1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Công ước singapore về hòa giải khả năng gia nhập của việt nam

89 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 89
Dung lượng 0,91 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CÔNG ƯỚC SINGAPORE VỀ HÒA GIẢI (17)
    • 1.1 Giới thiệu khái quát về Công ƣớc (17)
      • 1.1.1 Bối cảnh ra đời (17)
      • 1.1.2 Giải thích Công ước theo Công ước Viên 1969 (20)
      • 1.1.3 Mục tiêu và mục đích (22)
    • 1.2 Nội dung các điều khoản chính (23)
      • 1.2.1 Phạm vi áp dụng (23)
      • 1.2.2 Các điều kiện về hình thức và thủ tục đối với thỏa thuận giải quyết có yêu cầu (32)
      • 1.2.3 Các căn cứ từ chối yêu cầu (35)
      • 1.2.4 Các bảo lưu (43)
      • 1.2.5 Nghĩa vụ của các bên tham gia Công ước (45)
      • 1.2.6 Tham gia, từ bỏ Công ước và hiệu lực của Công ước (47)
  • CHƯƠNG 2. KINH NGHIỆM THAM GIA CÔNG ƯỚC SINGAPORE VỀ HÒA GIẢI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA CHÂU Á – KHẢ NĂNG GIA NHẬP CỦA VIỆT NAM (51)
    • 2.1 Kinh nghiệm tham gia Công ƣớc Singapore về Hòa giải của một số quốc gia châu Á (0)
      • 2.1.1 Trung Quốc (51)
      • 2.1.2 Singapore (58)
      • 2.1.3 Nhật Bản (63)
    • 2.2 Khả năng gia nhập Công ƣớc Singapore về Hòa giải của Việt Nam (0)

Nội dung

CÔNG ƯỚC SINGAPORE VỀ HÒA GIẢI

Giới thiệu khái quát về Công ƣớc

Hòa giải, mặc dù mang lại nhiều lợi ích như tiết kiệm thời gian và chi phí, cũng như duy trì mối quan hệ kinh doanh giữa các bên tranh chấp, vẫn chưa được áp dụng rộng rãi trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế Theo S I Strong, hiện tượng hòa giải trong lĩnh vực này vẫn còn hạn chế, mặc dù có nhiều chuyên gia dày dạn kinh nghiệm Điều này gợi ý rằng hòa giải thương mại quốc tế có thể phát triển tương tự như trọng tài thương mại quốc tế, vốn từng hiếm hoi trước khi Công ước New York được áp dụng rộng rãi Nhiều chuyên gia cho rằng sự hấp dẫn của hòa giải sẽ tăng lên nếu các thỏa thuận đạt được từ hòa giải được thi hành ngay lập tức thông qua cơ chế thi hành trong một điều ước đa phương.

6 S I Strong, “Realizing Rationality: An Empirical Assessment of International Commercial Mediation”, 73

Washington & Lee Law Review, 1973 (2016), tr 2023

In recent discussions surrounding the enforcement of mediated settlement agreements (MSAs), several key articles have emerged Chang-Fa Lo highlights the need for a new international legal framework for cross-border enforcement of MSAs, emphasizing its desirability in the Contemporary Asia Arbitration Journal S.I Strong explores the potential of international commercial mediation beyond traditional arbitration, suggesting significant benefits in the Washington University Journal of Law & Policy Bobette Wolski raises critical questions regarding the enforcement of MSAs and outlines directions for future research, further contributing to the discourse in the same journal Lastly, Eunice Chua addresses the future of international MSAs, examining conventions, challenges, and choices in her article for Tan Pan Online These works collectively underscore the evolving landscape of international mediation and the pressing need for cohesive enforcement mechanisms.

A Chinese-English Journal on Negotiation (2015); Anna KC Koo, “Enforcing international Mediated

Settlement Agreements” trong MP Ramaswamy and J Ribeiro (eds), Harmonising Trade Law to Enable

Private Sector Regional Development, CLJP Hors Serie Volume XX (2016), tr 81; cũng xem UNCITRAL

Working Group II focuses on arbitration and conciliation concerning the enforceability of settlement agreements arising from international commercial mediation The group is revising the UNCITRAL Notes on Organizing Arbitral Proceedings, incorporating feedback received from various States to enhance the framework for resolving commercial disputes effectively.

Secretariat, 62 nd Session, UN Doc A/CN.9/WG.II/WP.188 (23/12/2014), tr 6

Quy định pháp luật hiện nay ở nhiều quốc gia cho thấy có ba cách phổ biến để thi hành các MSA Thứ nhất, nếu không có quy định cụ thể, MSA sẽ được coi như một thỏa thuận thương mại tư và có thể thi hành theo luật hợp đồng Trong trường hợp tranh chấp phát sinh từ vi phạm hợp đồng, hòa giải có thể kém hấp dẫn vì một thỏa thuận thành công chỉ dẫn đến việc ký kết hợp đồng mới, có thể bị kiện nếu bên kia không tuân thủ Thứ hai, MSA có thể được thi hành như bản án hoặc quyết định của tòa án Cuối cùng, MSA cũng có thể được chuyển hóa thành phán quyết trọng tài để phục vụ cho mục đích thi hành.

Khi pháp luật quốc gia quy định về việc thi hành thỏa thuận trọng tài quốc tế (TTGQ), việc thực thi trên bình diện quốc tế có thể gặp khó khăn do sự khác biệt trong khung pháp lý giữa các quốc gia về việc thi hành bản án nước ngoài Ngoài ra, vẫn còn nhiều quan điểm trái ngược về khả năng thi hành một thỏa thuận trọng tài quốc tế (iMSA) theo Công ước New York Điều này có thể làm giảm sức hấp dẫn của hòa giải, bởi các bên có thể cảm thấy rằng công sức và thời gian đã bỏ ra để đạt được TTGQ sẽ trở nên vô nghĩa nếu bên kia không thực hiện, dẫn đến việc bên tìm kiếm sự tuân thủ phải khởi động lại quy trình tố tụng tại tòa án hoặc trọng tài.

Tại kỳ họp UNCITRAL năm 2014, đại diện Mỹ đã đề xuất rằng NCT nên xem xét cách tăng cường tính hấp dẫn của hòa giải bằng cách cho phép thi hành ngay các thỏa thuận giải quyết tranh chấp (TTGQ) đạt được từ hòa giải theo các điều ước quốc tế tương tự như Công ước New York Đề xuất này được đưa ra nhằm giải quyết vấn đề thiếu khả năng thi hành TTGQ trong các tranh chấp thương mại quốc tế, điều này có thể cản trở việc áp dụng rộng rãi hơn quy trình hòa giải và dẫn đến việc kiện tụng.

8 UNCITRAL Working Group II (Arbitration and Conciliation), Settlement of Commercial Disputes: Enforceability of Settlement Agreements Resulting from International Commercial Conciliation/Mediation,

UN Doc A/CN.9/WG.II/WP.187 (27/11/2017), đoạn 21 – 26

9 Bobette Wolski, “Enforcing Mediated Settlement Agreements (MSAs): Critical Questions and Directions for Future Research”, Contemporary Asia Arbitration Journal, Vol 7(1) (2014), 87-118, tr 94

10 Edna Sussman, “The Singapore Convention – Promoting the Enforcement and Recognition of International Mediated Settlement Agreements”, ICC Dispute Resolution Bulletin, Issue 3, 2018, tr 46 – 47

Tại kỳ họp thứ 62, UNCITRAL đã thảo luận về việc thực thi kết quả hòa giải thành trong bối cảnh gia tăng công việc và áp lực cho tòa án, đặc biệt liên quan đến các vụ kiện tuân thủ NCT cần xem xét vấn đề thực thi xuyên biên giới của các thỏa thuận hòa giải Một câu hỏi quan trọng được nêu ra trong các kỳ họp sau là hình thức của văn kiện quốc tế liên quan đến việc thi hành kết quả hòa giải, liệu nên là một công ước hay các điều khoản lập pháp mẫu.

Các quốc gia ủng hộ đề xuất cho rằng Công ước New York đã tạo điều kiện cho việc thi hành các phán quyết trọng tài xuyên biên giới, do đó, cần có một văn bản tương tự để thực hiện các iMSA Sự thiếu vắng một công ước như Công ước New York về hòa giải được coi là nguyên nhân khiến hòa giải ít được áp dụng trong các tranh chấp thương mại Tại kỳ họp thứ 68 ở New York, NCT đã đạt được sự đồng thuận về việc soạn thảo hai văn kiện: Công ước về các thỏa thuận giải quyết quốc tế từ hòa giải và văn kiện sửa đổi Luật Mẫu về Hòa giải thương mại quốc tế năm 2002 của UNCITRAL Vào tháng 6/2018, tại kỳ họp thứ 51, UNCITRAL đã thông qua các sửa đổi đối với Luật Mẫu và đệ trình bản thảo cuối cùng của Công ước lên ĐHĐLHQ.

12 UNCITRAL, Report of Working Group II (Arbitration and Conciliation) on the work of its sixty-second session, 48 th Session, UN Doc A/CN.9/832 (11/02/2015), đoạn 13

13 Xem thêm lập luận của các quốc gia về sự ủng hộ đối với Công ước hoặc Luật Mẫu tại UNCITRAL,

Report of Working Group II (Dispute Settlement) on the work of its sixty-fifth session (Vienna, 12-23 September 2016), 50 th Session, UN Doc A/CN.9/896 (30/9/2016), đoạn 136 – 140

The iMSA outlines 14 key terms related to international settlement agreements achieved through mediation, widely recognized in the mediation community For further insights, refer to "Mediation in International Commercial and Investment Disputes," edited by Catharine Titi and Katia Fach Gomez, published by Oxford Press in 2019 Additional resources include Chang-Fa Lo's commentary and Natalie Y Morris-Sharma's article, "Constructing the Convention on Mediation – The Chairperson's Perspective," featured in the Singapore Academy of Law Journal, Vol 31 (2019).

15 UNCITRAL, tlđd, chú thích số 13, đoạn 137

16 UNCITRAL, Report of Working Group II (Dispute Settlement) on the work of its sixty-eighth session, 51 st Session, UN Doc A/CN.9/934 (19/02/2018), đoạn 13

17 Luật Mẫu của UNCITRAL về Hòa giải thương mại quốc tế năm 2002, xem nguyên văn tại:

Luật Mẫu của UNCITRAL về Hòa giải thương mại quốc tế và Thỏa thuận giải quyết quốc tế đạt được từ Hòa giải, được sửa đổi vào năm 2018, cung cấp khung pháp lý quan trọng cho các bên trong quá trình hòa giải Tài liệu này nhằm thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp hiệu quả và nhanh chóng trong lĩnh vực thương mại quốc tế Nội dung chi tiết có thể được tham khảo tại trang web của UNCITRAL.

Vào ngày 20/12/2018, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước về Thỏa thuận giải quyết quốc tế đạt được từ Hòa giải, được gọi là Công ước Singapore về Hòa giải Theo ủy quyền của Liên Hợp Quốc, Công ước này đã được mở cho việc ký kết tại buổi lễ diễn ra ở Singapore vào ngày 07/8/2019 Thông tin chi tiết có thể được tham khảo tại tài liệu của UNCITRAL.

1.1.2 Giải thích Công ƣớc theo Công ƣớc Viên 1969

Công ước Singapore là một điều ước quốc tế đa phương, do đó, nó phải tuân thủ luật quốc tế Khi áp dụng, Công ước này được giải thích theo quy tắc tại Điều 31 của Công ước Viên 1969.

Nguyên tắc tại Điều 31 quy định rằng việc giải thích các điều khoản của một điều ước phải dựa vào nội dung và mục tiêu của nó Theo Ủy ban Luật Quốc tế, mục tiêu và mục đích của điều ước cần được xác định một cách thiện chí, xem xét các điều khoản, tiêu đề và lời mở đầu của chính điều ước Bên cạnh đó, quá trình chuẩn bị và hoàn cảnh ký kết cũng có thể giúp làm rõ những mục tiêu và mục đích này.

Để nắm bắt rõ ràng mục tiêu và ý nghĩa của Công ước, cũng như hỗ trợ cho việc giải thích nội dung của nó, phần Lời mở đầu sẽ được phân tích chi tiết trong phần tiếp theo.

18 United Nations, Report of the United Nations Commission on International Trade Law, Fifty-first Session

(25 June–13 July 2018), 73 rd Session, Supp No 17, UN Doc A/73/17, tr 4 – 11

20 Điều 31 Công ước Viên 1969 quy định:

Một điều ước cần được giải thích một cách thiện chí, phù hợp với nghĩa thông thường của các thuật ngữ trong nguyên bản, đồng thời chú trọng đến đối tượng và mục đích của điều ước.

2 Phần nội dung để giải thích một điều ước, ngoài chính nội dung văn bản, lời nói đầu và các phụ lục sẽ bao gồm:

Nội dung các điều khoản chính

Theo Điều 1 của Công ước Singapore, để một thỏa thuận hòa giải được công nhận, nó cần đáp ứng các tiêu chí sau: phải là kết quả của quá trình hòa giải, mang tính chất quốc tế và thương mại, được lập thành văn bản, và không thuộc các trường hợp bị loại trừ.

Công ước quy định tại Điều 1(1) áp dụng cho các thỏa thuận được hình thành từ quá trình hòa giải và phải được các bên ký kết bằng văn bản.

Hòa giải đang trở thành một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế và nội địa, được coi là sự thay thế hiệu quả cho kiện tụng.

Việc sử dụng hòa giải mang lại nhiều lợi ích quan trọng, bao gồm việc giảm thiểu các trường hợp tranh chấp dẫn đến việc chấm dứt mối quan hệ thương mại Hòa giải cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý các giao dịch quốc tế giữa các bên thương mại, đồng thời giúp tiết kiệm chi phí cho việc thực thi công lý của các quốc gia.

Để đảm bảo sự hình thành một khuôn khổ cho các thỏa thuận giải quyết quốc tế từ hòa giải, cần phù hợp với các quốc gia có hệ thống pháp luật, xã hội và kinh tế khác nhau Điều này sẽ góp phần vào sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế quốc tế hài hòa Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại phải mang tính quốc tế tại thời điểm ký kết.

Thỏa thuận giải quyết theo Điều 1(1) là văn bản ký kết giữa các bên trong tranh chấp thương mại, kết quả từ quá trình hòa giải nhằm giải quyết toàn bộ hoặc một phần tranh chấp Khác với Công ước New York, điều chỉnh cả thỏa thuận và phán quyết trọng tài, Công ước Singapore chỉ áp dụng cho thỏa thuận giải quyết đạt được từ hòa giải, không điều chỉnh thỏa thuận hòa giải Theo Điều 2(3) của Công ước, hòa giải là một quá trình mà các bên cố gắng đạt được giải pháp thân thiện với sự hỗ trợ của hòa giải viên, người không có quyền áp đặt giải pháp lên các bên.

Hòa giải được định nghĩa là một quá trình mà các bên tìm kiếm giải quyết tranh chấp một cách thân thiện với sự hỗ trợ của bên thứ ba không có quyền áp đặt giải pháp Định nghĩa này bao gồm cả những phương thức không chính thức nhưng vẫn đáp ứng các yếu tố đã nêu Theo Điều 1(8) của Luật Mẫu, hòa giải có thể dựa trên thỏa thuận giữa các bên, một nghĩa vụ pháp lý, hoặc một đề xuất từ tòa án, cho phép linh hoạt trong việc áp dụng hòa giải trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra.

25 UNCITRAL, Report of Working Group II (Arbitration and Conciliation) on the Work of its Sixty-fourth Session (New York, 1-5 Feb 2015), 49 th Session, UN Doc A/CN.9/867 (10/02/2016), đoạn 132

Công ước New York quy định tại Điều 1(1) rằng việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài phải diễn ra giữa các Quốc gia khác nhau Điều 2(1) yêu cầu các Quốc gia thành viên công nhận thỏa thuận bằng văn bản về việc đưa tranh chấp ra trọng tài Các bên có thể tham gia hòa giải một cách tự nguyện hoặc bắt buộc, nhưng cần đạt được sự thỏa thuận giải quyết một cách tự nguyện Điều 2(3) cho phép hòa giải viên (HGV) có thể trở thành trọng tài viên, miễn là HGV không có thẩm quyền ban hành phán quyết tại thời điểm hòa giải Tuy nhiên, định nghĩa không áp dụng cho trường hợp thẩm phán là HGV nếu thẩm phán đó đang có trách nhiệm quyết định trong vụ kiện, nhằm tránh áp lực từ thẩm phán lên các bên.

Công ước không quy định rõ mức độ tham gia của HGV trong quá trình giải quyết tranh chấp HGV không cần phải tham gia toàn bộ quá trình; ví dụ, theo Snachbel 29, nếu các bên đã tìm ra giải pháp cho hầu hết các vấn đề, HGV có thể cho phép họ tự giải quyết các vấn đề còn lại Tương tự, HGV có thể hỗ trợ các bên vượt qua những khía cạnh gây tranh cãi, sau đó để họ tự hoàn tất phần còn lại Việc giải quyết như vậy vẫn đáp ứng yêu cầu của thỏa thuận đạt được từ hòa giải Tuy nhiên, nếu một thỏa thuận được hình thành từ quá trình giải quyết tranh chấp mà bên thứ ba có quyền áp đặt quyết định ràng buộc các bên, thì sẽ không được điều chỉnh bởi Công ước.

Các bên tranh chấp có thể có những hiểu biết khác nhau về bản chất của quá trình giải quyết tranh chấp Ví dụ, họ có thể tham gia vào một quá trình tương tự như hòa giải mà không nhận ra rằng thỏa thuận đạt được có thể thuộc phạm vi áp dụng của Công ước Do đó, khi xác định liệu một quá trình giải quyết tranh chấp có phù hợp với định nghĩa tại Điều 2(3) của Công ước hay không, các tòa án cần xem xét từng trường hợp cụ thể.

27 Timothy Schnabel, “The Singapore Convention on Mediation: A Framework for the Cross-Border Recognition and Enforcement of Mediated Settlements”, Pepperdine Dispute Resolution Law Journal, Vol 19(1) (2018), tr 17

29 Như chú thích trên xét sự hiểu biết và mong muốn của các bên về bản chất của quá trình mà họ đã tham gia 30 c) Tính thương mại

Công ước giới hạn áp dụng của mình đối với các tranh chấp thương mại, do những vấn đề thương mại thuộc nhiệm vụ truyền thống của UNCITRAL và các vấn đề không mang tính chất thương mại có thể xung đột với chính sách công của các nền văn hóa pháp lý và hoàn cảnh quốc gia khác nhau Mặc dù Công ước không định nghĩa rõ tính thương mại, nhưng nó có thể được hiểu theo nghĩa rộng như được nêu trong chú thích 1 của Luật Mẫu.

Thuật ngữ "thương mại" cần được hiểu rộng rãi để bao quát tất cả các quan hệ thương mại, bao gồm cả hợp đồng và không hợp đồng Các quan hệ này không chỉ giới hạn ở giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, mà còn bao gồm phân phối, đại diện thương mại, bao thanh toán, thuê mua, xây dựng công trình, tư vấn, kỹ thuật, li-xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thỏa thuận khai thác, nhượng quyền khai thác, liên doanh và các hình thức hợp tác công nghiệp khác, cũng như vận tải hàng hóa và hành khách qua các phương tiện như hàng không, biển, đường sắt và đường bộ.

Công ước giới hạn áp dụng cho các MSA mang tính quốc tế nhằm tránh can thiệp vào luật nội địa của các quốc gia Theo Điều 1(1) của Công ước, MSA được coi là quốc tế nếu ít nhất hai bên trong tranh chấp có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau hoặc tại quốc gia nơi các bên có trụ sở.

30 Jernej Sekolec and Michael B Getty, “UMA and the UNCITRAL Model Rule: An Emerging Consensus on Mediation and Conciliation”, Journal of Dispute Resolution (2003), Vol 2003(1), tr 185

31 UNCITRAL, Report of Working Group II (Arbitration and Conciliation) on the work of its sixty-third session (Vienna, 7-11 September 2015), 49 th Session, UN Doc A/CN.9/861 (17/9/2015), đoạn 42

Theo UNCITRAL, các nghĩa vụ trong một thỏa thuận thương mại quốc tế có thể được xác định dựa trên hai tiêu chí: (i) quốc gia nơi một phần quan trọng của các nghĩa vụ được thực hiện, hoặc (ii) quốc gia mà đối tượng của thỏa thuận có mối liên hệ chặt chẽ nhất.

MSA (Thỏa thuận giải quyết tranh chấp) cần phải có tính quốc tế tại thời điểm ký kết, bất kể các yếu tố khác đã được đáp ứng trong quá trình hòa giải hay khi yêu cầu thi hành Điều này có nghĩa là một MSA vẫn có thể mang tính quốc tế ngay cả khi quá trình thỏa thuận không có yếu tố quốc tế, chẳng hạn như khi một bên thay đổi trụ sở trong quá trình hòa giải Tính quốc tế thường được xác định dễ dàng khi các bên có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau Tuy nhiên, nếu cả hai bên đều có trụ sở tại cùng một quốc gia, tính quốc tế của MSA vẫn có thể được thỏa mãn nếu quốc gia đó khác với nơi mà một phần quan trọng của các nghĩa vụ trong MSA được thực hiện hoặc khác với quốc gia có liên hệ chặt chẽ nhất với đối tượng của MSA.

KINH NGHIỆM THAM GIA CÔNG ƯỚC SINGAPORE VỀ HÒA GIẢI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA CHÂU Á – KHẢ NĂNG GIA NHẬP CỦA VIỆT NAM

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
19. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
1. Nguyễn Thanh Tâm, “Phương thức hòa giải trung gian trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 9/2017, tr. 60 – 70 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương thức hòa giải trung gian trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế”, "Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
2. Nguyễn Thị Xuân Hương, Pháp luật về hòa giải thương mại, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TPHCM, 2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về hòa giải thương mại
3. Nguyễn Trung Nam, “Hòa giải thương mại tại Việt Nam”, 2019, <http://www.viac.vn/goc-nhin-trong-tai-vien/hoa-giai-thuong-mai-tai-viet-nam-a694.html&gt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hòa giải thương mại tại Việt Nam
4. Phạm Thanh Nga, “Xu thế mới để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 11(44) và Số 12(33), 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xu thế mới để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
6. Trần Phương Anh, Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng hoà giải – Kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội, 2016. VCI Legal, “Công ước Singapore về Hòa giải 2019”,<http://www.vci-legal.com/vi/2019/08/cong-uoc-singapore-ve-hoa-giai-2019/>.B. Tài liệu tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng hoà giải – Kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam", Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội, 2016. VCI Legal, “Công ước Singapore về Hòa giải 2019
8. Bobette Wolski, “Enforcing Mediated Settlement Agreements (MSAs): Critical Questions and Directions for Future Research”, Contemporary Asia Arbitration Journal, Vol 7(1) (2014), p. 87-118 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Enforcing Mediated Settlement Agreements (MSAs): Critical Questions and Directions for Future Research”, "Contemporary Asia Arbitration Journal
Tác giả: Bobette Wolski, “Enforcing Mediated Settlement Agreements (MSAs): Critical Questions and Directions for Future Research”, Contemporary Asia Arbitration Journal, Vol 7(1)
Năm: 2014
9. Carlos Esplugues and Louis Marquis (Eds), New Developments in Civil and Commercial Mediation – Global Comparative Perspectives, Springer International Publishing (2015) Sách, tạp chí
Tiêu đề: New Developments in Civil and Commercial Mediation – Global Comparative Perspectives
10. Carrie Shu Shang and Ziyi Huang, “Singapore Convention in light of China‟s Changing Mediation Scene”, Asia Pacific Mediation Journal (forthcoming March 2020), <https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3539739&gt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Singapore Convention in light of China‟s Changing Mediation Scene”
11. Catharine Titi and Katia Fach Gómez (Eds), Mediation in International Commercial and Investment Disputes, Oxford University Press (2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mediation in International Commercial and Investment Disputes
12. Chang-Fa Lo, “Desirability of A New International Legal Framework for Cross-border Enforcement of certain Mediated Settlement Agreements”, Contemporary Asia Arbitration Journal, Vol. 7, No. 1 (2014) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Desirability of A New International Legal Framework for Cross-border Enforcement of certain Mediated Settlement Agreements”, "Contemporary Asia Arbitration Journal
13. Danny McFadden, “The Growing Importance of Regional Mediation Centres in Asia” trong Catharine Titi and Katia Fach Gómez (Eds), Mediation in International Commercial and Investment Disputes, Oxford University Press (2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Growing Importance of Regional Mediation Centres in Asia” trong Catharine Titi and Katia Fach Gómez (Eds), "Mediation in International Commercial and Investment Disputes
14. Edna Sussman, “The Singapore Convention – Promoting the Enforcement and Recognition of International Mediated Settlement Agreements”, ICC Dispute Resolution Bulletin, Issue 3, 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Singapore Convention – Promoting the Enforcement and Recognition of International Mediated Settlement Agreements”, "ICC Dispute Resolution Bulletin
15. EU SME Centre, “Dispute settlement with Chinese companies”, 2012, <http://ccilc.pt/wp-content/uploads/2017/07/RESOLUCAO_DE_LITIGIOS_COM_EMPRESAS_CHINESAS_EN_EUSMECENTER.pdf&gt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dispute settlement with Chinese companies
16. Eunice Chua, “The future of international mediated settlement agreements: Of Conventions, Challenges and Choices”, Tan Pan Online: A Chinese-English Journal on Negotiation, 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The future of international mediated settlement agreements: Of Conventions, Challenges and Choices”, "Tan Pan Online: A Chinese-English Journal on Negotiation
17. Eunice Chua, “Enforcement of International Mediated Settlement Agreements in Asia – A Path towards Convergence”, Asian International Arbitration Journal, Vol 15(1) (2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Enforcement of International Mediated Settlement Agreements in Asia – A Path towards Convergence”", Asian International Arbitration Journal
18. Eunice Chua, “The Singapore Convention on Mediation – A Brighter Future for Asian Dispute Resolution”, Asian Journal of International Law, Vol 9 (2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Singapore Convention on Mediation – A Brighter Future for Asian Dispute Resolution”, "Asian Journal of International Law
20. Gloria LIM, “International Commercial Mediation – The Singapore Model”, Singapore Academy of Law Journal, Vol 31(377) (2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Commercial Mediation – The Singapore Model”, "Singapore Academy of Law Journal
21. Gyooho Lee, Keon-Hyung Ahn and Jacques de Werra, “Euro-Korean Perspectives on the Use of Arbitration and ADR Mechanisms for Solving Intellectual Property Disputes”, Arbitration International, Vol. 30(1) (2014) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Euro-Korean Perspectives on the Use of Arbitration and ADR Mechanisms for Solving Intellectual Property Disputes”, "Arbitration International
24. Jernej Sekolec and Michael B. Getty, “UMA and the UNCITRAL Model Rule: An Emerging Consensus on Mediation and Conciliation”, Journal of Dispute Resolution, Vol 2003(1) Sách, tạp chí
Tiêu đề: UMA and the UNCITRAL Model Rule: An Emerging Consensus on Mediation and Conciliation”, "Journal of Dispute Resolution

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w