ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN TẠI VIỆT NAM
Khái quát quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
Dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định tại Phụ lục số IV Luật Đầu tư 2014 (mục số 132) Để hoạt động trong lĩnh vực này, các doanh nghiệp phải tuân thủ các điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, bao gồm yêu cầu về giấy phép kinh doanh.
Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP quy định, để cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, đơn vị cung cấp dịch vụ cần có Giấy phép cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền Theo đó, để được cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, doanh cung cấp dịch vụ cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Điều kiện chủ thể để thành lập doanh nghiệp là phải là doanh nghiệp Việt Nam Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần có sự chấp thuận về chủ trương từ Thủ tướng Chính phủ.
Để cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng, doanh nghiệp cần có Giấy phép thiết lập mạng viễn thông công cộng hoặc thỏa thuận thuê, sử dụng mạng viễn thông đáp ứng yêu cầu kỹ thuật Đối với dịch vụ phát thanh, truyền hình trên Internet, doanh nghiệp còn phải sở hữu Giấy chứng nhận đăng ký tên miền “.vn” hoặc Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử trên mạng.
Điều kiện văn bản khác bao gồm việc dự kiến danh mục kênh chương trình trong nước (ngoại trừ các kênh phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu), kênh chương trình nước ngoài, nội dung theo yêu cầu, và nội dung giá trị gia tăng sẽ được cung cấp trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền Ngoài ra, cần có các văn bản chấp thuận từ đơn vị cung cấp nội dung và văn bản thỏa thuận điểm nhận tín hiệu các kênh chương trình.
Để đáp ứng điều kiện về kế hoạch và phương án kinh doanh trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình, cần có phương án cung cấp dịch vụ phù hợp với quy hoạch phát triển dịch vụ và các quy hoạch liên quan Các yêu cầu bao gồm: bố trí nguồn nhân lực, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, dự báo và phân tích thị trường dịch vụ, cũng như kế hoạch kinh doanh và giá cước dịch vụ Bên cạnh đó, cần có dự toán chi phí đầu tư và chi phí hoạt động ít nhất trong hai năm đầu tiên, cùng với văn bản chứng minh vốn điều lệ hoặc tài liệu có giá trị tương đương để đảm bảo khả năng triển khai dịch vụ theo dự toán.
Để đảm bảo chất lượng dịch vụ truyền hình, cần có kế hoạch thiết lập trung tâm thu phát cho tất cả các kênh chương trình trong nước và nước ngoài tại một địa điểm, ngoại trừ các kênh phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin thiết yếu địa phương Hệ thống cần được thiết kế với các thiết bị xử lý tín hiệu, kết nối mạng truyền dẫn, quản lý dịch vụ và bảo vệ nội dung Ngoài ra, cần áp dụng công nghệ hiện đại theo quy định của nhà nước về tiêu chuẩn kỹ thuật để đảm bảo chất lượng dịch vụ và an ninh thông tin, đồng thời xử lý kịp thời các sự cố kỹ thuật nhằm duy trì tính liên tục của dịch vụ và quyền lợi của thuê bao.
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NỘI DUNG THÔNG TIN TRÊN DỊCH VỤ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN TẠI VIỆT NAM
Khái quát quy định pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
Giấy chứng nhận đăng ký danh mục nội dung trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền là một phần quan trọng trong cơ chế quản lý nội dung, nhằm đảm bảo các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia và địa phương Bài viết sẽ trình bày và phân tích những điểm bất cập trong việc thực thi các quy định này, đồng thời nêu rõ vai trò của các kênh chương trình nước ngoài trong việc cung cấp thông tin đa dạng và phong phú.
2.1 Khái quát quy định pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
2.1.1 Quản lý thông qua Giấy chứng nhận đăng ký danh mục nội dung trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền có quyền lựa chọn kênh chương trình phát sóng phù hợp với định hướng kinh doanh và thị hiếu người dùng, nhưng phải tuân thủ Nghị định số 06/2016/NĐ-CP và các quy định pháp luật liên quan như Luật Báo chí Một quy định quan trọng trong Nghị định này là các doanh nghiệp phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký danh mục nội dung để xác nhận các kênh chương trình phát sóng trên hệ thống của mình.
Điểm a khoản 1 Điều 10 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP quy định về Giấy chứng nhận đăng ký danh mục kênh chương trình trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, là văn bản do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp sau khi doanh nghiệp được cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ Theo điểm a khoản 2 Điều 21 của cùng nghị định, các đơn vị cung cấp dịch vụ phải thực hiện đăng ký danh mục nội dung các kênh chương trình trong nước và nước ngoài Điều này không chỉ là nghĩa vụ của doanh nghiệp mà còn là cơ chế quản lý nhằm đảm bảo thông tin và nội dung phát sóng được xác nhận hợp pháp trước khi đến tay người tiêu dùng Giấy chứng nhận này bao gồm tất cả các kênh chương trình mà doanh nghiệp cung cấp hoặc dự kiến cung cấp, chia thành ba nhóm kênh chương trình.
Các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu được định nghĩa trong Nghị định số 06/2016/NĐ-CP, theo đó, đây là các kênh chương trình trong nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định nhằm phục vụ các nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền trong từng giai đoạn Nhóm kênh này thực hiện nhiệm vụ chính trị do nhà nước giao cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình Cụ thể, có bảy kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu quốc gia được quy định tại Phụ lục số I của Thông tư số 18/2016/TT-BTTTT.
17 Điểm a khoản 6 Điều 21 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP
18 Điểm a và b khoản 1 Điều 14 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP
Các kênh truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu tại Việt Nam bao gồm VTV1, VTC1, Vnews, ANTV, QPVN, QHVN và Nhân dân Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình cần đảm bảo phát sóng đầy đủ các kênh này theo phạm vi địa bàn, nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin địa phương Danh mục kênh chương trình cụ thể cho từng địa phương được quy định tại Phụ lục II của Thông tư số 18/2016/TT-BTTTT.
Các kênh chương trình trong nước, bao gồm kênh phát thanh và truyền hình do các cơ quan báo chí Việt Nam sản xuất hoặc liên kết, được doanh nghiệp lựa chọn để cung cấp cho thuê bao với mục đích thương mại Những kênh này không chỉ giúp thu hút thuê bao mà còn tạo nên sự khác biệt cho hệ thống dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ Nhóm kênh này bao gồm kênh truyền hình quảng bá và kênh trả tiền, cung cấp nội dung đa dạng từ thông tin, kiến thức khoa học, xã hội đến giải trí, phim truyện và quảng cáo Một số kênh tiêu biểu như Kênh Khoa học – Giáo dục (VTV2), Kênh ANTV chuyên về an ninh trật tự, Kênh giải trí tổng hợp (HTV2), Kênh Phim (HTVC – Phim), và Kênh Mua sắm trên truyền hình (VTVCab 11 – Shopping TV).
Các kênh chương trình nước ngoài, được sản xuất bởi các hãng truyền hình quốc tế và phát sóng bằng tiếng nước ngoài, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự đa dạng và điểm nhấn cho các dịch vụ truyền hình trả phí Những kênh này phải trải qua nhiều quy trình sàng lọc và kiểm duyệt trước khi đến tay người dùng Tuy nhiên, Nghị định số 06/2016/NĐ-CP đã quy định giới hạn về tổng số lượng kênh chương trình nước ngoài được phép phát sóng.
19 Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP
20 Khoản 5 Điều 3 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngoài phát sóng trên hệ thống dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền là không quá 30% tổng số kênh 21
Khi có sự thay đổi hoặc bổ sung kênh chương trình phát sóng, doanh nghiệp cần thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 21 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP Cụ thể, các đơn vị cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền phải đăng ký sửa đổi, bổ sung danh mục nội dung nếu có thay đổi so với danh mục đã đăng ký Điều này giúp Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử kiểm soát tính hợp pháp về bản quyền phát sóng và ghi nhận danh mục các kênh chương trình đang phát sóng Doanh nghiệp phải đảm bảo quyền tiếp phát sóng của các kênh chương trình và phát sóng đúng các kênh được ghi nhận trong Giấy chứng nhận, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 10 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP Trách nhiệm này được nhấn mạnh trong mục “Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền” trong Giấy chứng nhận đăng ký danh mục nội dung.
Công ty ABC phải đảm bảo cung cấp đầy đủ danh mục các kênh chương trình ghi trong Giấy chứng nhận trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, tuân thủ quy định của Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành Đồng thời, công ty cũng phải thực hiện đúng các quy định pháp luật về bản quyền chương trình và các quy định pháp luật liên quan khác.
2.1.2 Quy định về phát sóng các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia và địa phương
Các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia và địa phương là những kênh bắt buộc phải phát sóng trên hệ thống truyền hình trả tiền Quy định này được nêu rõ trong Quy chế quản lý hoạt động truyền hình trả tiền và Nghị định số 06/2016/NĐ-CP.
Do đó, có thể thấy được rằng mặc dù đã có những thay đổi nhất định về khung pháp
Theo Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP, Chính phủ vẫn giữ quan điểm không thay đổi về vai trò của các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu Những kênh này được sản xuất bởi các cơ quan báo chí có giấy phép, như Đài phát thanh, truyền hình quốc gia và địa phương, nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin về chính trị, an ninh và quốc phòng Danh mục kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị bao gồm 7 kênh quốc gia và 63 kênh địa phương, tương ứng với 63 tỉnh, thành phố, được quy định tại Phụ lục số II và III của Thông tư số 18/2016/TT-BTTTT.
Thông tư số 18/2016/TT-BTTTT quy định rõ về thời lượng phát sóng của các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền thiết yếu Cụ thể, các kênh này phải phát sóng tối thiểu 18 giờ mỗi ngày, với ít nhất 40% thời gian là các chương trình tự sản xuất Đối với kênh phục vụ địa phương, thời gian phát sóng tối thiểu là 15 giờ, và tỷ lệ chương trình tự sản xuất giảm xuống còn 20%.
Các kênh chương trình phi thương mại được quy định bởi pháp luật nhằm cung cấp thông tin và tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng của quốc gia hoặc địa phương Những kênh này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề liên quan đến an ninh và chính trị.
22 Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 18/2016/TT-BTTTT
Theo Điều 23, khoản 1 và khoản 2 của Thông tư số 18/2016/TT-BTTTT, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền không cần thiết phải có thỏa thuận bản quyền với chủ sở hữu kênh để phát sóng Thay vào đó, họ chỉ cần đảm bảo việc tiếp phát sóng và truyền tải đầy đủ nội dung đến tất cả các thuê bao trong hệ thống của mình Nghị định số 06/2016/NĐ-CP cũng không yêu cầu việc ký kết thỏa thuận bản quyền, mà yêu cầu các bên thống nhất về địa điểm thu nhận tín hiệu, hay còn gọi là “điểm nhận tín hiệu” Điểm này có thể là Tổng khống chế của chủ sở hữu kênh hoặc một vị trí khác do chủ sở hữu kênh xây dựng, nhằm đảm bảo chất lượng tín hiệu và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ.
2.1.3 Quy định về phát sóng các kênh chương trình nước ngoài
Theo Nghị định số 06/2016/NĐ-CP, các kênh chương trình nước ngoài được quy hoạch trong gói dịch vụ nâng cao, bao gồm cả kênh trong nước và kênh nước ngoài Để phát sóng trên hệ thống dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, các kênh này cần tuân thủ các điều kiện quy định tại Điều 17 của Nghị định.
2.1.3.1 Số lượng kênh chương trình
Bất cập và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quản lý nội dung thông tin trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
Tính đến nay, Nghị định số 06/2016/NĐ-CP vẫn là một văn bản pháp luật còn mới mẻ, chỉ mới được thực hiện hơn ba năm Nghị định này được xây dựng dựa trên quy định và tinh thần của Quy chế quản lý hoạt động truyền hình trả tiền, nhưng vẫn chưa giải quyết triệt để những vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn Qua quá trình làm việc và nghiên cứu, tác giả nhận thấy nhiều bất cập nổi bật trong Nghị định này.
2.2.1 Vấn đề tài chính của chủ sở hữu nhóm kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia và địa phương
Quy định bắt buộc doanh nghiệp phát sóng đầy đủ nhóm kênh chương trình trên hệ thống phát thanh, truyền hình trả tiền là cần thiết cho nhiệm vụ chính trị và thông tin tuyên truyền của nhà nước Tuy nhiên, điều này lại tạo ra rào cản kinh tế cho các chủ sở hữu kênh, khi họ không thu được lợi ích kinh tế từ việc cấp quyền tiếp phát sóng mà không thu phí Mặc dù chủ sở hữu kênh phải đầu tư lớn cho sản xuất nội dung và hạ tầng truyền phát, nguồn ngân sách nhà nước có hạn, dẫn đến khó khăn trong việc tạo ra chương trình phát thanh, truyền hình chất lượng Thiếu nguồn thu đầu vào trong khi vẫn phải chi cho hạ tầng kỹ thuật và sản xuất nội dung là nguyên nhân khiến nội dung các chương trình của nhóm kênh này chưa thu hút được người xem, không đạt được mục tiêu đề ra.
2.2.2 Tiêu chí phân loại kênh chương trình
Khi phát sóng các kênh chương trình trên dịch vụ truyền hình trả tiền, các doanh nghiệp thường phân loại nhóm kênh để người xem dễ dàng lựa chọn Đặc biệt, đối với các kênh chương trình nước ngoài, khoản 3 Điều 19 Nghị định số 06/2016/NĐ- quy định rõ về việc này.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã xác định rằng việc phân loại kênh chương trình nước ngoài trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền là một quyết định quan trọng Tuy nhiên, câu hỏi về tiêu chí phân loại các kênh chương trình vẫn chưa có lời giải đáp rõ ràng, do hệ thống pháp luật hiện tại chưa quy định cụ thể về các loại chương trình như thời sự, tạp kỹ, thể thao hay giải trí Vấn đề này ảnh hưởng lớn đến công tác kiểm tra và quản lý của cơ quan nhà nước, đặc biệt trong việc rà soát nội dung nhạy cảm Nếu có tiêu chí phân loại rõ ràng, quy trình kiểm duyệt sẽ được tối ưu hóa, với các chương trình thời sự và chính trị được kiểm duyệt chặt chẽ hơn, trong khi các chương trình giải trí có thể được xử lý nhanh gọn hơn.
2.2.3 Tiêu chí kiểm duyệt nội dung trên các kênh chương trình
Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 06/2016/NĐ-CP quy định yêu cầu đối với kênh chương trình nước ngoài trên dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền như sau:
Nội dung phải lành mạnh và phù hợp với văn hóa Việt Nam, không vi phạm quy định pháp luật về báo chí, theo Điều 9 Luật Báo chí, cấm các hành vi chống phá nhà nước, phỉ báng chính quyền, và bịa đặt gây hoang mang Tuy nhiên, quy định hiện tại còn quá chung chung, thiếu tiêu chí rõ ràng để xác định các hành vi như bịa đặt hay khiêu dâm, dẫn đến sự kiểm duyệt mang tính chủ quan Mỗi quốc gia có quy tắc riêng về kiểm duyệt nội dung dựa trên văn hóa, chính trị và tôn giáo, gây khó khăn cho nhà sản xuất trong việc xác định giới hạn nội dung được phép thực hiện Hệ thống pháp luật hiện tại trao quyền quá lớn cho bộ phận kiểm duyệt, tạo ra rào cản cho việc sản xuất nội dung.
2.2.4 Giới hạn số lượng kênh chương trình nước ngoài trong tổng số kênh chương trình khai thác
Nghị định số 06/2016/NĐ-CP quy định rằng số lượng kênh chương trình nước ngoài trên hệ thống dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền không vượt quá 30% tổng số kênh khai thác nhằm bảo hộ sự phát triển của các kênh trong nước Tuy nhiên, quy định này có thể không đạt hiệu quả mong đợi khi thuê bao mới là người chủ động lựa chọn nội dung Dịch vụ phát thanh, truyền hình trên internet cung cấp nhiều tiện ích như lựa chọn nội dung yêu thích, khung giờ và tua lại chương trình, cho thấy rằng việc tạo ra rào cản cho thuê bao có thể là một quy định thiếu tính thực thi Yếu tố quyết định để thuê bao lựa chọn kênh chương trình nào chính là chất lượng nội dung, mà các kênh trong nước vẫn còn yếu thế so với các kênh nước ngoài.
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ GIÁ DỊCH VỤ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN TẠI VIỆT NAM
Khái quát quy định pháp luật về quản lý giá dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
Năm 2011, Quy chế quản lý hoạt động truyền hình trả tiền được ban hành, tạo ra hành lang pháp lý cho dịch vụ này, nhưng chưa đề cập đến quản lý giá dịch vụ Sau nhiều ý kiến từ doanh nghiệp và Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam (VNPayTV), Nghị định số 06/2016/NĐ-CP đã chính thức quy định về quản lý giá dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền tại khoản 2 Điều 27.
Giá dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền phải được công khai theo quy định pháp luật Các đơn vị cung cấp dịch vụ cần niêm yết giá dịch vụ và giá gói dịch vụ, kèm theo thông tin và thông số kỹ thuật cơ bản Địa điểm niêm yết giá sẽ được thực hiện tại các cơ sở kinh doanh có quầy giao dịch và các địa điểm khác do đơn vị cung cấp dịch vụ quyết định.
Theo Nghị định số 06/2016/NĐ-CP, nhà nước quản lý các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền và yêu cầu họ niêm yết giá dịch vụ cho thuê bao Các doanh nghiệp thường niêm yết giá trên trang web chính thức hoặc trong hợp đồng cung cấp dịch vụ Đối với dịch vụ truyền hình cáp, các doanh nghiệp phân loại dịch vụ thành các gói như gói truyền hình cơ bản, gói truyền hình số cơ bản và gói truyền hình số cao cấp, kèm theo giá dịch vụ và số lượng kênh chương trình cho từng gói.
VTVCab ban hành chính sách giá đối với gói dịch vụ truyền hình số cơ bản với 73 kênh là 110.000 đồng/tháng/5 tivi
HTVC ban hành chính sách giá đối với gói truyền hình cơ bản với 70 kênh là 99.000 đồng/tháng/tivi
SCTV đã công bố chính sách giá cho gói truyền hình cơ bản với 70 kênh, có mức phí 120.000 đồng/tháng cho 3 tivi Đối với dịch vụ phát thanh và truyền hình qua internet, các nhà cung cấp sẽ phân nhóm nội dung và áp dụng mức giá dịch vụ theo tháng hoặc thu phí cho từng phim và chương trình.
ClipTV ban hành chính sách giá 50.000 đồng/tháng cho toàn bộ nhóm nội dung cung cấp
Fim+ đã công bố chính sách giá mới, với mức phí 50.000 đồng/tháng cho các nhóm phim Âu Mỹ, phim Việt Nam, phim hoạt hình và nội dung tự sản xuất Đối với một số phim và chương trình đặc biệt, người dùng sẽ phải trả thêm từ 15.000 đồng đến 30.000 đồng.
Netflix ban hành chính sách giá 220.000 đồng/tháng cho nhóm phim Âu Mỹ, phim hoạt hình và nội dung tự sản xuất
Mặc dù có quy định về quản lý giá dịch vụ, nhưng các doanh nghiệp vẫn tự do ban hành chính sách giá mà không bị ràng buộc về cách xác định giá hay mức giá sàn Nguyên nhân chính là dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền không nằm trong danh sách các dịch vụ chịu sự quản lý giá theo Luật giá năm 2012 Theo Nghị định số 177/2013/NĐ-CP, nhà nước quản lý giá dịch vụ này theo cơ chế thị trường, tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Theo Khoản 1 Điều 5 của Luật Giá năm 2012, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ được phép tự định giá dịch vụ của mình Quyền này được thực hiện sau khi doanh nghiệp tính toán chi phí đầu vào, từ đó xây dựng chính sách giá phù hợp cho hoạt động kinh doanh.
Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về quản lý giá dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
3.2.1 Cuộc chiến cạnh tranh về giá dịch vụ giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền
Mặc dù cơ quan nhà nước cho rằng quan điểm về giá dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền phù hợp với nguyện vọng của doanh nghiệp, thực tế lại cho thấy các doanh nghiệp và Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam vẫn kêu gọi Bộ Thông tin và Truyền thông can thiệp vào giá sàn dịch vụ Điều này gây khó hiểu khi các doanh nghiệp lại cần sự ràng buộc trong hoạt động kinh doanh của mình Thị trường dịch vụ phát thanh truyền hình trả tiền đang cạnh tranh khốc liệt, buộc các doanh nghiệp phải liên tục giảm giá và thực hiện các chương trình khuyến mại để tạo dựng vị thế.
Áp lực về chi phí bản quyền ngày càng gia tăng trong khi doanh thu dịch vụ truyền hình trả tiền chỉ tăng không đáng kể Đến cuối năm 2018, số lượng thuê bao đạt 14,5 triệu, tăng 5,8% so với năm 2017, trong khi doanh thu ước đạt 8.000 tỷ đồng, chỉ tăng 2% Mặc dù doanh thu có tăng, nhưng không đủ để bù đắp cho sự gia tăng nhanh chóng của chi phí bản quyền, đặc biệt là đối với các kênh và chương trình nước ngoài Chi phí bản quyền này chiếm phần lớn ngân sách của doanh nghiệp, với tổng số tiền bản quyền thể thao và các kênh nước ngoài trong năm 2018 lên tới 80% ngân sách, vượt xa các chi phí khác như kỹ thuật, nhân sự và quảng bá truyền thông.
Năm 2018, doanh thu từ truyền hình trả tiền tại Việt Nam đạt 8.000 tỷ đồng, theo thông tin từ bài viết trên ICTNews Tổng ngân sách nội dung chủ yếu được chi trả cho các chủ sở hữu kênh và chương trình, trong đó phần lớn là các đối tác nước ngoài.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền không chỉ phải chịu phí bản quyền mà còn phải cân đối chi phí tài chính trong suốt thời gian hoạt động Họ cần được cấp giấy phép cung cấp dịch vụ và nộp "phí quyền cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền" hàng năm, tương đương 0,3% doanh thu từ hoạt động này Doanh thu tính phí bao gồm tổng doanh thu từ hợp đồng với các thuê bao truyền hình trả tiền (không bao gồm thuế giá trị gia tăng) và việc nộp phí diễn ra theo từng quý Ước tính năm 2018, các doanh nghiệp này phải nộp khoảng 22 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước từ phí quyền cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền.
Áp lực cạnh tranh từ các dịch vụ mới đang gia tăng, khiến các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh và truyền hình trả tiền truyền thống dần bị lãng quên Sự thay đổi trong thị hiếu của người xem đang chuyển sang các dịch vụ phát thanh và truyền hình trực tuyến, đặc biệt là trên các ứng dụng cài đặt trên thiết bị thông minh Theo thống kê của Asia Plus, người Việt Nam trung bình dành đến 134 phút mỗi ngày để lướt internet trên máy tính.
Trong thời gian gần đây, người dùng dành trung bình 103 phút để lướt internet trên di động và chỉ 91 phút để xem tivi, cho thấy sự chuyển dịch rõ rệt sang các dịch vụ trực tuyến với nội dung phong phú hơn Tuy nhiên, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này thường vi phạm bản quyền do chưa bị điều chỉnh bởi Nghị định số 06/2016/NĐ-CP, trong khi các doanh nghiệp truyền thống phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về bản quyền.
33 Số liệu công bố tại Hội thảo Truyền hình trả tiền do Hiệp hội Truyền hình trả tiền tổ chức vào tháng 3/2018
Theo Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 307/2016/TT-BTC, Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí quyền cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền cùng với lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký cung cấp kênh chương trình nước ngoài trên truyền hình trả tiền Thông tư này được ban hành vào ngày 15/11/2016.
Theo bài viết “Thị trường truyền hình trả tiền: Thực tiễn quốc tế và liên hệ tới Việt Nam” của Thạc sỹ Lương Quốc Huy, thị trường truyền hình trả tiền đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, với nhiều mô hình kinh doanh đa dạng Tại Việt Nam, ngành truyền hình trả tiền cũng đang có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên vẫn đối mặt với nhiều thách thức như cạnh tranh khốc liệt và sự chuyển đổi nhanh chóng của công nghệ Bài viết chỉ ra rằng, việc áp dụng các chiến lược phù hợp và cải tiến dịch vụ là cần thiết để nâng cao trải nghiệm người dùng và giữ vững thị phần trong bối cảnh thị trường ngày càng cạnh tranh.
3.2.2 Quan điểm ban hành giá sàn cho dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền Để giải quyết câu chuyện về giá dịch vụ chưa bao giờ là mới nhưng luôn là vấn đề nổi cộm, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ (chủ yếu là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền thống) và Hội Hiệp Truyền hình trả tiền Việt Nam đã nhiều lần đệ trình Bộ Thông tin và Truyền thông xem xét các đề án xác định giá sàn dịch vụ Theo các đề án được trình, để kiểm soát về giá và hạn chế một số doanh nghiệp đẩy giá dịch vụ xuống con số hủy diệt thì nhà nước cần ban hành mức giá sàn dịch vụ Thế nhưng, đề xuất trên vừa không phù hợp với quy định pháp luật vừa thiếu tính thực tiễn:
Luật Giá 2012 chỉ điều chỉnh giá đối với hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống, trong khi dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền không thuộc loại dịch vụ này Do đó, Bộ Thông tin và Truyền thông không có cơ sở pháp lý để ban hành giá sàn hoặc kiểm soát các yếu tố hình thành giá dịch vụ theo đề nghị.
Việc áp dụng giá sàn chỉ cần thiết trong các thị trường thiếu cạnh tranh nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Tuy nhiên, thị trường dịch vụ phát thanh và truyền hình trả tiền lại đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà cung cấp Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung vào việc cạnh tranh giá cước, liên tục giảm giá và đưa ra các chương trình khuyến mãi để thu hút khách hàng.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền được coi là thuộc cùng một thị trường Nếu các doanh nghiệp này thương thảo và thống nhất áp dụng mức giá dịch vụ tối thiểu, hành vi này sẽ được xem là ấn định giá dịch vụ trực tiếp, vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh 2018, cụ thể là Điều 11 và Điều 12 Hơn nữa, nếu doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có thị phần thống lĩnh cùng nhau quyết định mức giá sàn, họ sẽ vi phạm quy định cấm áp đặt giá bất hợp lý, gây thiệt hại cho khách hàng theo Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018.
Thị trường phát thanh, truyền hình trả tiền có sự phức tạp theo từng vùng địa lý và đặc thù cư dân, dẫn đến sự khác biệt về đối tượng thuê bao, phạm vi phủ sóng và yêu cầu chất lượng kênh Do đó, việc thiết lập giá sàn cho dịch vụ này hiện nay là không khả thi.