TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH THƯƠNG MẠI VÀ CHỨNG THƯ GIÁM ĐỊNH
Tổng quan về hoạt động giám định thương mại
1.1.1 Khái niệm giám định thương mại
Trong giao dịch mua bán hàng hóa, Điều 35 của Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) yêu cầu người bán phải giao hàng đúng số lượng, chất lượng và mô tả như trong hợp đồng Tương tự, Điều 34 LTM 2005 cũng quy định bên bán phải tuân thủ các thỏa thuận về số lượng, chất lượng và cách thức đóng gói Việc xác định các đặc điểm này không hề đơn giản và cần có chuyên môn cũng như phương tiện kỹ thuật phù hợp Để giảm thiểu chi phí và tránh tranh chấp, bên mua thường thuê bên thứ ba độc lập có chuyên môn để kiểm tra hàng hóa Sự độc lập của bên thứ ba đảm bảo tính khách quan trong quá trình kiểm tra, và kết luận của họ được coi là cơ sở để bên mua nhận hàng hoặc bên bán nhận thanh toán Yêu cầu tương tự cũng áp dụng trong cung cấp dịch vụ và quản lý thương mại của cơ quan nhà nước, trong đó bên thứ ba thực hiện kiểm tra sự phù hợp của hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng, được gọi là dịch vụ giám định thương mại.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định nhiều loại hoạt động giám định, phân chia dựa trên chủ thể thực hiện và mục đích của giám định Mỗi hình thức giám định đều có yêu cầu và điều kiện riêng theo các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, như giám định thương mại, giám định sở hữu trí tuệ và giám định tư pháp Trong đó, giám định thương mại là dịch vụ giám định đặc thù được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại, có bản chất “tư”, khác biệt với tính chất “công” của giám định tư pháp và giám định sở hữu trí tuệ.
Về khái niệm giám định, theo Giáo trình Luật thương mại của Đại học Luật
Hà Nội, giám định được định nghĩa như sau:
Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2017) đã xuất bản Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, do Nhà xuất bản Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam phát hành, với nội dung chi tiết ở trang 253.
Giám định là quá trình mà cơ quan chuyên môn có thẩm quyền xem xét và kết luận về tình trạng thực tế của sự vật hoặc hiện tượng theo yêu cầu của tổ chức hoặc cá nhân liên quan Mỗi hoạt động giám định được xác định bởi yêu cầu giám định, nội dung giám định, cơ quan thực hiện giám định và mục đích sử dụng kết quả giám định.
Theo giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội, giám định được định nghĩa là quá trình “xem xét và kết luận” về một “sự vật hay hiện tượng” Tuy nhiên, định nghĩa này chỉ nhấn mạnh đến “cơ quan chuyên môn” là chủ thể thực hiện giám định, điều này có thể gây hiểu lầm rằng chỉ tổ chức mới có thể thực hiện hoạt động giám định, trong khi thực tế, cả tổ chức và cá nhân đều có khả năng tiến hành giám định.
Giám định, theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO/IEC 17020:2012, được định nghĩa là việc kiểm tra sản phẩm, quá trình, dịch vụ, lắp đặt hoặc thiết kế để xác định sự phù hợp với các yêu cầu cụ thể hoặc yêu cầu chung thông qua đánh giá chuyên nghiệp Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học, "kiểm tra" có nghĩa là xem xét tình trạng thực tế để đánh giá và nhận xét Khái niệm giám định này tương đồng với định nghĩa trong Giáo trình Đại học Luật Hà Nội, nhưng tập trung vào việc đánh giá sự phù hợp của các đối tượng cụ thể.
“sự vật, hiện tượng” thì đối tượng giám định ở đây được định nghĩa cụ thể hơn là
Tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17020:2012 quy định các yêu cầu chung cho tổ chức cung cấp dịch vụ giám định, liên quan đến sản phẩm, quá trình, dịch vụ, lắp đặt và thiết kế Tiêu chuẩn này tương đồng với LTM 2015 trong việc đánh giá sự phù hợp của các đối tượng giám định.
Giám định thương mại được định nghĩa trong LTM 2005 tại Điều 254 là hoạt động thương mại mà trong đó thương nhân thực hiện các công việc cần thiết để xác định tình trạng thực tế của hàng hóa và kết quả cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng Điều 255 của LTM 2005 quy định rõ phạm vi giám định, bao gồm các nội dung như số lượng, chất lượng, bao bì, giá trị hàng hóa, xuất xứ hàng hóa, tổn thất, độ an toàn, tiêu chuẩn vệ sinh, phòng dịch, kết quả thực hiện dịch vụ, phương pháp cung ứng dịch vụ và các yêu cầu khác từ khách hàng.
4 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thương mại – Tập II, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, tr.265 – tr.266
Giám định thương mại là một lĩnh vực giám định đặc thù, chỉ áp dụng cho hàng hóa và dịch vụ trong hoạt động thương mại Theo quy định của Luật Thương mại 2005, việc xem xét sản phẩm không phải hàng hóa, dịch vụ không được coi là giám định thương mại Hoạt động này liên quan đến các thương nhân và phải dựa trên yêu cầu của khách hàng, từ đó cung cấp các loại hình giám định khác nhau Các dịch vụ giám định trong lĩnh vực thương mại bao gồm giám định chất lượng, số lượng, phẩm chất, xếp hàng, dỡ hàng, tổn thất, sản xuất ban đầu và xuất xứ hàng hóa Ngoài ra, hoạt động thẩm định giá theo Luật Giá số 11/2012/QH13 cũng có thể được xem là giám định thương mại trong một số trường hợp.
Giám định thương mại là hoạt động của các thương nhân có chuyên môn trong lĩnh vực giám định, thực hiện việc xem xét và đưa ra kết luận về tình trạng thực tế của hàng hóa hoặc kết quả cung ứng dịch vụ Hoạt động này dựa trên các yêu cầu cụ thể từ khách hàng.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động giám định thương mại
Từ định nghĩa trên, hoạt động giám định thương mại có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, giám định thương mại là một ngành dịch vụ
Giống như các ngành dịch vụ khác như môi giới thương mại và logistics, thương nhân trong lĩnh vực dịch vụ giám định thương mại cũng cung cấp dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận Tuy nhiên, khác với các dịch vụ truyền thống, sản phẩm của dịch vụ này là chứng thư giám định, một tài liệu hữu hình Theo quy định của LTM 2005, chứng thư giám định phải được lập dưới dạng văn bản.
Thứ hai, đối tượng của giám định thương mại là tình trạng thực tế của hàng hóa, kết quả cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng
Theo khoản 15 Điều 4 Luật Giá số 11/2012/QH13 ngày 20/6/2012, thẩm định giá được định nghĩa là quá trình xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản do cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá thực hiện.
Bộ luật dân sự xác định giá trị tài sản dựa trên giá thị trường tại một địa điểm và thời điểm cụ thể, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá Hoạt động này có thể được xem là dịch vụ giám định thương mại nếu tài sản được xem là hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại 2005.
Giám định thương mại khác biệt rõ rệt so với giám định tư pháp và giám định sở hữu trí tuệ Trong giám định tư pháp, đối tượng giám định liên quan đến điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, cũng như các vụ việc dân sự và hành chính, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ và các lĩnh vực không liên quan đến chúng như giám định pháp y Ngược lại, giám định sở hữu trí tuệ tập trung vào các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ như tác phẩm, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, và nhãn hiệu, mà không được coi là hàng hóa hay dịch vụ theo quy định của Luật Thương mại 2005.
Theo Điều 3 LTM 2005, hàng hóa được định nghĩa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và những vật gắn liền với đất đai Dịch vụ được hiểu là hoạt động thương mại, trong đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ và nhận thanh toán, trong khi bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Chứng thư giám định
1.2.1 Định nghĩa chứng thư giám định
Hoạt động giám định luôn bao gồm hai bước là xem xét, đánh giá và kết luận
Hoạt động giám định chỉ được coi là hoàn thành khi thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định đưa ra kết luận cuối cùng Việc phát hành chứng thư giám định sau khi xem xét và đánh giá tình trạng thực tế của hàng hóa là nghĩa vụ cơ bản của thương nhân, đồng thời cũng là mục đích chính của hoạt động giám định.
Chứng thư giám định là sản phẩm của hoạt động giám định thương mại, thể hiện kết luận của thương nhân trong lĩnh vực dịch vụ giám định về tình trạng hàng hóa và dịch vụ Theo Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội, chứng thư này đóng vai trò quan trọng trong việc xác nhận và đánh giá chất lượng hàng hóa.
Thương mại theo yêu cầu của khách hàng phải được thực hiện dưới hình thức văn bản, được gọi là chứng thư giám định Theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 260 của LTM 2005, chứng thư giám định là văn bản xác định tình trạng thực tế của hàng hóa, dịch vụ dựa trên các nội dung giám định mà khách hàng yêu cầu.
Chứng thư giám định phải được lập dưới dạng văn bản và tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt về hình thức theo pháp luật thương mại, bao gồm việc ký tên của các chủ thể liên quan và quy định về con dấu nghiệp vụ Nghị định 20 quy định rằng cả giám định viên và đại diện có thẩm quyền của thương nhân cung cấp dịch vụ giám định đều phải ký tên trên chứng thư, nhằm ràng buộc trách nhiệm và hạn chế tình trạng làm giả Những quy định này nhấn mạnh tầm quan trọng của chứng thư giám định, xuất phát từ giá trị pháp lý của nó đối với thương nhân và các bên liên quan.
Chứng thư giám định có thể bao gồm các thông tin như tên người yêu cầu, đối tượng giám định, thời gian và địa điểm giám định, kết quả giám định, chữ ký của giám định viên và thương nhân, cùng con dấu nghiệp vụ Đối với tổ chức giám định đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17020:2012, chứng thư cần có các nội dung như nhận biết tổ chức cấp, thời gian cấp, thời gian giám định, nhận biết đối tượng giám định, chữ ký của nhân sự có thẩm quyền, tuyên bố về sự phù hợp, và kết quả giám định Trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường biển, chứng thư giám định bao gồm hai loại: Biên bản giám định và Giấy chứng nhận giám định, trong đó Biên bản giám định cung cấp thông tin chi tiết hơn về tình trạng hàng hóa hư hỏng hoặc mất mát.
1.2.2 Giá trị pháp lý của chứng thư giám định
Giá trị pháp lý, theo tác giả Nguyễn Hoàng Long, được định nghĩa là khả năng mà một đối tượng vật chất được pháp luật công nhận và bảo vệ trong các quan hệ pháp luật cụ thể Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định giá trị pháp lý trong việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong các giao dịch pháp lý.
13 Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (4), tr 269
14 Nguyễn Vũ Hoàng, tlđd (2), tr.246
Giá trị pháp lý của con dấu doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay được phân tích trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hoàng Long (2018) Nghiên cứu này, được thực hiện tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, chỉ ra vai trò quan trọng của con dấu trong việc xác thực các giao dịch và tài liệu pháp lý của doanh nghiệp Bài viết nhấn mạnh rằng con dấu không chỉ là biểu tượng của doanh nghiệp mà còn là yếu tố quyết định trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Chứng thư giám định trong giám định thương mại được pháp luật công nhận và bảo hộ, tạo ra các quan hệ pháp luật giữa thương nhân cung cấp dịch vụ giám định và khách hàng, cũng như giữa khách hàng và các bên trong hợp đồng có liên quan Khi chứng thư giám định đáp ứng đầy đủ điều kiện pháp lý, nó trở thành căn cứ để thực hiện các hợp đồng như hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đồng thời giúp xác định hành vi vi phạm hợp đồng và trách nhiệm của thương nhân giám định.
Giám định thương mại là một ngành dịch vụ tư nhân, trong đó chứng thư giám định chỉ có giá trị pháp lý đối với khách hàng yêu cầu và bên còn lại trong hợp đồng, nếu có thỏa thuận sử dụng chứng thư của một thương nhân giám định cụ thể Giá trị pháp lý của chứng thư phụ thuộc vào sự đồng thuận giữa các bên liên quan và yêu cầu các yếu tố như khách quan, trung thực, cũng như đảm bảo các điều kiện về kỹ thuật và nghiệp vụ giám định Điều này có nghĩa là chứng thư giám định chỉ có hiệu lực khi các bên không thể chứng minh rằng kết quả giám định là không khách quan hoặc sai sót về kỹ thuật.
Kết luận giám định trong giám định tư pháp là nguồn chứng cứ quan trọng phục vụ cho điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, cũng như giải quyết vụ việc dân sự và vụ án hành chính Tuy nhiên, việc sử dụng kết luận này phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan tố tụng mà không bị ràng buộc phải chứng minh tính khách quan hay chính xác của nó, khác với yêu cầu đối với chứng thư giám định trong lĩnh vực thương mại Theo quy định về sở hữu trí tuệ, văn bản kết luận giám định cũng có giá trị chứng cứ, làm cơ sở cho cơ quan giải quyết tranh chấp quyết định về hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
16 Khoản 1 Điều 2 Luật Giám định tư pháp số 13/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2012
Theo Khoản 5 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25/11/2015, điểm d Khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày 27/11/2015, và Khoản 5 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 ngày 25/11/2015, các quy định pháp luật này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quy trình tố tụng công bằng và minh bạch.
Hồ Thị Quyên (2010) đã nghiên cứu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực giám định tư pháp, dựa trên thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh Luận văn thạc sĩ luật của bà, được trình bày tại Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, đã chỉ ra những vấn đề và thách thức trong công tác giám định tư pháp, đồng thời đề xuất các giải pháp cải thiện hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Điều 51 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước liên quan đến sở hữu trí tuệ, được ban hành ngày 22/9/2006 Nghị định này hướng dẫn các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong việc sở hữu và sử dụng tài sản trí tuệ.
14 đã có ý kiến cho rằng “giám định sở hữu trí tuệ chỉ là tập hợp con của phạm trù giám định tư pháp” 20
1.2.3 Vai trò của chứng thư giám định Đặc điểm cơ bản của giám định thương mại là thực hiện việc kiểm tra tình trạng thực tế của hàng hóa, kết quả cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng do đó tùy vào từng đối tượng khách hàng cụ thể và mục đích giám định mà chứng thư giám định có một vai trò, ý nghĩa riêng
1.2.3.1 Đối với tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động giám định
Sự tin tưởng vào chứng thư giám định thường phụ thuộc vào uy tín của các công ty giám định Việc phát hành chứng thư giám định không chỉ bảo vệ quyền lợi của khách hàng mà còn thể hiện năng lực và chất lượng dịch vụ của thương nhân Kết luận trong chứng thư ràng buộc trách nhiệm của thương nhân nếu khách hàng chứng minh được kết quả giám định không khách quan hoặc sai sót kỹ thuật Hơn nữa, chứng thư giám định là bằng chứng cho thấy hoạt động giám định đã được thực hiện, từ đó xác định xem thương nhân có thực hiện đúng nghĩa vụ theo hợp đồng hay không.
1.2.3.2 Đối với các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa – cung ứng dịch vụ
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA CHỨNG THƯ GIÁM ĐỊNH, HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC CẤP CHỨNG THƯ GIÁM ĐỊNH SAI VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
Thực trạng pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý của chứng thư giám định
2.1.1 Điều kiện để chứng thư giám định có giá trị pháp lý
Mặc dù giám định thương mại đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại, nhưng hiện nay số lượng văn bản quy phạm pháp luật quy định về lĩnh vực này còn hạn chế, chủ yếu chỉ có Luật Thương mại.
Năm 2005, Nghị định số 20/2006/NĐ-CP được ban hành, quy định chi tiết về việc kinh doanh dịch vụ giám định thương mại theo Luật Thương mại ngày 20/2/2006 Nghị định này đã trải qua hai lần sửa đổi và bổ sung, cụ thể là Nghị định số 120/2011/NĐ-CP vào ngày 16/12/2011 và Nghị định số 125/2014/NĐ-CP.
Theo CP ngày 29/12/2014 và Thông tư số 01/2015/TT-BCT của Bộ Công thương, thủ tục đăng ký nghiệp vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại được quy định rõ ràng Để chứng thư giám định có giá trị pháp lý, cần đảm bảo các điều kiện theo quy định trong các văn bản này.
2.1.1.1 Điều kiện về chủ thể phát hành chứng thư giám định và hiệu lực của hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định
Theo Luật Đầu tư số 67/2014/QH13, dịch vụ giám định thương mại thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện Việc kinh doanh trong lĩnh vực này mà không đáp ứng đủ các điều kiện là hành vi bị cấm theo Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của thương nhân mà còn làm mất hiệu lực các hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định đã ký với khách hàng Bởi vì chứng thư giám định là kết quả của dịch vụ giám định, nên nếu hợp đồng cung ứng dịch vụ vô hiệu, chứng thư giám định cũng sẽ không có giá trị pháp lý Theo Điều 257 LTM 2005, thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định phải là doanh nghiệp, có giám định viên đủ tiêu chuẩn.
Có khả năng thực hiện quy trình và phương pháp giám định hàng hóa, dịch vụ theo quy định pháp luật và tiêu chuẩn quốc tế, hoặc theo những phương pháp đã được áp dụng phổ biến tại nhiều quốc gia trong lĩnh vực giám định này.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định theo quy định tại LTM 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn nhiều điểm chưa rõ ràng Cụ thể, Điều 259 LTM 2005 yêu cầu giám định viên phải có chứng chỉ chuyên môn phù hợp, nhưng nội dung giám định lại rất đa dạng tùy thuộc vào từng loại hàng hóa và dịch vụ, dẫn đến việc thiếu tiêu chuẩn chung để xác định yêu cầu chuyên môn Điều này khiến cho quy định về trình độ chuyên môn của giám định viên không đảm bảo tính thực thi Hơn nữa, cụm từ “có khả năng” trong điều kiện kinh doanh cũng gây ra sự mơ hồ, không rõ yêu cầu này là tối thiểu hay chỉ đạt tiêu chuẩn trung bình.
Trong phần “Lời giới thiệu” của ISO/IEC 17020:2012, tổ chức giám định cần vận dụng sự đánh giá chuyên nghiệp và có năng lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ Sự chuyên nghiệp này xuất phát từ yêu cầu hiểu biết sâu sắc về đối tượng giám định, cùng với chuyên môn và nghiệp vụ trong quy trình giám định Giáo sư Jelena Vilus nhấn mạnh rằng trách nhiệm của công ty giám định nặng nề hơn so với các công ty bình thường, vì họ phải đảm bảo thực hiện đúng nhiệm vụ được giao Tiêu chuẩn đối với tổ chức giám định cần được hiểu theo tiêu chuẩn cao nhất, bởi khách hàng mặc định rằng họ có chuyên môn và kinh nghiệm Điều này tạo ra sự tin tưởng vào kết luận giám định trong chứng thư giám định Do đó, quy định của LTM 2005 về việc thương nhân chỉ cần “có khả năng” thực hiện giám định là chưa phù hợp với yêu cầu của hoạt động giám định.
Hoạt động công nhận các tổ chức giám định hiện nay mang lại nhiều lợi ích quan trọng, giúp khách hàng dễ dàng nhận biết các tổ chức đạt tiêu chuẩn Điều này hỗ trợ trong việc xem xét, đánh giá và đưa ra kết luận chính xác về tình trạng thực tế của hàng hóa cũng như kết quả cung ứng dịch vụ.
30 Nguyễn Thị Quỳnh Anh, tlđd (29), tr.27
The burden of professional liability is greater than that of ordinary liability, as it is inherently assumed that professionals possess the necessary expertise to perform their entrusted tasks competently.
Việc công nhận các công ty giám định dựa trên sự tự nguyện và phải tuân thủ tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17020:2012, đòi hỏi các công ty này đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật và nhân lực Điều này khiến các công ty giám định vừa và nhỏ gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu Hiện tại, trên website của Văn phòng Công nhận Chất lượng (BoA) có 65 tổ chức giám định được công nhận theo tiêu chuẩn này, chủ yếu là các công ty lớn trong nước và quốc tế, cũng như các tổ chức do nhà nước thành lập như Công ty Cổ phần Tập đoàn Vinacontrol và Công ty TNHH SGS Việt Nam.
Năm 2005, tiêu chuẩn cho tổ chức giám định không cao, dẫn đến việc nhiều công ty chưa được công nhận không đủ điều kiện thực hiện giám định hàng hóa và dịch vụ Hệ quả là trên thị trường có nhiều công ty giám định chỉ mang tính hình thức, thiếu chuyên môn và cơ sở vật chất phù hợp Tình trạng này làm giảm uy tín của các công ty giám định và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng chứng thư giám định Do đó, cần thiết có quy định cụ thể và chặt chẽ về điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định để nâng cao chất lượng hoạt động này.
Hiệu lực của hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định là vấn đề quan trọng mà cả bên yêu cầu và bên giám định cần chú ý Nếu hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định vô hiệu, chứng thư giám định cũng sẽ không có giá trị pháp lý Mặc dù LTM 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định rõ về hiệu lực của hợp đồng này, nhưng theo nguyên tắc áp dụng luật chung và luật riêng, các quy định của Bộ luật dân sự sẽ được áp dụng Theo Điều 122 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015, một hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định sẽ có hiệu lực nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định.
Cả bên cung ứng dịch vụ giám định và khách hàng đều cần đáp ứng các điều kiện về năng lực chủ thể Đặc biệt, thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định phải thỏa mãn các yêu cầu kinh doanh cụ thể Trong trường hợp khách hàng là doanh nghiệp, người ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định phải là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc được ủy quyền bởi đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đó.
Website của Văn phòng Công nhận Chất lượng cung cấp số liệu quan trọng về các dịch vụ giám định, có thể tìm kiếm tại địa chỉ http://www.boa.gov.vn/vi/tim-kiem-giam-dinh Người dùng có thể truy cập để lấy thông tin cần thiết về các dịch vụ và lĩnh vực giám định chất lượng.
33 Khoản 3 Điều 4 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015
Trong quy trình "Thủ tục yêu cầu giám định" của Vinacontrol, khách hàng cần gửi "Giấy yêu cầu giám định" để đề nghị hợp đồng cung ứng dịch vụ Đối với các pháp nhân, người ký Giấy yêu cầu phải có thẩm quyền và đóng dấu Nếu cá nhân yêu cầu không có thẩm quyền, họ cần cung cấp giấy giới thiệu từ đơn vị đại diện Đối với khách hàng nước ngoài, yêu cầu phải có ấn chỉ riêng và chữ ký của người có thẩm quyền.
Quy định và thực trạng của pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của việc cấp chứng thư giám định sai
2.2.1 Định nghĩa “kết quả giám định sai” và trách nhiệm chứng minh của khách hàng
Giám định là quá trình đánh giá tình trạng thực tế của hàng hóa và kết quả cung ứng dịch vụ, do đó, chứng thư giám định phải phản ánh chính xác thực trạng này Nếu kết quả giám định sai, chứng thư sẽ không có giá trị pháp lý Theo khoản 3 Điều 266 LTM 2005, khách hàng cần chứng minh khi cho rằng thương nhân cung cấp chứng thư giám định sai Đồng thời, Điều 261 LTM 2005 cũng quy định rằng chứng thư giám định có giá trị pháp lý nếu bên yêu cầu không chứng minh được kết quả giám định không khách quan, không trung thực hoặc sai về kỹ thuật Do đó, việc chứng minh kết quả giám định sai cũng đồng nghĩa với việc chứng minh tính không khách quan và không trung thực của quá trình giám định.
Khách hàng có nghĩa vụ chứng minh kết quả giám định sai, vì thương nhân cung cấp dịch vụ giám định đã cấp chứng thư ghi nhận kết quả giám định theo yêu cầu của họ.
Khi hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định, kết quả ghi trong chứng thư giám định được xem là phản ánh chính xác tình trạng thực tế của hàng hóa Nếu khách hàng khẳng định ngược lại, họ có trách nhiệm chứng minh điều đó Điều này có nghĩa là thương nhân cung cấp dịch vụ giám định không phải chứng minh rằng kết quả giám định là "đúng" và phản ánh chính xác tình trạng thực tế của hàng hóa.
Trong trường hợp bên thứ ba có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ giám định nhưng không phải là khách hàng yêu cầu giám định, việc chứng minh của bên này sẽ không tạo ra giá trị pháp lý cho chứng thư giám định đối với bên thứ ba và không ràng buộc trách nhiệm của thương nhân cung cấp dịch vụ giám định Ví dụ, trong vụ tranh chấp giữa DNTN Phú Lợi và Công ty TNHH Thanh Phát, mặc dù có những nghi ngờ về tính khách quan và chính xác của kết quả giám định từ FCC Quy Nhơn, DNTN Phú Lợi chỉ có quyền yêu cầu bồi thường từ Công ty TNHH Thanh Phát mà không thể yêu cầu FCC Quy Nhơn chịu trách nhiệm cho chứng thư giám định đã cấp.
Khách hàng cần chứng minh rằng thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai Tuy nhiên, nếu thương nhân giám định thừa nhận kết quả giám định của một thương nhân khác theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 262 LTM 2005, điều này sẽ ràng buộc trách nhiệm của họ Trong trường hợp này, sự thừa nhận vi phạm của thương nhân giám định sẽ miễn trừ cho khách hàng khỏi nghĩa vụ chứng minh.
Trong vụ tranh chấp giữa Công ty Cổ phần Vật tư Nông sản (Apromaco) và Công ty Cổ phần Giám định Vinacontrol – chi nhánh Hải Phòng, Apromaco đã yêu cầu Vinacontrol Hải Phòng thực hiện giám định chất lượng, mớn nước và tally cho số phân bón ure lên tàu Asian Compass tại Cảng Hải Phòng Ngày 28/8/2011, Vinacontrol Hải Phòng đã cấp Chứng thư giám định khẳng định số lượng hàng xếp lên tàu là 107.400 bao, tương đương 5.370 tấn Tuy nhiên, vào ngày 29/8/2011, Vinacontrol Hải Phòng đã gửi Chứng thư giám định sửa đổi, xác nhận số lượng thực kiểm là 109.400 bao, tương đương 5.470 tấn Cùng ngày, Vinacontrol Hải Phòng cũng đã gửi Chứng thư giám định mớn nước, cho thấy số lượng hàng xếp lên tàu.
Asian Compass ghi nhận trọng lượng 5.201,839 tấn, trong khi số lượng thực tế bị hụt lên tới 268,161 tấn Theo đại diện Apromaco, vận đơn đường biển được lập dựa trên Chứng thư giám định mớn nước 11C03HH3871-01, và khách hàng nước ngoài chỉ thanh toán cho số lượng 5.201,839 tấn Do đó, Apromaco đã chịu thiệt hại khoảng 3 tỷ đồng do mất mát 268,161 tấn phân bón.
Vinacontrol Hải Phòng đã hợp tác với SGS Đài Loan để giám sát quá trình dỡ hàng và tiến hành kiểm định lại khối lượng hàng ure Kết quả từ phương pháp giám định mớn nước của SGS Đài Loan xác nhận khối lượng hàng dỡ tại cảng là 5.202 tấn Sau đó, Vinacontrol Hải Phòng thừa nhận thiệt hại thực tế của Apromaco do kết quả đo kiểm của SGS và đồng ý thanh toán tiền phạt vi phạm.
2.2.2 Trách nhiệm thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định
2.2.2.1 Cơ sở của giới hạn trách nhiệm
Trách nhiệm pháp lý của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định được giới hạn trong phạm vi "không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định" Sự giới hạn này xuất phát từ việc thương nhân chỉ thực hiện việc xem xét, đánh giá tình trạng thực tế của hàng hóa hoặc kết quả dịch vụ mà không can thiệp hay thay đổi tình trạng đó Trong một số trường hợp, thương nhân thực hiện quy trình giám định theo hướng dẫn của khách hàng, do đó trách nhiệm của họ chỉ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ giám định, không bao gồm toàn bộ thiệt hại liên quan đến hàng hóa hay dịch vụ.
Quy định này nhấn mạnh rằng giám định là một hoạt động đặc thù, trong đó người giám định không thay đổi chất lượng hàng hóa mà chỉ thực hiện việc lấy mẫu đại diện để kiểm tra Họ cũng có trách nhiệm cấp chứng thư xác nhận các thông tin thu được trong quá trình giám định.
Các công ty giám định toàn cầu thường áp dụng mức giới hạn trách nhiệm tương tự Chẳng hạn, Điều khoản mẫu của Hội đồng TIC 56 không quy định giới hạn cho trách nhiệm.
53 Khắc Hạnh (2013), “Thuê giám định vẫn mất hàng”, https://thanhtra.com.vn/kinh-te/Thue-giam-dinh-van- mat-hang-50572.html truy cập ngày 2/6/2020
55 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tlđd (5), tr.260
Hội đồng Kiểm tra, Giám định và Chứng nhận (TIC Council) được thành lập vào tháng 12/2018 thông qua việc sáp nhập Hiệp hội các tổ chức giám định quốc tế (IFIA) và Liên đoàn các tổ chức giám định và chứng nhận quốc tế (CEOC), hiện có hơn 50 thành viên là các công ty giám định hàng đầu như SGS, Contecna, và CIS Hội đồng này đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các nguyên tắc chung cho hoạt động của các công ty thành viên, đồng thời quy định các điều kiện và tiêu chuẩn mà họ phải tuân thủ khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng Để biết thêm thông tin chi tiết về các quy tắc và hướng dẫn của Hội đồng TIC, vui lòng truy cập https://www.tic-
Thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định phải tuân thủ mức giới hạn quy định bởi các công ty thành viên, với hầu hết các công ty này đặt giới hạn không quá 10 lần mức thù lao dịch vụ giám định Một số công ty còn quy định mức tối đa không vượt quá một khoản tiền cụ thể, như được nêu trong mục 6, đoạn số.
(5) Các điều kiện chung về dịch vụ của SGS quy định về trách nhiệm của Công ty như sau:
Công ty chỉ chịu trách nhiệm tối đa 10 lần chi phí dịch vụ liên quan hoặc 20.000 USD (hoặc tương đương bằng tiền tệ địa phương) cho bất kỳ tuyên bố nào về mất mát, thiệt hại hoặc chi phí phát sinh, trong trường hợp khoản bồi thường thấp hơn mức này.
Thương nhân cung cấp dịch vụ giám định nhận thù lao từ khách hàng thông qua phí giám định, không phải từ toàn bộ giá trị hàng hóa hay dịch vụ Mức phí này thường thấp hơn nhiều so với giá trị tổng thể của hàng hóa hoặc dịch vụ được giám định Do đó, lợi ích mà thương nhân thu được từ hợp đồng giám định thường không tương xứng với lợi ích của các bên liên quan Việc yêu cầu thương nhân bồi thường toàn bộ thiệt hại phát sinh sẽ là bất hợp lý và không công bằng đối với họ.