễn là không vi phạm các quy định bắt buộc mà cá nhân phải tự thực hiện, chẳng hạn như kết hôn, ly hôn hay lập di chúc.

Người đại diện phải hành động nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện, nghĩa là họ không sử dụng danh nghĩa cá nhân mà thay vào đó, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ từ góc độ của người mà họ đại diện.

Vì lợi ích của người được đại diện là một yếu tố quan trọng trong cơ chế đại diện, thể hiện sự độc lập giữa người đại diện và người được đại diện, mỗi bên có tài sản và lợi ích riêng Điều này nhấn mạnh rằng người đại diện có thể vì lợi ích cá nhân mà bỏ qua lợi ích của người được đại diện, do đó cần có cơ chế để ngăn chặn việc lạm dụng quyền hạn gây thiệt hại cho bên được đại diện Tuy nhiên, "vì lợi ích" không nên hiểu theo nghĩa tuyệt đối, vì trong giao dịch dân sự, thiệt hại là điều khó tránh khỏi Quan trọng là hành vi và ý chí của người đại diện phải thể hiện sự tận tâm vì lợi ích của bên được đại diện.

Các căn cứ xác lập quyền đại diện và phân loại đại diện

Quan hệ đại diện có thể được xác lập dựa trên ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện, hoặc theo quy định của pháp luật về đại diện.

36 Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr.270 dựa trên quyết định từ cơ quan nhà nước thẩm quyền, hoặc điều lệ pháp nhân (Điều

Dựa trên các tiêu chí phân loại khác nhau mà người ta có thể phân đại diện ở Việt Nam thành các loại khác nhau

Dựa trên tính chất của quan hệ pháp luật giữa người được đại diện và người thứ ba, đại diện được phân thành hai loại: đại diện dân sự và đại diện thương mại.

Dựa vào tính độc lập của người đại diện so với người được đại diện, có hai loại quan hệ đại diện: quan hệ đại diện độc lập và quan hệ đại diện phụ thuộc Quan hệ đại diện độc lập diễn ra giữa một tổ chức và một cá nhân không thuộc tổ chức đó, hình thành từ hợp đồng dịch vụ đại diện Ngược lại, quan hệ đại diện phụ thuộc xảy ra khi tổ chức cử người của mình làm đại diện, trong đó người đại diện thực hiện nhiệm vụ theo chỉ đạo và phân công của tổ chức.

Theo quy định của pháp luật, đại diện được phân chia thành hai loại: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền Bài viết này tập trung nghiên cứu hai hình thức đại diện này dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 Đại diện theo pháp luật là hình thức đại diện được quy định bởi pháp luật thông qua các văn bản pháp lý nhất định, dựa trên những tiêu chí cụ thể.

Đại diện theo pháp luật là hình thức đại diện bắt buộc theo yêu cầu của văn bản pháp luật, không cho phép lựa chọn người đại diện Điều này thường áp dụng cho những bên yếu thế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong các giao dịch Một ví dụ điển hình là mối quan hệ tự nhiên giữa cha mẹ và con cái chưa thành niên, nơi cha mẹ có trách nhiệm đại diện cho quyền lợi của con.

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội đã trình bày khái niệm và phân loại đại diện trong bài viết của mình, nhấn mạnh tầm quan trọng của Điều 136 và Điều 137 Bộ luật Dân sự Theo đó, khoản 1 Điều 136 quy định về đại diện, trong khi điểm b khoản 1 Điều 137 xác định người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật đối với pháp nhân Thông tin này có thể được truy cập tại http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/117/527, ngày 28/3/2020.

Dựa trên các quan hệ pháp lý như giám hộ hay lao động tập thể, các bên có thể thỏa thuận để chỉ định người đại diện theo pháp luật Trong trường hợp của pháp nhân, người đại diện theo pháp luật sẽ được chỉ định theo điều lệ doanh nghiệp.

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là Tòa án, có thể tuyên bố một người mất và hạn chế năng lực hành vi dân sự của họ Trong trường hợp này, Tòa án sẽ chỉ định người đại diện cho những cá nhân này và nêu rõ phạm vi quyền hạn của người đại diện.

Hiện nay, đại diện theo pháp luật bao gồm đại diện của cá nhân và pháp nhân Đại diện theo pháp luật của cá nhân có thể là đại diện đương nhiên hoặc theo chỉ định, với tính ổn định về người đại diện và thẩm quyền Vấn đề này thường xuất phát từ sự "yếu thế" của cá nhân trong giao dịch, do các yếu tố như sức khỏe, tinh thần hoặc độ tuổi.

Theo Điều 136 Bộ luật Dân sự, đại diện theo pháp luật của cá nhân bao gồm cha, mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ được Tòa án chỉ định và người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện Đối với pháp nhân, người đại diện thường xuyên thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh pháp nhân, miễn là không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội Luật Doanh nghiệp 2014 quy định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp trong các vụ kiện và các quyền lợi liên quan.

Rất tiếc, không tìm thấy trang này.

39 Trường Đại học Luật TP HCM, tlđd (2), tr.251 quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”

Pháp nhân không thể tự mình tham gia giao dịch, do đó cần có người đại diện theo pháp luật Người đại diện này phải được ghi nhận trong điều lệ doanh nghiệp hoặc văn bản thành lập pháp nhân Tuy nhiên, nếu điều lệ hoặc văn bản thành lập không quy định về người đại diện, pháp luật hiện tại chưa đưa ra hệ quả cụ thể.

Pháp luật dân sự cho phép cá nhân và pháp nhân ủy quyền cho người khác thực hiện giao dịch dân sự Đại diện theo ủy quyền là quá trình mà một người tự chọn người đại diện để thực hiện giao dịch khi không thể hoặc không muốn tự mình thực hiện Điều này thường được thể hiện qua hình thức ủy quyền từ người được đại diện.

Theo Điều 138 BLDS, đại diện ủy quyền có thể xuất hiện trong các trường hợp như sau: cá nhân hoặc pháp nhân có quyền ủy quyền cho cá nhân hoặc pháp nhân khác để thực hiện giao dịch dân sự Các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác, hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân cũng có thể thỏa thuận cử người đại diện theo ủy quyền Ngoài ra, người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi có thể làm người đại diện theo ủy quyền, trừ khi pháp luật quy định rằng giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên thực hiện.

Quan hệ đại diện theo ủy quyền có thể được thể hiện bằng một trong hai loại giao dịch:

Hành vi pháp lý đơn phương của người ủy quyền thông qua Giấy ủy quyền cho phép cá nhân hoặc pháp nhân khác đại diện cho mình Việc ủy quyền có hiệu lực khi người được ủy quyền chấp nhận thông qua hành vi đại diện, hoặc thông qua hợp đồng ủy quyền có sự ký kết của cả hai bên Bộ luật Dân sự không yêu cầu công chứng văn bản ủy quyền và không cấm người ủy quyền tiếp tục ủy quyền cho bên thứ ba thực hiện công việc đã được ủy quyền trước đó.

Hậu quả pháp lý và phạm vi đại diện

Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện:

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, giao dịch dân sự do người đại diện thực hiện với bên thứ ba sẽ tạo ra quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện Người đại diện có quyền thực hiện các hành vi cần thiết nhằm đạt được mục đích đại diện, tuy nhiên, các hành vi này phải hợp pháp, hợp hiến, không trái đạo đức xã hội và không vi phạm các quy định cấm Tính cần thiết của các hành vi này sẽ được đánh giá dựa trên từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện, Bộ luật Dân sự yêu cầu người đại diện phải luôn đảm bảo mục đích và ý chí của người được đại diện khi tham gia giao dịch Điều này có nghĩa là nếu người đại diện nhận thức được hoặc phải nhận thức rằng hành vi đại diện được xác lập do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, họ phải hành động phù hợp để bảo vệ quyền lợi của người được đại diện.

Đại diện cho người yếu thế trong giao dịch dân sự là một khía cạnh quan trọng trong pháp luật Theo Lý Vương Thảo, khi một người đại diện thực hiện hành vi mà không đúng quy định, quyền và nghĩa vụ sẽ không phát sinh đối với người được đại diện Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ các quy định pháp lý trong các giao dịch dân sự để bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế.

Phạm vi đại diện trong BLDS 2015 được quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của bên được đại diện và ngăn chặn các hành vi lạm quyền Phạm vi này xác định các quyền và nghĩa vụ mà người đại diện có thể thực hiện với bên thứ ba, giúp rõ ràng hóa những gì mà bên đại diện được phép làm và không được phép làm.

Người đại diện chỉ có thể thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đã được quy định, bao gồm quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân, nội dung ủy quyền và các quy định khác của pháp luật Với hai loại đại diện là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền, phạm vi đại diện cũng có sự khác biệt rõ rệt.

Phạm vi ủy quyền là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực đại diện, tập trung vào các quyền hạn cụ thể mà người đại diện được ủy quyền thực hiện Khi đề cập đến phạm vi ủy quyền, chúng ta chỉ xem xét các khía cạnh liên quan đến đại diện theo ủy quyền, nhằm làm rõ những giới hạn và trách nhiệm của người đại diện trong các giao dịch cụ thể.

Phạm vi ủy quyền xác định quyền đại diện của người được ủy quyền trong việc thực hiện giao dịch thay mặt cho người ủy quyền Nội dung ủy quyền sẽ làm rõ giới hạn này, đảm bảo rằng quyền hạn được xác lập một cách cụ thể và rõ ràng.

- giới hạn mà người được ủy quyền hành động để đem lại quyền và nghĩa vụ cho bên ủy quyền 44

Như vậy căn cứ xác định phạm vi đại diện ủy quyền là dựa trên hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền

Giới hạn của phạm vi ủy quyền có thể được xác định bởi số lượng công việc và thời gian thực hiện, cũng như tính chất của công việc đó.

41 Trường Đại học Luật TP HCM, tlđd (2), tr.256

Bài viết của Trần Thị Quỳnh Châu đề cập đến vấn đề "Đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền và hậu quả pháp lý theo pháp luật dân sự" Tác giả phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến việc đại diện không đúng giới hạn ủy quyền, đồng thời chỉ ra những hệ lụy pháp lý mà các bên liên quan có thể phải đối mặt Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của việc tuân thủ quy định ủy quyền trong giao dịch dân sự để tránh những tranh chấp không đáng có Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại http://tuphaptamky.gov.vn/2014/news/Linh-vuc-dan-su/Dai-dien-vuot-qua-pham-vi-uy-quyen-va-hau-qua-phap-ly-theo-phap-luat-dan-su-4283.html, truy cập ngày 01/4/2020.

Ủy quyền trong quan hệ dân sự không có quy chuẩn cụ thể nào để xác định phạm vi, mà phụ thuộc vào nội dung ủy quyền đã thỏa thuận giữa các bên Điều này thể hiện tính tự do và tự nguyện trong việc giao kết hợp đồng Nội dung ủy quyền chỉ cần tuân thủ đạo đức xã hội và không vi phạm pháp luật để có hiệu lực, cho phép bên đại diện thực hiện công việc cho bên được đại diện Sự thống nhất rõ ràng về nội dung ủy quyền giữa các bên sẽ giúp quá trình thực hiện diễn ra thuận lợi, trong khi nội dung không rõ ràng có thể gây khó khăn và cần áp dụng quy định về giải thích hợp đồng dân sự để xác định phạm vi ủy quyền.

Cần lưu ý rằng phạm vi ủy quyền chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên trong mối quan hệ đại diện và không có hiệu lực đối với bên thứ ba.

Việc xác định phạm vi đại diện theo pháp luật phức tạp hơn so với đại diện theo ủy quyền Phạm vi này được quy định trong các văn bản pháp luật điều chỉnh loại hình đại diện đó.

141 BLDS 2015 thì phạm vi này dựa trên quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân, quy định khác của pháp luật

Quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người đại diện và phạm vi đại diện theo pháp luật Ví dụ, khi cơ quan nhà nước quyết định thành lập một pháp nhân, họ sẽ chỉ định người đứng đầu cùng với trách nhiệm và quyền hạn của người đó khi thực hiện các hoạt động nhân danh pháp nhân.

Theo Điều 77 Bộ luật Dân sự, pháp nhân phải có điều lệ nếu pháp luật yêu cầu, trong đó bắt buộc phải ghi rõ người đại diện theo pháp luật và phạm vi quyền đại diện.

Căn cứ bổ sung trong BLDS 2015 được xem là một ghi nhận tích cực, giúp xác định rõ ràng phạm vi đại diện của người đại diện cho pháp nhân Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng sự bổ sung này tiềm ẩn nguy cơ, vì điều lệ chỉ là quy định nội bộ của pháp nhân.

45 Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr.279

Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

Khái niệm và nội dung của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện

Pháp luật quy định rõ ràng về việc đại diện, trong đó người đại diện thực hiện giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác Việc đại diện chỉ được thực hiện trong phạm vi đã được ủy quyền.

47 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận điểm mới Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, phần 168, tr.190

48 Đoạn 3 khoản 1 Điều 59 BLDS 2015 quy định: “Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác”

49 Quyết định số 11/2016/DS-GĐT ngày 7/3/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

Nhiều trường hợp xảy ra khi một người không có thẩm quyền đại diện thực hiện giao dịch nhân danh cho người khác, dẫn đến việc giao dịch này được xem là do người không có quyền xác lập thực hiện.

BLDS không cung cấp định nghĩa cụ thể nhưng có thể hiểu rằng việc giao dịch với người thứ ba mà không có quyền đại diện hợp pháp là không hợp lệ Ví dụ, khi một người không phải là đại diện theo pháp luật của công ty và không có ủy quyền hợp pháp vẫn ký hợp đồng vay hoặc bán tài sản có giá trị lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản trong báo cáo tài chính gần nhất, thì giao dịch đó sẽ không có giá trị pháp lý Một số trường hợp điển hình bao gồm Phó Giám đốc, Giám đốc chi nhánh, hay Trưởng các phòng ban ký kết hợp đồng mà không có sự ủy quyền hợp pháp từ người có thẩm quyền.

Có quan điểm cho rằng người không có quyền đại diện là những người thực hiện công việc nhân danh và vì lợi ích của người khác mà không có căn cứ xác lập quyền đại diện hoặc hành động vượt quá phạm vi đại diện Tuy nhiên, cần phân biệt giữa hai trường hợp này do sự khác biệt về khái niệm, bản chất và hệ quả pháp lý Cả Bộ luật Dân sự 2005 và 2015 đều quy định riêng cho hai trường hợp này.

Không có quyền đại diện có thể xảy ra khi chủ thể không đủ quyền để đại diện cho cá nhân hoặc pháp nhân, hoặc khi quyền đại diện đã chấm dứt theo quy định pháp luật Điều này có thể xảy ra trong quá trình thực hiện giao dịch, khi mà quyền đại diện đã không còn hiệu lực, bao gồm cả những trường hợp có quyền đại diện ở từng giai đoạn khác nhau trong một hành vi pháp lý đơn phương.

Để xác định xem một chủ thể có thuộc trường hợp “không có quyền đại diện” hay không, cần phải xem xét thẩm quyền đại diện của người đó ngay tại thời điểm giao kết và thực hiện giao dịch dân sự Việc này giúp làm rõ quyền hạn của chủ thể trong các giao dịch liên quan.

Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Lan Anh (2015) về đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền trong pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành, tác giả đã phân tích những vấn đề pháp lý liên quan đến quyền và nghĩa vụ của đại diện Luận văn này được thực hiện tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, và cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định và thực tiễn áp dụng trong lĩnh vực đại diện dân sự.

Nếu có đủ chứng cứ chứng minh rằng một người không có thẩm quyền đại diện, thì giao dịch dân sự do người đó thực hiện sẽ được coi là “giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền xác lập, thực hiện”.

Khi ủy quyền cho người khác thực hiện giao dịch tại các thời điểm khác nhau, cần xác định tính hợp pháp của người đại diện Để làm điều này, chúng ta phải xem xét cơ sở ủy quyền và thời điểm ký kết, nhằm đảm bảo rằng ủy quyền cho phép người đó đại diện hợp pháp trong giao dịch.

Như đã đề cập, trường hợp “không có quyền đại diện” có thể xem xét dưới nhiều khía cạnh

Cơ sở pháp lý có thể dẫn đến việc trao quyền đại diện cho một cá nhân mà không có giá trị pháp lý, như trường hợp giao dịch ủy quyền bị vô hiệu Trong một vụ việc, Tòa án đã nhận định rằng các đương sự đã thống nhất vào ngày 20/11/2018, bà N và ông

H ký hợp đồng ủy quyền cho ông Q đối với quyền sử dụng đất, có chứng thực Ông

Ông Q phải thực hiện công việc theo nội dung ủy quyền và cần trao đổi cụ thể với bà N khi giao dịch với người khác Có bằng chứng rõ ràng cho thấy hai bên chưa hoàn thành quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng ủy quyền, do đó, ông Q chưa có quyền đại diện để ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng đất và phải tự chịu trách nhiệm Hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất lập ngày 20/11/2018 được tuyên bố là vô hiệu.

52 Đỗ Văn Đại, tlđd (12), tr.341

53 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận điểm mới Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, phần 168, tr.189

Bản án số 34/2020/DS-PT ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương liên quan đến hợp đồng ủy quyền giữa bà N và ông H với ông Lê Văn Q vào ngày 20/11/2018 tại Cơ quan U xã L, huyện D Hợp đồng này cho phép ông Q thực hiện các quyền liên quan đến phần đất mà bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bao gồm thế chấp, cầm cố, cho thuê, chuyển nhượng và đăng ký biến động đất đai Hai bên đã thỏa thuận ông Q sẽ tìm người nhận chuyển nhượng trong vòng 10 ngày, nhưng đến tháng 3 năm 2019, việc này vẫn chưa được thực hiện Tòa án xác định rằng hợp đồng ủy quyền có chứng thực và quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.

Bên A (ông H) có trách nhiệm cung cấp bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chịu trách nhiệm cho hành vi của ông Q (bên B) trong phạm vi ủy quyền Bên B thực hiện công việc theo nội dung ủy quyền và bảo quản tài liệu được giao Tại phiên tòa, bà N, ông H và ông Q đều xác nhận rằng bà N giữ bản chính giấy chứng nhận và hợp đồng ủy quyền, và khi ông Q thực hiện giao dịch với người khác, sẽ trao đổi cụ thể với bà N Do đó, có bằng chứng rõ ràng cho thấy hai bên chưa hoàn thành quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng ủy quyền ngày 20/11/2018, dẫn đến việc ông Q không có quyền đại diện để ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng đất với ông H Hợp đồng đặt cọc giữa ông Q (đại diện cho bà N và ông H) ký với ông H ngày 22/11/2018 bị tuyên bố vô hiệu.

D, tỉnh Bình Dương chứng thực số 650 ngày 20/11/2018 bị vô hiệu

Ngoài ra, khái niệm “không có quyền đại diện” có thể xuất phát từ việc không tồn tại bất kỳ cơ sở pháp lý nào để trao quyền đại diện cho cá nhân đó, tức là một người không được ủy quyền hợp pháp để đại diện cho người khác.

Việc ký kết hợp đồng bốc xếp bởi Giám đốc chi nhánh Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng là hành động không đúng thẩm quyền và không có sự ủy quyền từ giám đốc công ty, theo quy chế và quy định của công ty Tòa án đã xác định rằng Giám đốc chi nhánh không được công ty ủy quyền và không có quy định nào cho phép họ đại diện cho pháp nhân Do đó, giao dịch này không có giá trị ràng buộc pháp lý đối với công ty, và Giám đốc chi nhánh phải tự chịu trách nhiệm cho hành động của mình.

Phân biệt trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện với trường hợp giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm

1.3.2.1 Vài vấn đề chung về trường hợp giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện

Trong thực tế, ngoài trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện, còn tồn tại tình trạng người đại diện thực hiện giao dịch vượt quá phạm vi được ủy quyền Để phân biệt giữa hai hành vi này, cần xem xét từ góc độ lý luận về khái niệm, bản chất và nội dung của từng trường hợp.

Trường hợp “vượt quá phạm vi đại diện” theo Điều 143 Bộ luật Dân sự (BLDS) không có định nghĩa cụ thể, nhưng có thể hiểu rằng đây là hành vi pháp lý của người đại diện thực hiện ngoài giới hạn được phép theo Điều 141 BLDS.

Vượt quá phạm vi đại diện có thể xảy ra khi hành động không nằm trong giới hạn ủy quyền, điều lệ của pháp nhân, quyết định của cơ quan có thẩm quyền, hoặc quy định của pháp luật.

Trong Công ty Cổ phần, Giám đốc là người đại diện theo pháp luật và điều hành công việc kinh doanh hàng ngày, chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị (HĐQT) Theo quy định tại Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp 2014, Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản ghi trong báo cáo tài chính gần nhất Nếu Giám đốc tự ý bán tài sản có giá trị 50% tổng giá trị tài sản mà không có sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông, điều này sẽ vi phạm quy định pháp luật và vượt quá thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật.

Vấn đề người đại diện vượt quá phạm vi đại diện được quy định rõ trong pháp luật của nhiều quốc gia Cụ thể, pháp luật dân sự Nhật Bản thừa nhận hành vi đại diện vượt quá thẩm quyền chỉ khi bên thứ ba có căn cứ hợp lý để tin rằng người đại diện hành động trong phạm vi ủy quyền Căn cứ hợp lý này được đánh giá dựa trên khả năng của một người bình thường và sự quan tâm đến giao dịch Trong khi đó, pháp luật Pháp áp dụng thuyết phê chuẩn và trách nhiệm của người đại diện không có thẩm quyền để xem xét việc chấp thuận hành vi không có quyền đại diện và đại diện vượt quá phạm vi.

Cụ thể hơn là vấn đề vượt quá phạm vi đại diện ủy quyền thì pháp luật Hoa

Kỳ chia người ủy quyền thành ba loại: (i) Người ủy quyền công khai, (ii) Người ủy quyền bán công khai, và (iii) Người ủy quyền không công khai Dù pháp luật ghi nhận phân loại này, nhưng khi xét về đại diện không có ủy quyền hoặc đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền, pháp luật Hoa Kỳ không phân biệt các trường hợp Hậu quả pháp lý chung của hành vi đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền là không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được ủy quyền.

1.3.2.2 Phân biệt hai trường hợp

Mặc dù có ý kiến pháp lý cho rằng việc phân biệt giữa hai hành vi xác lập giao dịch không có thẩm quyền và vượt quá thẩm quyền là không thuyết phục, vì bản chất của chúng tương tự nhau, tác giả vẫn nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự phân biệt nhất định giữa hai trường hợp này.

BLDS 2005 và BLDS 2015 đều quy định rõ ràng về hai trường hợp "không có quyền đại diện" và "vượt quá phạm vi đại diện" Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm pháp lý và quyền lợi của các bên liên quan trong các giao dịch dân sự.

58 Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng (1995), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr.161

59 Cambridge University (2009), The Unauthorised agent Perspectives from European and Comparative Law, Cambridge University Press, New York, USA, tr.44

60 Hồ Ngọc Hiển (2007), “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa

Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số

61 Trần Thị Quỳnh Châu, tlđd (43) chí của các nhà làm luật thể hiện quan điểm tách biệt hai trường hợp này trong quá trình lập pháp

Dưới góc độ lý luận, khái niệm không có quyền đại diện được hiểu là trường hợp một cá nhân thực hiện giao dịch với bên thứ ba mà không có quyền đại diện từ người được đại diện Trong tình huống này, mặc dù không có quyền để đại diện, nhưng cá nhân đó vẫn tiến hành giao dịch nhân danh người khác.

"Vượt quá phạm vi đại diện" là hành vi pháp lý mà người đại diện thực hiện ngoài giới hạn được phép theo Điều 141 BLDS Hành vi này mang tính chất của chế định đại diện, nghĩa là có cơ sở phát sinh quan hệ đại diện theo Điều 135, thông qua pháp luật hoặc ủy quyền Khi vấn đề này được đề cập, điều quan trọng là phải nhận thức rằng đã tồn tại một mối quan hệ pháp lý giữa người đại diện và người được đại diện, từ đó hình thành cơ sở cho việc phát sinh quan hệ đại diện.

Hành vi "không có quyền đại diện" chỉ ra rằng không tồn tại mối quan hệ đại diện nào Đặc điểm căn cứ đại diện là yếu tố cơ bản để phân biệt giữa hai trường hợp này Nếu không có căn cứ để phát sinh quan hệ đại diện, thì chủ thể thực hiện giao dịch sẽ được coi là người không có quyền đại diện Khi không có mối quan hệ đại diện, chúng ta không thể xác định phạm vi đại diện, từ đó không thể đánh giá liệu người đại diện có hành động vượt quá giới hạn cho phép hay không.

Khái niệm “không có quyền đại diện” đề cập đến việc một chủ thể có thể không có quyền đại diện cho cá nhân hoặc pháp nhân ngay từ đầu, hoặc quyền đại diện đã chấm dứt theo quy định pháp luật Điều này có thể xảy ra khi thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện mà chủ thể đó không còn quyền đại diện nữa Ngoài ra, quyền đại diện có thể chỉ tồn tại trong từng giai đoạn cụ thể, tức là có thể có quyền đại diện khi xác lập giao dịch hoặc khi thực hiện giao dịch, cũng như trong các giai đoạn của một hành vi pháp lý đơn phương nào đó.

Khái niệm "vượt quá phạm vi đại diện" đề cập đến việc người đại diện thực hiện hành động vượt quá quyền hạn cho phép, dẫn đến giao dịch không nằm trong giới hạn đại diện Để xác định rõ ràng phạm vi đại diện, cần dựa vào quy định tại Điều 141 và các quyết định liên quan.

Người đại diện hợp pháp có thể thực hiện các giao dịch theo quy định của pháp luật và điều lệ của pháp nhân, tuy nhiên, nếu họ thực hiện hành vi vượt quá giới hạn quyền hạn được ủy quyền, thường là trong các thỏa thuận giữa các bên, thì hành động đó sẽ được coi là “vượt quá phạm vi đại diện.”

Hậu quả pháp lý của hai trường hợp khác nhau, trong đó giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ.

Khái quát hệ quả của giao dịch do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện đối với người được đại diện

Không là phát sinh quyền và nghĩa vụ:

Theo quy định hiện hành của Bộ luật Dân sự, các giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện sẽ không tạo ra quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi của người được đại diện, đồng thời cần thiết phải loại trừ trách nhiệm của họ trong những giao dịch không hợp lệ Nếu không có bằng chứng cho thấy người được đại diện muốn tham gia vào giao dịch này, thì giao dịch đó sẽ không có giá trị ràng buộc.

Hệ quả pháp lý theo khoản 1 Điều 142 BLDS chỉ phát sinh khi người được đại diện phủ nhận giao dịch do người không có quyền đại diện thực hiện Nếu người được đại diện thể hiện ý chí và hành động phản đối giao dịch này, thì giao dịch sẽ không ràng buộc trách nhiệm đối với họ.

Quy định tại Điều 142 cũng được xem là phù hợp với hướng xử lý trong:

Công ước Giơnevơ về đại diện đã được áp dụng trong nhiều Bộ luật của các nước Châu Âu, bao gồm Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Hà Lan và Bồ Đào Nha.

Tòa án đã không công nhận giá trị của các giao dịch liên quan đến hợp đồng ủy quyền trái pháp luật giữa bà Chi và ông Minh Cụ thể, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà giữa ông Minh với ông Nhụ và giữa ông Nhụ với ông Thuận đều bị coi là vô hiệu Việc bà Chi tặng cho tài sản chung không tuân thủ đúng trình tự pháp luật, dẫn đến quyết định hủy toàn bộ hợp đồng ủy quyền của Tòa án là hoàn toàn hợp lý.

Phát sinh quyền và nghĩa vụ cho bên được đại diện:

Quy định tại Điều 142 được xem như khuôn phép về hệ quả pháp lý của giao dịch được tiến hành bởi người không có quyền đại diện

Áp dụng nguyên tắc đại diện một cách tuyệt đối có thể dẫn đến sự bất ổn trong giao dịch dân sự Điều này tạo ra sự dè chừng giữa các bên tham gia giao dịch.

Quan hệ đại diện có đặc thù phức tạp giữa bên được đại diện và bên đại diện, khiến người thứ ba khó khăn trong việc dự đoán và đánh giá rủi ro có thể xảy ra Sự xung đột quyền lợi trong mối quan hệ này có thể làm chậm trễ các giao dịch dân sự, từ đó kìm hãm sự phát triển chung.

Trong quá trình lập pháp, các nhà làm luật đã quy định rằng giao dịch do người không có quyền đại diện thực hiện vẫn có thể phát sinh quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện trong một số trường hợp nhất định Cụ thể, quyền và nghĩa vụ này phát sinh nếu người được đại diện đã công nhận giao dịch, biết về giao dịch mà không phản đối trong thời hạn hợp lý, hoặc có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết rằng người đã thực hiện giao dịch với mình không có quyền đại diện.

Việc đại diện là một mối quan hệ pháp lý giữa người đại diện và người được đại diện Pháp luật yêu cầu người đại diện phải cung cấp thông tin rõ ràng về nội dung và phạm vi đại diện cho bên thứ ba.

63 G Rouhette (chủ biên): Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, Sđd, tr.168

Quyết định số 03/2013/HNGĐ-GĐT ngày 10/1/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh rằng trước khi thực hiện giao dịch, bên thứ ba vẫn giữ vai trò tiếp nhận thụ động thông tin Sự trung thực của bên đại diện là yếu tố quyết định, vì nếu họ không cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ, điều này có thể gây nguy hiểm cho lợi ích của bên thứ ba.

Quy định này yêu cầu bên được đại diện phải chịu trách nhiệm về các hành vi thể hiện sự "chấp thuận" giao dịch do người không có quyền đại diện thực hiện Điều này nhằm loại bỏ khả năng trốn tránh nghĩa vụ, bảo vệ quyền lợi của bên đại diện và người thứ ba Khi có căn cứ xác định bên được đại diện, sự tự do ý chí trong việc công nhận hoặc không phản đối giao dịch sẽ được coi là sự chấp thuận cho giao dịch không có quyền đại diện.

Theo quy định pháp luật hiện hành, bài viết tập trung vào việc phân tích giao dịch dân sự, đặc biệt là khái niệm và bản chất của giao dịch do người không có quyền đại diện thực hiện Giao dịch này xảy ra khi một cá nhân tiến hành giao dịch với bên thứ ba mà không có cơ sở pháp lý để đại diện cho người được đại diện Việc hiểu rõ hệ quả của những giao dịch này là rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Trường hợp "không có quyền đại diện" có thể được hiểu qua ba khía cạnh chính Thứ nhất, nó xuất phát từ việc cơ sở pháp lý trao quyền đại diện không có giá trị, ví dụ như giao dịch ủy quyền bị vô hiệu Thứ hai, "không có quyền đại diện" có thể xảy ra khi không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào trao quyền cho người đại diện, dẫn đến việc một cá nhân tự ý thực hiện giao dịch nhân danh người khác Cuối cùng, có thể có trường hợp một cá nhân được trao quyền đại diện tại một thời điểm nhưng sau đó cơ sở pháp lý đó bị chấm dứt, khiến họ không còn quyền đại diện.

Tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt giữa hai hành vi "không có quyền đại diện" và "vượt quá phạm vi đại diện" Phân tích này dựa trên quy định pháp luật tại Điều

Điều 142 và 143 của Bộ luật Dân sự 2015 (tương ứng với Điều 145 và 146 của Bộ luật Dân sự 2005) đã được phân tách thành hai quy phạm rõ ràng Khái niệm, đặc điểm và hệ quả pháp lý của hai trường hợp này hoàn toàn khác biệt.

Nội dung bài viết tập trung vào hệ quả pháp lý của giao dịch do người không có quyền đại diện thực hiện, phân tích các tình huống mà giao dịch không phát sinh quyền và nghĩa vụ cho bên được đại diện, cũng như trách nhiệm của người được đại diện Tác giả cũng nghiên cứu và so sánh với pháp luật của một số quốc gia như Nhật Bản, Anh, Mỹ để đánh giá ưu, nhược điểm của các quy định trong Bộ luật Dân sự 2015.

GIAO DỊCH DÂN SỰ DO NGƯỜI KHÔNG CÓ QUYỀN ĐẠI DIỆN XÁC LẬP, THỰC HIỆN – THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:14

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
25. Bản án số: 34/2020/DS-PT Ngày 28-02-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản án số: 34/2020/DS-PT
Nhà XB: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
Năm: 2020
29. Quyết định số 33/2011/DS-GĐT ngày 20/01/2011 của Tòa dân sự Tòa nhân dân tối cao Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 33/2011/DS-GĐT
Nhà XB: Tòa dân sự Tòa nhân dân tối cao
Năm: 2011
33. Nguyễn Thị Lan Anh (2015), Đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền trong pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại diện không có ủy quyền và đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền trong pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành
Tác giả: Nguyễn Thị Lan Anh
Năm: 2015
34. Võ Hồng Thiên Ân (2018), Giao dịch do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện nhân danh người khác, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giao dịch do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện nhân danh người khác
Tác giả: Võ Hồng Thiên Ân
Năm: 2018
35. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật hợp đồng phần chung, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật hợp đồng phần chung
Tác giả: Ngô Huy Cương
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2013
36. Nguyễn Thị Phương Châm (2016), “Đại diện bề ngoài nhìn từ góc độ pháp luật dân sự Nhật Bản”, Tạp chí luật học, số 6/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại diện bề ngoài nhìn từ góc độ pháp luật dân sự Nhật Bản”, "Tạp chí luật học
Tác giả: Nguyễn Thị Phương Châm
Năm: 2016
37. Nguyễn Lê Dung (2019), Người đại diện theo pháp luật của công ty dưới góc dộ bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của bên thứ ba, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người đại diện theo pháp luật của công ty dưới góc dộ bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của bên thứ ba
Tác giả: Nguyễn Lê Dung
Nhà XB: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2019
38. Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, tập 1, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2017
39. Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận điểm mới Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận điểm mới Bộ luật dân sự năm 2015
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nxb. Hồng Đức
Năm: 2016
40. Đỗ Văn Đại, Lê Thị Hồng Vân (2015) “Hoàn thiện quy định về đại diện trong dự thảo BLDS sửa đổi”, Tạp chí kiểm sát, số 22/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện quy định về đại diện trong dự thảo BLDS sửa đổi”, "Tạp chí kiểm sát
41. Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng (1995), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản
Tác giả: Nguyễn Đức Giao, Lưu Tiến Dũng
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội
Năm: 1995
42. Hồ Ngọc Hiển (2007), “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam
Tác giả: Hồ Ngọc Hiển
Nhà XB: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
Năm: 2007
43. Trần Thị Huệ (2015), “Kiến nghị hoàn thiện các quy định về giao dịch dân sự trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến nghị hoàn thiện các quy định về giao dịch dân sự trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Trần Thị Huệ
Năm: 2015
44. Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005 (Tập I), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005 (Tập I)
Tác giả: Hoàng Thế Liên
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia
Năm: 2008
45. Tưởng Duy Lượng (2017), Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử
Tác giả: Tưởng Duy Lượng
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia sự thật
Năm: 2017
46. Nguyễn Văn Nam (2011), “Lý luận về án lệ ở một số nước theo truyền thống pháp luật Civil Law”, Tạp chí nhà nước và Pháp luật, số 3 (375) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận về án lệ ở một số nước theo truyền thống pháp luật Civil Law
Tác giả: Nguyễn Văn Nam
Nhà XB: Tạp chí nhà nước và Pháp luật
Năm: 2011
70. Law No. 7850 of July 29, 1994 on the Civil Code of The Republic of Albania, http://www.wipo.int/wipolex/en/details.jsp?id=10451 Link
71. The Civil CoDe Japan, (Act No. 89 of April 27, 1986), http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?id=2057&vm=2&re=02 Link
72. The Civil Code of the Republic of Lithuania. July 18, 2000, http://www.wipo. int/wipolex/en/details.jsp?id=8191 Link
74. Unidroit Principles on International Commercial Contracts 2010, https://www.unidroit.org/index.php Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w