Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù quy định pháp luật về hoạt động giải thích của toà án còn hạn chế, nhưng vấn đề này đã thu hút sự chú ý đáng kể từ các chuyên gia trong và ngoài nước Nhiều công trình nghiên cứu về giải thích pháp luật tại Việt Nam đã được thực hiện, phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng đối với lĩnh vực này.
- Sách chuyên khảo “ Một số vấn đề về giải thích pháp luật chính thức ở
Việt Nam hiện nay” (2014), nhà xuất bản Chính trị quốc gia của tác giả Phạm Thị
Duyên Thảo nghiên cứu thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam dựa trên tài liệu từ nhiều quốc gia Tác giả phân tích hoạt động giải thích pháp luật của các chủ thể như cơ quan lập pháp, hành pháp và toà án, từ đó đưa ra đánh giá và kiến nghị cụ thể Cuốn sách “Giải thích pháp luật - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2009) do Văn phòng Quốc Hội Việt Nam chủ biên, là tập hợp các bài viết từ Hội thảo khoa học quốc tế về giải thích pháp luật diễn ra vào ngày 21-22/2/2008, phản ánh ý kiến của các chuyên gia pháp luật trong và ngoài nước về lý luận và thực tiễn giải thích pháp luật tại Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thế Cường (2009) về "Giải thích pháp luật ở Việt Nam và Anh" trong chuyên ngành luật Quốc tế so sánh, phân tích hoạt động giải thích pháp luật tại Việt Nam qua lăng kính so sánh với Anh Đồng thời, khoá luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Phương Loan (2008) nêu bật vai trò của giải thích pháp luật của Toà án trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhấn mạnh các đặc điểm của nhà nước pháp quyền và mối quan hệ với hoạt động giải thích pháp luật.
Bài viết "Giải thích pháp luật của Toà án trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và dân sự" (2009) của Đỗ Thị Thu Nha phân tích thực tiễn giải thích pháp luật của toà án trong các giai đoạn xét xử, từ việc thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên toà Tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc giải thích pháp luật trong việc đảm bảo tính chính xác và công bằng của quá trình xét xử.
Bài báo khoa học đáng chú ý về thẩm quyền giải thích pháp luật bao gồm tác phẩm của Huỳnh Thị Sinh Hiền, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo giải thích pháp luật, Khoa luật Đại học Cần Thơ; Hoàng Văn Tú với bài viết “Giải thích pháp luật - Một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn giải thích pháp luật ở Việt Nam” trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Thị Ánh Vân với “Bài học kinh nghiệm từ giải thích pháp luật thành văn của Cộng hòa Liên bang Đức” đăng trên Tạp chí luật học số 6/2012; và Võ Trí Hảo với “Vai trò giải thích pháp luật của Tòa án” trên Tạp chí Khoa học pháp lý.
Trong nước, các hội thảo cấp khoa tại các trường đại học đã thảo luận về nhiều khía cạnh của hoạt động giải thích pháp luật Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về giải thích pháp luật của toà án, chưa đề cập một cách toàn diện đến các vấn đề lý luận và thực tiễn như khái niệm, sự cần thiết, đối tượng, phương pháp, chủ thể và thẩm quyền giải thích pháp luật của toà án Vì vậy, đề tài này mang tính mới mẻ và cần thiết trong nghiên cứu về giải thích pháp luật của toà án tại Việt Nam hiện nay.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ này, tác giả nghiên cứu trong phạm vi sau:
Tác giả tập trung phân tích những vấn đề lý luận quan trọng mà theo quan điểm của mình, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của sản phẩm giải thích pháp luật.
Bài viết chỉ tập trung vào thực tiễn giải thích pháp luật của tòa án, không đề cập đến hoạt động giải thích pháp luật của các chủ thể khác tại Việt Nam.
Bài viết này tập trung vào việc phân tích kinh nghiệm giải thích pháp luật từ một số quốc gia tiêu biểu, bao gồm Đức, Úc và Trung Quốc, đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới.
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử nhằm làm rõ các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
Tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm phân tích, tổng hợp, so sánh và liệt kê để đạt được kết quả nghiên cứu cụ thể.
Phương pháp diễn giải được áp dụng trong cả hai chương nhằm làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến giải thích pháp luật, bao gồm sự cần thiết và mục đích của việc này Bài viết cũng phân tích ưu và nhược điểm của các mô hình chủ thể giải thích pháp luật khác nhau, đồng thời nhấn mạnh lý do nên trao quyền giải thích pháp luật cho tòa án Cuối cùng, các kiến nghị về hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam cũng được đề cập để cải thiện hiệu quả thực thi pháp luật.
Phương pháp quy nạp được sử dụng chủ yếu để đưa ra tiểu kết cho mỗi chương và kết luận chung cho cả 2 chương
Phương pháp phân tích được áp dụng trong cả hai chương nhằm làm sáng tỏ những quan điểm đa dạng về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc giải thích pháp luật Qua đó, tác giả rút ra những kết luận chung, phản ánh quan điểm của mình.
Phương pháp liệt kê được áp dụng trong chương 1 để làm rõ sự khác biệt theo chiều dọc trong lịch sử các quy định pháp luật Việt Nam về giải thích pháp luật Trong chương 2, phương pháp này được sử dụng để phân tích thực tiễn cơ sở pháp lý liên quan đến việc giải thích pháp luật tại các tòa án ở Việt Nam.
Phương pháp so sánh được sử dụng để phân tích quy định giải thích pháp luật ở các quốc gia tiêu biểu trong các hệ thống pháp luật toàn cầu Qua đó, bài viết chỉ ra những điểm khác biệt trong cách thức giải thích pháp luật và nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này.
Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về giải thích pháp luật của toà án;
Chương 2: Thực tiễn giải thích pháp luật của toà án ở Việt Nam hiện nay - kiến nghị giải pháp hoàn thiện.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT CỦA TOÀ ÁN
Khái niệm, phân loại, chủ thể và nguyên tắc giải thích pháp luật
1.1.1.1 Khái niệm giải thích pháp luật
Giải thích pháp luật (GTPL) tại Việt Nam hiện chưa có khái niệm thống nhất, do liên quan đến nhiều vấn đề cần làm rõ, như khái niệm pháp luật và hình thức pháp luật cần giải thích Câu hỏi "pháp luật là gì?" vẫn tồn tại nhiều lý thuyết khác nhau, từ pháp luật tự nhiên đến pháp luật thực định Ngoài ra, từ góc độ chủ thể ban hành, có sự phân biệt giữa pháp luật do nhà nước ban hành và pháp luật không do nhà nước ban hành Sự khác biệt trong cách tiếp cận khái niệm pháp luật dẫn đến sự đa dạng trong định nghĩa GTPL.
Thuật ngữ "giải thích pháp luật" (statutory interpretation) đã có từ thời cổ đại, với Platon, một trong ba nhà hiền triết nổi tiếng của Hy Lạp, nhấn mạnh rằng mục tiêu của GTPL là làm rõ tinh thần của pháp luật thay vì chỉ đơn thuần là nghĩa đen của từ ngữ Ngược lại, Voltaire cho rằng GTPL nhằm hạn chế sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật.
Trên toàn cầu, các học giả pháp lý đã tiếp cận khái niệm Giới thiệu Tư pháp Luật (GTPL) từ nhiều khía cạnh khác nhau, dẫn đến việc đưa ra nhiều định nghĩa đa dạng về GTPL.
GTPL là quá trình xác định thông điệp quy phạm từ văn bản, đồng thời là hoạt động có lý trí nhằm mang lại ngữ nghĩa rõ ràng và chính xác.
John L Murray, President of the Supreme Court and Chief Justice of Ireland, discusses the Comparative Law Method in his work featured in the proceedings of the conference celebrating the fiftieth anniversary of the Treaties of Rome, highlighting its significance in legal interpretation.
2 Phạm Thị Duyên Thảo (2014), Một số vấn đề về GTPL chính thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, tr.7
Theo K.Larenz (1983), trong tác phẩm "The method of recidivism", việc giải thích pháp luật (GTPL) có mục đích tìm ra nghĩa hoặc thông điệp của văn bản pháp lý Những quan điểm này nhấn mạnh rằng GTPL không chỉ đơn thuần là một hoạt động, mà còn là một quá trình trí tuệ nhằm làm rõ các thông điệp quy tắc được thể hiện qua ngôn ngữ diễn đạt.
Giải thích pháp luật (GTPL) được hiểu là hoạt động tìm ra nghĩa và mục đích của tác giả văn bản pháp luật, nhấn mạnh việc đảm bảo ý định ban đầu của nhà lập pháp Thuật ngữ “giải thích pháp luật” lần đầu xuất hiện trong Hiến pháp năm 1959, quy định rằng Uỷ ban thường vụ quốc hội có thẩm quyền GTPL, mặc dù không chỉ rõ phạm vi áp dụng Hiến pháp năm 1980 đã làm rõ hơn về thẩm quyền GTPL, giao cho Hội đồng Nhà nước quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
Hiến pháp năm 1992 đã khôi phục thuật ngữ "Ủy ban thường vụ Quốc hội" và quy định thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh Mặc dù Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH10 đã sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhưng nội dung về thẩm quyền giải thích vẫn được giữ nguyên Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa quy định này, khẳng định vai trò của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc giải thích các văn bản pháp lý Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 cũng quy định rõ ràng rằng Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền ban hành nghị quyết để làm rõ tinh thần và nội dung các điều khoản, nhằm đảm bảo việc thực hiện và áp dụng pháp luật đúng đắn và thống nhất Tuy nhiên, việc giải thích này chỉ được giới hạn trong một số phạm vi nhất định.
4 Aharon Barak(2005), Purposive Interpretation in Law, Princeton University Press, tr.3
5 F.V Hawkins (1860), On the Principles of legal Interpretation, Reprinted in Thayer, Preliminary Theatise in Evidence, tr.298
6 Phạm Thị Duyên Thảo, TLĐD số 2, tr.8
Theo Khoản 2 Điều 74 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm Hiến pháp, luật, và pháp lệnh Đối tượng có thẩm quyền giải thích các văn bản này được xác định là Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Theo lịch sử lập hiến Việt Nam, thuật ngữ GTPL đã xuất hiện từ lâu, nhưng hiện tại vẫn chưa có quy định nào trong các văn bản pháp luật giải thích hay định nghĩa rõ ràng về GTPL Điều này dẫn đến việc chưa thể xây dựng một hệ thống lý luận hoàn chỉnh liên quan đến phạm vi, nội dung và chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động GTPL.
Các học giả trong nước đã tiếp cận khái niệm GTPL từ nhiều góc độ khác nhau, dẫn đến việc đưa ra những định nghĩa đa dạng Một số quan điểm cho rằng GTPL là một quá trình hoặc hoạt động cụ thể, thể hiện sự phong phú trong cách hiểu về khái niệm này.
Xác định nội dung và phạm vi áp dụng của văn bản pháp luật là một yếu tố quan trọng trong việc hiểu rõ quy định pháp lý Theo quan điểm này, việc giải thích pháp luật không chỉ dừng lại ở việc làm rõ nội dung mà còn bao gồm việc giải quyết xung đột giữa các quy định trong cùng một văn bản hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau Giải quyết những xung đột này không chỉ đơn thuần là làm rõ nghĩa một quy định, mà còn là tìm kiếm ý nghĩa cho toàn bộ hệ thống pháp luật.
Theo quan điểm của tác giả, giải thích pháp luật (GTPL) là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm làm rõ nội dung của một quy phạm pháp luật cụ thể, giúp người áp dụng pháp luật, bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân, hiểu rõ cách quy phạm đó điều chỉnh các hành vi hay vụ việc cụ thể Quy phạm pháp luật có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như tiền lệ pháp, tập quán pháp và văn bản quy phạm pháp luật Đối tượng của GTPL chủ yếu là các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành, khác với hoạt động giải thích hiến pháp hay giải thích quy định hành chính, vì những hoạt động này có đặc điểm và quy trình thực hiện riêng.
8 Nguyễn Văn Thuận (1999), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH”, Mã số 94-98- 106/ĐT, Hà Nội, tr.15
9 Huỳnh Thị Sinh Hiền, “Thẩm quyền GTPL”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa luật Đại học Cần Thơ, T6/2018, tr.15
10 Tô Văn Hòa, (2008), “Một số vấn đề lý luận về GTPL”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về GTPL, Nxb Hồng Đức, tr 40
Pháp luật Việt Nam, với truyền thống pháp luật thành văn, được định nghĩa là các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu các quy phạm pháp luật dưới hình thức tiền lệ pháp hay tập quán pháp có cần giải thích pháp luật (GTPL) hay không Vấn đề này đang gây ra những quan điểm khác nhau trong giới chuyên gia.
GTPL là quá trình làm rõ tinh thần, nội dung, phạm vi, ý nghĩa và mục đích của các quy định pháp luật, giúp người dân hiểu và thực thi các quy định một cách chính xác và thống nhất Ở Việt Nam, GTPL chủ yếu đề cập đến việc giải thích các văn bản quy phạm pháp luật, trong khi không có sự tồn tại của giải thích tập quán pháp và tiền lệ pháp.
Thẩm quyền giải thích pháp luật của toà án
Dựa trên các phân tích và so sánh với các quốc gia khác về hoạt động giải quyết tranh chấp pháp lý, tác giả cho rằng việc giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp pháp lý cho toà án sẽ thuyết phục hơn so với các chủ thể khác, vì nhiều lý do quan trọng.
Pháp luật không thể bao quát mọi chi tiết trong các mối quan hệ xã hội, dẫn đến những lỗ hổng có thể gây ra tranh chấp và xung đột Một trong những phương thức để giải quyết những vấn đề này là thông qua hệ thống Tòa án.
51 Mátyás Bódig, Legal Interpretation, Intentionalism, and the Authority of Law, tr.133 – 137
52 Vũ Văn Mẫu, Dân luật khái luận, Nxb Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1961, tr.319
53 Hoàng Văn Tú, “Giải thích pháp luật, Một vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn Việt Nam”, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/10/12/1821/ (truy cập ngày 10/05/2018)
Luật pháp không quan tâm đến những điều tầm thường, mà thông qua hoạt động xét xử, tòa án thực hiện việc phân xử đúng sai, bảo vệ công lý và quyền con người, quyền công dân Đồng thời, tòa án cũng bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân Điều này cho thấy hoạt động xét xử gắn liền với hoạt động của pháp luật Chính vì vậy, Ciecero đã nhấn mạnh rằng "đạo luật là một quan tòa câm, quan tòa là một đạo luật biết nói".
Theo Hiến pháp năm 2013, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh, trong khi việc giải thích các văn bản pháp luật khác chủ yếu thuộc về tòa án, vì tòa án có ít nguy cơ lạm quyền hơn so với các cơ quan lập pháp và hành pháp Thực tế cho thấy, tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích pháp luật, với các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thường làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của các quy phạm pháp luật Với vai trò là trọng tài, tòa án đảm bảo việc giải thích pháp luật diễn ra một cách công bằng và hợp lý.
Tòa án, với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, có quyền ban hành phán quyết về các vi phạm pháp luật và tranh chấp pháp lý trong xã hội Tòa án giải quyết đa dạng các loại tranh chấp, bao gồm hành chính, dân sự, kinh tế, thương mại và lao động Mặc dù có thể giải quyết tranh chấp qua thủ tục hành chính hoặc trọng tài, nhưng quy trình tố tụng tại tòa án vẫn được coi là có tính pháp lý mạnh mẽ nhất Tòa án có quyền xem xét và đưa ra kết luận trái ngược với quyết định giải quyết khiếu nại hoặc hủy phán quyết trọng tài, cho thấy tầm quan trọng của việc trao quyền giải quyết tranh chấp cho tòa án nhằm đảm bảo tính tối cao trong hoạt động xét xử.
Để giải thích các điều luật một cách chính xác, cần có sự trăn trở và suy tư về từng điều luật trong bối cảnh cụ thể Việc giải thích pháp luật (GTPL) phải gắn liền với các vụ việc và sự kiện pháp lý nhất định Chỉ có tòa án, với nguyên tắc nghĩa vụ xét xử của thẩm phán, mới có khả năng và trách nhiệm giải thích các điều luật này.
55 Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013
56 Cao Vũ Minh (2009), “Vai trò GTPL của Tòa án Hiến pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24
57 Võ Trí Hảo (2003), “Vai trò GTPL của Tòa án”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3
Theo Bùi Xuân Hải (2015), nhu cầu giải thích pháp luật (GTPL) thường phát sinh từ các vụ việc cụ thể và gắn liền với việc giải quyết tranh chấp Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này, và nếu không có vụ việc thực tế, GTPL trở nên không cần thiết Chỉ khi có vụ việc xảy ra, nhu cầu GTPL mới trở nên cấp bách Khi tranh chấp được đưa ra tòa, cả hai bên đều có động cơ rõ ràng để theo đuổi vụ việc đến cùng Do đó, tòa án cần áp dụng pháp luật một cách cẩn trọng và công minh để đạt được sự thật cuối cùng, điều này đồng nghĩa với việc tòa án phải thực hiện GTPL.
Jean Jacques Rousseau nhấn mạnh rằng cơ quan tư pháp không nên có quyền lập pháp hay hành pháp, nhưng chính điều này lại làm cho nó trở thành cơ quan quyền lực cao nhất, vì nó có khả năng ngăn chặn mọi hành vi sai trái mà không cần can thiệp trực tiếp Ông cũng cho rằng một cơ quan tư pháp được điều hòa thông minh sẽ là nền tảng vững chắc cho một thể chế tốt Tòa án, với vai trò là cơ quan tư pháp, mang lại sự tin tưởng lớn lao từ phía nhà nước và nhân dân Mặc dù pháp luật và công lý là hai khái niệm khác nhau, nhưng trong một nhà nước pháp quyền, pháp luật cần phải tiệm cận công lý, nghĩa là phải được ban hành và áp dụng dựa trên đạo lý và lương tri Người dân tìm kiếm công bằng thường hướng về tòa án, cho thấy niềm tin vô hạn vào tòa án là điều kiện cần thiết để cơ quan này thực hiện vai trò bảo vệ pháp luật.
59 Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao (2012), “Tư pháp độc lập: một số vấn đề lý luận và thực tiễn (kỳ 2)”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21
60 Jean Jacques Rousseau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Thanh Đạm dịch, Nxb Tp Hồ Chí Minh, tr.17
61 Jean Jacques Rousseau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Thanh Đạm dịch, Nxb Tp Hồ Chí Minh, tr.175
62 Phạm Thị Duyên Thảo (2012), “Sửa đổi Hiến pháp năm 1992: nên trao quyền GTPL cho Tòa án”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8
Bài viết của Cao Vũ Minh đề cập đến niềm tin, bốn triển vọng và năm thách thức trong quá trình thừa nhận quyền Giải thích pháp luật (GTPL) của toà án Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định rõ ràng quyền GTPL trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời phân tích những cơ hội và rào cản mà toà án phải đối mặt trong việc thực hiện quyền này Kỷ yếu Hội thảo Giải thích pháp luật do Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh tổ chức đã tạo ra diễn đàn quan trọng để thảo luận về các vấn đề pháp lý hiện tại.
Giải thích pháp luật của toà án ở một số nước trên thế giới
GTPL là một vấn đề quan trọng đối với mọi quốc gia và hệ thống pháp luật, vì không có hệ thống nào hoàn hảo mà không cần giải thích Thực tế cho thấy, các quốc gia với hệ thống pháp luật và định hướng chính trị khác nhau có những quan điểm khác nhau về GTPL Sự khác biệt này chủ yếu thể hiện qua hai yếu tố: chủ thể và phương pháp áp dụng GTPL Để minh chứng cho quan điểm này, tác giả sẽ phân tích một số quốc gia tiêu biểu với các hệ thống pháp luật khác nhau, bao gồm Đức, Úc và Trung Quốc.
1.3.1 Giải thích pháp luật ở Đức Đức là một nước theo hệ thống dân luật, cụm từ “giải thích pháp luật thành văn” ở nước này có thể được hiểu là sự giảng giải của thẩm phán về ngữ nghĩa của thuật ngữ, cụm từ hình thành nên quy phạm pháp luật, chứa đựng trong văn bản pháp luật do nghị viện và cơ quan quản lý nhà nước ban hành Ở Đức, cơ quan có thẩm quyền GTPL thành văn được trao cho toà án, mặc dù không có văn bản pháp luật nào của Đức quy định rõ toà án có thẩm quyền này Tuy nhiên, nền tảng pháp lý cho thẩm quyền GTPL thành văn của toà án cũng như những chỉ dẫn quan trọng trong GTPL thành văn đã được toà án hiến pháp liên bang xác nhận khi tuyên bố “Trong giải thích và áp dụng pháp luật, đặc biệt đối với những điều khoản chung, toà án phải xem xét đến những chuẩn mực có giá trị của luật cơ bản” 64 Mặc dù ở Đức, toà án hiến pháp Liên bang không phải là cấp xét xử cuối cùng trong hệ thống toà án giống như toà án tối cao của Mỹ nhưng hiến pháp cộng hoà liên bang Đức đã tạo cơ sở pháp lý để toà án hiến pháp liên bang có thể xem xét tính hợp hiến đối với hành vi của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở cả cấp liên bang và cấp bang Vì vậy toà án liên bang có thể kiểm tra tính hợp hiến của tất cả các bản án đã tuyên của các cấp toà trong hệ thống toà án Đức và vô hình chung, theo hiến pháp liên bang, toà án này đã trở thành cấp xét xử cuối cùng và là toà cao nhất, quyền lực nhất trong hệ thống toà án Đức
64 D Neil MacComrick & Robert S Summers (1991), Interpreting Statutes: A Comparative Study, Dartmouth Publising Company, tr.113
Toà án hiến pháp liên bang chỉ có thẩm quyền xem xét các phán quyết gây tranh cãi từ toà án cấp dưới, nhằm xác định xem liệu các phán quyết này có dựa trên nhận thức sai lệch về quyền cơ bản của con người trong hiến pháp hay không, cũng như kiểm tra xem cách giải thích luật của toà án cấp dưới có vi phạm các quyền hiến định hay không.
Các toà án Đức có quyền giải thích pháp luật thành văn trong quá trình xét xử, tuy nhiên, giá trị hiệu lực của các giải thích này có thể phụ thuộc vào sự công nhận của toà án liên bang trong một số trường hợp.
Ở Đức, hiện nay không có quy định cụ thể nào về phương pháp giải thích pháp luật (GTPL), và các quy định thành văn chủ yếu chỉ xuất hiện trong các văn bản pháp luật cổ từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX GTPL ở Đức chịu ảnh hưởng lớn từ hiến pháp, mặc dù hiến pháp không quy định rõ ràng các quy tắc GTPL thành văn Tuy nhiên, hiến pháp chứa đựng các nguyên tắc ràng buộc cho hoạt động này, với giá trị tối thượng, nghĩa là mọi văn bản pháp luật phải tuân thủ hiến pháp Do đó, việc giải thích và áp dụng pháp luật trong xét xử cũng cần đảm bảo tính hợp hiến.
Một số phương pháp GTPL thành văn ở Đức:
Phương pháp giải thích theo nghĩa đen (GTPL) là cách giải thích không trái với ngữ nghĩa và cấu trúc ngữ pháp của các quy định pháp luật Quy tắc này được áp dụng khi thuật ngữ trong điều khoản có định nghĩa pháp lý rõ ràng Tòa án không được phép giải thích trái nghĩa đen, nhưng có thể mở rộng giải thích trong bối cảnh toàn bộ đạo luật Việc áp dụng cả hai quy tắc, GTPL và giải thích theo hệ thống, là cần thiết để đảm bảo tính hợp lý và chính xác trong việc hiểu luật.
Phương pháp giải thích theo lịch sử lập pháp yêu cầu người giải thích tìm kiếm ý nghĩa của quy định pháp luật từ nguồn gốc của nó, dựa vào lịch sử soạn thảo văn bản Cách giải thích này cần tham khảo các bản dự thảo luật và biên bản thảo luận của nghị viện khi thông qua luật, cùng với các phát triển và sửa đổi sau đó Đây là phương pháp phổ biến ở Đức và các nước theo hệ thống dân luật Theo quy tắc này, người giải thích đóng vai trò như một "nhà khảo cổ", tìm hiểu ý chí của các chủ thể trong quá trình thảo luận dự luật Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này, tòa án cần xem xét cả dự định chủ quan của nhà lập pháp và nội dung khách quan của quy định trong hoàn cảnh áp dụng Đặc biệt, đối với các quy phạm pháp luật đã ban hành từ lâu, dự định lập pháp có thể bị bỏ qua để ưu tiên cho nghĩa khách quan hiện tại của thuật ngữ hoặc quy phạm cần giải thích.
Phương pháp giải thích hệ thống yêu cầu thẩm phán xem xét quy phạm pháp luật trong mối quan hệ với các quy phạm khác nhằm đảm bảo tính nhất quán của hệ thống pháp luật Khi quy định pháp luật rõ ràng nhưng dẫn đến kết quả vô lý, tòa án sẽ không chấp nhận giải thích theo nghĩa đen Do đó, trong quá trình giải thích, cần chú ý đến nghĩa của thuật ngữ trong toàn bộ văn bản để đảm bảo sự hài hòa Việc này không chỉ áp dụng trong một đạo luật mà còn thông qua nghiên cứu so sánh giữa các đạo luật và hệ thống pháp luật khác nhau, không chỉ riêng ở Đức mà còn ở các quốc gia như Anh và Mỹ.
Phương pháp GTPL theo mục đích ban hành quy phạm tập trung vào mục tiêu của quy định pháp luật cần giải thích, bao gồm mục đích khách quan và chủ quan Mục đích khách quan liên quan đến chức năng xã hội và mục tiêu hợp lý của quy phạm, trong khi mục đích chủ quan xem xét dự định của nhà làm luật Cách giải thích theo nghĩa khách quan thường có trọng số hơn so với dự định ban đầu của nhà làm luật, cho phép tòa án Đức giải quyết nhu cầu thực tiễn trong bối cảnh kinh tế - xã hội thay đổi nhanh chóng Quy tắc này chỉ được áp dụng khi có lỗ hổng trong quy định pháp luật, nhà làm luật không cố ý tạo ra lỗ hổng, và có sự tương đồng giữa tình huống cần giải quyết và quy phạm định áp dụng.
1.3.2 Giải thích pháp luật ở Úc
GTPL tại Úc là quy trình do thẩm phán thực hiện nhằm làm rõ nghĩa của từ ngữ hoặc quy định trong luật khi giải quyết một vụ việc cụ thể Pháp luật Úc đã dự liệu nhiều giả định thực tiễn và cung cấp các phương pháp hiệu quả để giải quyết những khó khăn trong việc hiểu các quy định của luật thành văn.
Hiến pháp Úc không cấp quyền giải quyết tranh chấp pháp lý (GTPL) trực tiếp cho các tòa án, ngoại trừ quyền giải thích hiến pháp dành cho Tòa án tối cao Tất cả các tài liệu đều khẳng định rằng các luật điều chỉnh GTPL là nhằm quản lý hoạt động của tòa án, vì GTPL không thể tách rời khỏi việc áp dụng pháp luật Đặc biệt, trong trường hợp có sự khác biệt về cách hiểu luật hoặc hiến pháp, thẩm phán cần nỗ lực để chứng minh cho việc đưa ra kết quả khác biệt so với đồng nghiệp của mình.
Tất cả các nghị viện của các bang, vùng lãnh thổ và nghị viện liên bang đã sớm ban hành luật điều chỉnh hoạt động GTPL Nguyên tắc áp dụng là khi giải thích luật của một bang, sẽ sử dụng luật giải thích của bang đó, trong khi đối với luật liên bang, luật giải thích của liên bang sẽ được áp dụng.
Nội dung quy định trong các luật GTPL của Úc chủ yếu kế thừa các quy tắc giải thích của thông luật, nhưng vẫn xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản riêng.
65 Nguyễn Thị Ánh Vân (2012), “Bài học kinh nghiệm từ giải thích pháp luật thành văn của cộng hòa liên bang Đức”, Tạp chí luật học số 6
66 Huỳnh Thị Sinh Hiền (2014), “Giải thích pháp luật ở Úc và nhu cầu hoá hoạt động giải thích pháp luật ở
Việt nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 04 (260) tháng 2
Theo Kirby Michae (2011), trong bài viết "Statutory Inter: The meaning of meaning" trên Uni Law Review, việc hiểu ý nghĩa của luật thành văn thường đòi hỏi phải xem xét mục đích của nó Các quy định pháp lý cho phép thẩm phán diễn giải vượt ra ngoài nội dung được trình bày, dựa trên mục tiêu mà văn bản luật hướng tới.
Toà án Úc áp dụng quy tắc tiếp cận câu chữ như một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động giải thích pháp luật Khi bắt đầu giải thích văn bản pháp luật, thẩm phán cần dựa vào ngữ nghĩa của từ và cấu trúc câu Nếu nghĩa của từ đã rõ ràng, thẩm phán sẽ áp dụng theo nghĩa đó.