1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp 2005 một số vấn đề lý luận và thực tiễn

64 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Công Ty Hợp Danh Theo Luật Doanh Nghiệp 2005 – Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Long
Người hướng dẫn Th.S. Bùi Thị Thanh Thảo
Trường học Trường Đại Học Luật TP HCM
Chuyên ngành Luật Thương Mại
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân Luật
Năm xuất bản 2012
Thành phố TP HỒ CHÍ MINH
Định dạng
Số trang 64
Dung lượng 1,31 MB

Cấu trúc

  • BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

  • NGUYỄN THỊ THANH LONG

  • CÔNG TY HỢP DANH

  • THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 – MỘT SỐ

  • VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

  • KHÓA LUẬT TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

  • TP HCM – 2012

  • LỜI CAM ĐOAN

  • DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1

  • NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH

    • 1.1. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của CTHD và pháp luật về CTHD

      • 1.1.1. Trên thế giới

      • 1.1.2. Ở Việt Nam

    • 1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của CTHD

      • 1.2.1. Khái niệm

      • 1.2.2. Đặc điểm pháp lý của CTHD

    • 1.3. Mô hình CTHD theo pháp luật một số nước trên thế giới

      • 1.3.1. Mô hình CTHD theo pháp luật Hoa Kỳ

      • 1.3.2. Mô hình CTHDtheo pháp luật Đức

      • 1.3.3. Mô hình CTHD theo pháp luật Nhật Bản

  • CHƯƠNG 2

  • MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG TY HỢP DANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 – THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

    • 2.1. Một số vấn đề pháp lý cơ bản về CTHD theo Luật doanh nghiệp 2005

      • 2.1.1. Quy chế thành viên

        • 2.1.1.1. Điều kiện trở thành thành viên CTHD

        • 2.1.1.2. Xác lập và chấm dứt tư cách thành viên CTHD

        • 2.1.1.3. Quyền và nghĩa vụ của thành viên CTHD

      • 2.1.2. Cơ cấu tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của CTHD

        • 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức, quản lý CTHD

        • 2.1.2.2. Điều hành hoạt động của CTHD

      • 2.1.3. Chế độ tài chính trong CTHD

        • 2.1.3.1. Nguồn hình thành tài sản CTHD

        • 2.1.3.2. Nguyên tắc phân chia lợi nhuận

      • 2.1.4. Tổ chức lại CTHD

    • 2.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTHD

      • 2.2.1. Tổ chức và hoạt động

      • 2.2.2. Quy chế thành viên

      • 2.2.3. Chế độ tài chính

  • KẾT LUẬN

  • Các tài liệu khác và website

  • 1. Nguyễn Băng Tú (2005), Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành-Những bất cập và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Tp. Hồ Chí Minh.

  • 2. Nguyễn Thị Kim Thoa (2006), Địa vị pháp lý của công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2005, Luận văn thạc sĩ luật học, Tp. Hồ Chí Minh.

  • 3. Phạm Thị Nguyệt Sương (2004), Địa vị pháp lý của công ty hợp danh, Luận văn cử nhân luật học, Tp. Hồ Chí Minh.

  • 4. Trần Đức Phượng (2001), Chế độ pháp lý về công ty hợp danh, Luận văn cử nhân luật học, Tp. Hồ Chí Minh.

  • 5. http://www.gso.gov.vn

  • 6. http://dddn.com.vn/home.htm

  • 7. www.hcmulaw.edu.vn

  • 8. http://www.phapluatvn.vn/

  • 9. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/

Nội dung

ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH

Sơ lƣợc l ch sử hình thành, phát triển của CTHD và pháp luật về CTHD

Công ty cổ phần (CTCP) thể hiện rõ bản chất của loại hình doanh nghiệp đối vốn, ra đời cùng với sự phát triển của thị trường vốn và tiền tệ Trong khi đó, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) là sản phẩm của hoạt động lập pháp của người Đức, được hình thành qua đạo luật về công ty năm 1892 với mô hình Gesellschaft mit beschränkter Haftung (GmbH) Ngược lại, công ty hợp danh (CTHD) xuất hiện sớm hơn, mang đặc trưng của công ty đối nhân và là kết quả tất yếu của quá trình kinh doanh thương mại.

Hợp danh đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, với những chỉ dẫn đầu tiên được ghi nhận trong Bộ luật Hammurabi của Babylon khoảng năm 2300 trước Công nguyên Người Do Thái đã hình thành thuật ngữ shutolin, một dạng hợp danh phi thương mại, vào khoảng những năm 2000 trước Công nguyên Sau đó, các hợp danh mang tính chất thương mại của người Do Thái đã được hình thành từ những đoàn hội buôn Tại châu Âu, luật về hợp danh cũng bắt nguồn từ tập quán của các thương nhân.

Pháp luật sử dụng các thuật ngữ như "societas" và "société en commun dite" để chỉ các hình thức hợp danh "Societas" đề cập đến hình thức hợp danh chỉ bao gồm các thành viên hợp danh, trong khi "société en commun dite" bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.

Hợp đồng được quy định trong Luật La Mã, như Bộ luật Justinian, có nhiều điểm tương đồng với luật hiện đại Người La Mã đã hình thành các quy định về đại diện, tạo nền tảng cho nhiều quy định của luật hợp đồng ngày nay Chẳng hạn, Luật La Mã quy định "qui facit per alium facit per se", tức là người thực hiện hành vi thông qua hành vi của người khác cũng bị coi là thực hiện hành vi đó Ngoài ra, Luật La Mã còn xác định sự lựa chọn tự nguyện của các bên tham gia, phản ánh bản chất của hợp đồng.

6 v nguyên tắc đư c gọi tên delectus personas - sự ựa chọn của c nh n, cho đến nay vẫn th nh tố mang t nh trung t m của uật về h p danh 1

Người phương Đông đã quen thuộc với các hình thức tổ chức như phường, hội và cuộc, nhưng mô hình hội người (societas) theo luật dân sự và thương mại, cũng như mô hình hợp danh (partnership) theo pháp luật Anh – Mỹ, chỉ mới được du nhập trong một hoặc hai thế kỷ gần đây.

CTHD là hình thức công ty có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất, được ghi nhận là một trong những loại hình công ty đầu tiên trên thế giới Các công ty đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ XIII tại một số thành phố lớn ở châu Âu Theo các tài liệu về quá trình phát triển của công ty, nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các thương nhân liên kết hình thành nên công ty theo cách hiểu truyền thống.

Nhu cầu về vốn và sự phát triển của hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng tăng, đòi hỏi các doanh nhân phải nâng cao năng lực tài chính Quy trình tích tụ vốn thường mất thời gian, không thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn cho các cơ hội kinh doanh tức thời Do đó, việc hợp nhất các năng lực riêng lẻ của nhiều thương nhân thành một khối chung là một giải pháp hiệu quả mà các thương nhân có thể áp dụng.

Trong thời kỳ đầu, trách nhiệm từ các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của thương nhân là trách nhiệm cá nhân và vô hạn Do đó, khi một hoạt động kinh doanh gặp rủi ro hoặc thất bại, các thương nhân dễ dàng rơi vào tình trạng khánh tận Từ đó, nhu cầu chia sẻ rủi ro đã hình thành, với nhiều thương nhân hợp tác cùng nhau, gánh chịu những tổn thất, khó khăn và rủi ro có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh.

Bán lẻ đang đối mặt với nhu cầu hợp tác để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển thương hiệu Sự phát triển của thị trường yêu cầu các mô hình kinh doanh phải hoàn thiện và điều chỉnh cho phù hợp với áp lực cạnh tranh từ các loại hình doanh nghiệp khác Các thương nhân cần phải thành lập các công ty với sự tham gia của các thành viên trong ngành để thích ứng với tình hình thực tiễn của từng quốc gia.

1 Lê Việt Anh (2008), “Về tư c ch ph p nh n của CTHD”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 113), tr26.

2 Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình Luật Kinh tế (Tập 1: Luật Doanh nghiệp), NXB ĐHQG H Nội, H Nội, tr.52.

3 Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2008 ), Tập bài giảng Chủ thể kinh doanh, tr.148

Công ty hợp vốn đơn giản là mô hình doanh nghiệp trong đó các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh Hình thức này cho phép thương nhân và các cá nhân không trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn có thể góp vốn và chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình.

Vấn đề trách nhiệm vô hạn trong mô hình hợp danh có thể được giải thích qua điều kiện kinh tế xã hội và trình độ hiểu biết hiện tại Theo quan điểm đơn giản, khi thiếu hụt, chủ nợ có quyền yêu cầu trả nợ, dẫn đến việc những người tham gia hợp danh phải thực hiện nghĩa vụ của mình, kể cả khi điều đó ảnh hưởng đến tài sản cá nhân của họ Hơn nữa, việc này có thể tạo ra sự ngần ngại cho nhiều người, vì trách nhiệm tối đa giúp doanh nghiệp thu hút khách hàng tốt hơn, từ đó xây dựng lòng tin khi khách hàng giao dịch với một nhóm thay vì chỉ một cá nhân như trước đây.

Mô hình này không có người đại diện duy nhất theo hợp đồng, mà mỗi thành viên đều là người quản lý, đại diện cho công ty Do đó, chỉ cần một thành viên không trung thực hoặc phạm sai lầm sẽ gây ra ảnh hưởng không chỉ đối với cá nhân đó mà còn tác động đến toàn bộ công ty.

Từ nhu cầu quản lý công ty và mối quan hệ giữa các thành viên, đã nảy sinh yêu cầu cần có quy định riêng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc thành lập, phát triển, hoạt động và chấm dứt hoạt động của công ty hợp danh Những quy định pháp luật này sẽ tạo tiền đề cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty hợp danh ở các nước trên thế giới.

Lịch sử công ty hợp danh (CTHD) gắn liền với các quy định về liên kết, hợp đồng và các quan hệ nội bộ trong Luật La Mã Luật công ty hiện đại phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ tự do hóa tư sản Tại Pháp, từ thế kỷ XVII, Đạo dụ năm 1673 đã quy định về công ty hợp vốn đơn giản Đến năm 1807, Cộng hòa Pháp đã ban hành Bộ luật thương mại, thiết lập nền tảng cho tự do kinh doanh Năm 1811, Luật công ty chung của Hoa Kỳ được ban hành tại New York, xác định các quyền lợi cần thiết trong công ty từ thời điểm khởi sự kinh doanh.

Công ty TNHH (CTHD) ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong lĩnh vực kinh doanh thương mại của các thương nhân Sự xuất hiện của các quy định điều chỉnh về CTHD đã tạo ra một cơ sở pháp lý quan trọng, giúp mô hình tổ chức này trở nên phù hợp với nền kinh tế hiện tại và thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nhân Mối quan hệ này thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa nhu cầu thực tiễn và các quy định pháp lý trong kinh doanh.

Khái niệm, đặc điểm pháp lý của CTHD

Theo điều 130, Luật Doanh nghiệp 2005, CTHD đư c quy định như sau:

CTHD là một loại hình doanh nghiệp yêu cầu tối thiểu hai thành viên, những người này cùng nhau sở hữu và điều hành công ty dưới một tên chung, được gọi là thành viên hợp danh Bên cạnh các thành viên hợp danh, doanh nghiệp còn có thể có thành viên góp vốn.

- Thành viên h p danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về c c nghĩa vụ của công ty

- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản n của công ty trong phạm vi số vốn đã g p v o công ty

- CTHD c tư c ch ph p nh n từ ng y đư c cấp Giấy chứng nh n đăng ký kinh doanh

- CTHD hông đư c phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào

So với LDN 1999, định nghĩa về CTHD đã có sự thay đổi đáng kể, đặc biệt là trong việc xác định tư cách pháp nhân của CTHD Sự công nhận CTHD là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đã tạo ra nhiều ý kiến và quan điểm trái ngược nhau, điều này sẽ được phân tích rõ hơn ở phần tiếp theo.

Theo khái niệm của LDN 2005, CTHD phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, bên cạnh đó có thể có thành viên góp vốn Điều này dẫn đến hai loại CTHD: loại chỉ có thành viên hợp danh và loại vừa có thành viên hợp danh vừa có thành viên góp vốn Hai loại thành viên này có quy chế pháp lý khác nhau So với quan niệm truyền thống về công ty, pháp luật Việt Nam đã kết hợp mô hình CTHD truyền thống với công ty hợp vốn đơn giản vào một khái niệm chung về CTHD.

Việc quy định một hình thức duy nhất cho CTHD tại Việt Nam đã tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau Nhiều ý kiến cho rằng CTHD theo pháp luật Việt Nam có nội hàm rộng hơn so với quan niệm phổ biến trên thế giới.

7 Th S Đồng Ngọc Ba (2005), “Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam”,

Tạp chí Luật học, (số1), tr.12

CTHD, hay Công ty hợp danh, là một hình thức công ty đối nhân chỉ có một loại thành viên duy nhất, với các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty Điểm khác biệt giữa CTHD và các loại hình công ty đối nhân khác, như công ty hợp vốn đơn giản (công ty hợp danh hữu hạn), là CTHD chỉ có thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn, trong khi công ty hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên: thành viên hợp danh (chịu trách nhiệm vô hạn) và thành viên góp vốn (chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp).

Công ty hợp danh (CTHD) ở Việt Nam chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của các nhà lập pháp Pháp, được quy định bởi Luật số 66-537 ban hành ngày 24/7/1966 Theo đó, từ điều 12 đến 22, CTHD được định nghĩa là loại hình công ty thương mại có ít nhất hai thành viên, trong đó tất cả đều là thương nhân, cùng thực hiện hoạt động thương mại dưới một tên chung và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty CTHD cũng khác biệt với công ty hợp vốn đơn giản, trong đó có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên nhận vốn) và các thành viên còn lại chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp vào công ty (thành viên góp vốn).

Pháp luật trên thế giới hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về công ty hợp danh (CTHD) Tại Hoa Kỳ, Philippines và Thái Lan, CTHD được hiểu rộng hơn so với Pháp Trong khi đó, Singapore và Malaysia chỉ có một hình thức duy nhất, đó là CTHD thông thường Ở các quốc gia này, CTHD thông thường được định nghĩa là một tổ chức được thành lập và sở hữu bởi hơn hai người, những người này có quyền bình đẳng trong việc quản lý công ty và cùng chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các nghĩa vụ của công ty trong phạm vi tài sản của họ, bao gồm cả những tài sản không đưa vào kinh doanh.

Quy định hai loại hình công ty hợp danh (CTHD) với chế độ pháp lý tương tự trong pháp luật Việt Nam đã tạo ra một cách lý giải mới cho vấn đề chuyển đổi giữa các loại hình này Các nhà lập pháp không đặt ra thủ tục chuyển đổi phức tạp, giúp giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp Điều này làm cho mô hình CTHD tại Việt Nam trở nên linh hoạt hơn, phù hợp với sự năng động trong hoạt động kinh doanh.

Theo quan điểm của người viết, cách giải thích hiện tại chưa thuyết phục, vì có sự khác biệt rõ rệt giữa công ty hợp danh (CTHD) chỉ có thành viên hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản, bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn Chế độ pháp lý của hai loại thành viên này được quy định khác nhau, do đó, sự tham gia của thành viên góp vốn hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty.

8 Nguyễn Thị Kim Thoa (2006), Địa vị pháp lý của CTHD theo Luật doanh nghiệp 2005, Luận văn thạc sĩ luật học, tr.11

9 Nguyễn Thị Kim Thoa, t đd, tr 12

Việc phân loại CTHD khi sửa đổi LDN là rất cần thiết để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của công ty Điều này sẽ được phân tích chi tiết trong phần quy chế pháp lý của các thành viên hợp danh.

1.2.2 Đặc điểm pháp lý của CTHD

Trước khi đi vào đặc điểm cụ thể của CTHD, bài viết sẽ khái quát bản chất pháp lý của loại hình này qua quan điểm của một số hệ thống pháp luật trên thế giới liên quan đến mô hình hợp danh.

Các học giả thuộc hệ thống pháp luật Anh-Mỹ thường thảo luận về bản chất của công ty trước khi định nghĩa các loại hình công ty Tuy nhiên, ở các nước này có sự phân biệt rõ ràng giữa thương nhân đơn lẻ (sole trader) và hợp danh (partnership) với công ty (company) Mặc dù có nhiều học thuyết như học thuyết hư cấu hay học thuyết nhận thức, hợp danh lại được xem như một ngoại lệ, vì mô hình hợp danh ở Mỹ không áp dụng các học thuyết này Theo Luật Hợp danh thống nhất (Uniform Partnership Act) của Mỹ, hợp danh được định nghĩa là hình thức pháp lý của hai hoặc nhiều chủ thể cùng thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận Ngược lại, các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lại coi hợp danh là một loại hình công ty.

Biểu hiện chính của việc thành lập công ty là thỏa thuận giữa các thành viên thông qua một hợp đồng Hợp đồng được xem như căn cứ pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên liên quan đến việc thành lập công ty Theo đó, hợp danh là sự liên kết của hai hay nhiều người, và pháp luật các nước thường đề cao thỏa thuận giữa các thành viên Hợp đồng được thiết lập khi các thành viên đồng ý về cách thức hùn vốn, tạo tài sản chung, cũng như chia quyền điều hành và lỗ, lãi Nói cách khác, khế ước giữa các bên đã xác lập nên hợp danh, chứ không phải giấy chứng nhận của cơ quan đăng ký doanh nghiệp Với những đặc thù này, pháp luật nhiều nước không đánh thuế thu nhập công ty đối với hợp danh, mà từng thành viên chịu thuế trên phần thu nhập cá nhân của mình Mặc dù mỗi quốc gia có cách nhìn nhận khác nhau về hợp danh, nhưng vẫn tồn tại những điểm chung tạo nên dấu hiệu nhận diện.

10 Nguyễn Thị Kim Thoa, t đd, tr 6

Hợp danh là hình thức tổ chức kinh doanh mà các thành viên liên kết với nhau thông qua thỏa thuận nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận Việc xác định hợp danh có phải là loại hình công ty hay không không phải là vấn đề chính, vì mục tiêu của pháp luật kinh tế là xây dựng các tổ chức kinh doanh hiệu quả để đáp ứng nhu cầu thực tiễn Do đó, điều quan trọng là cần thiết lập và công nhận hợp danh như một loại hình pháp lý với cơ cấu tổ chức hiệu quả, thay vì tranh cãi về thuật ngữ "công ty".

Pháp luật Việt Nam công nhận tên gọi công ty cho cả doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn và vô hạn Theo Luật Doanh nghiệp 2005, tại Điều 130, khoản 1, quy định số lượng thành viên hợp danh tối thiểu là hai, trong khi không có quy định về số lượng thành viên góp vốn tối thiểu Luật cũng không hạn chế số lượng thành viên tối đa cho cả hai loại Điều này cho thấy, trong công ty hợp danh, thành viên hợp danh đóng vai trò quan trọng và là điều kiện tiên quyết để thành lập Quy định này hoàn toàn hợp lý, vì đặc tính của công ty hợp danh là chế độ chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn của các thành viên hợp danh.

Mô hình CTHD theo pháp luật một số nước trên thế giới

1.3.1 Mô hình CTHD theo pháp luật Hoa Kỳ

Hoa Kỳ không có quy định chung về việc thành lập doanh nghiệp áp dụng cho tất cả các bang, bao gồm cả công ty hợp danh (CTHD) Luật về các loại hình hợp danh giữa các bang không hoàn toàn giống nhau, nhưng mô hình hợp danh đều tồn tại ở tất cả các bang Quy trình đăng ký thành lập doanh nghiệp hợp danh cũng đơn giản và tương tự như doanh nghiệp tư nhân một chủ, chỉ cần điền vào mẫu đơn đăng ký và gửi đến cơ quan đăng ký ở bang hoặc quận Kèm theo đơn đăng ký thường là một bản đăng nhỏ và một khoản phí bằng séc do ngân hàng phát hành hoặc lệnh trả tiền.

Doanh nghiệp hợp danh là hình thức doanh nghiệp có từ hai thành viên trở lên cùng làm chủ, với mức độ tham gia được quyết định và thỏa thuận bằng văn bản Hợp danh được chia thành hai loại chính: hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn Hợp danh thường, là loại hình phổ biến nhất, trong đó tất cả các thành viên đều được coi là chủ sở hữu và chia sẻ lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, các thành viên cũng phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản cá nhân đối với các khoản lỗ phát sinh, ngay cả khi khoản lỗ vượt quá số vốn đã góp vào công ty.

Hợp danh hữu hạn (limited partnership) là hình thức doanh nghiệp kết hợp giữa hợp danh và công ty TNHH, mang lại lợi thế từ tính trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh, tạo sự tin cậy từ đối tác Đồng thời, loại hình này cũng tận dụng khả năng huy động vốn của công ty TNHH Theo quy định, công ty hợp danh hữu hạn phải có ít nhất một thành viên hợp danh và một thành viên góp vốn.

23 Nguyễn Thị Kim Thoa, t đd, tr 12

Hợp danh hữu hạn có 23 viên góp vốn, và địa vị pháp lý của các thành viên trong loại hình này về cơ bản là giống nhau Đối với thành viên hữu hạn, họ chỉ là người góp vốn và không tham gia vào việc quản lý công ty, do đó trách nhiệm của họ chỉ giới hạn trong số vốn đã góp Có sự tách biệt rõ ràng giữa tài sản của công ty và tài sản của các thành viên Việc rút lui của một thành viên hữu hạn không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty, nghĩa là công ty vẫn tiếp tục hoạt động mà không cần phải chấm dứt Hợp danh hữu hạn thực chất là sự kết hợp giữa hợp danh thông thường và hợp vốn đơn giản.

Hợp danh trách nhiệm hữu hạn (limited liability partnership) khác với hợp danh thông thường ở chỗ nếu một thành viên lạm dụng quyền hạn gây rủi ro cho công ty, các thành viên còn lại chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của công ty Tuy nhiên, thành viên lạm dụng quyền hạn phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hành vi của mình và các nghĩa vụ khác Ưu điểm của hình thức kinh doanh này là cho phép các nhà đầu tư linh hoạt trong quản lý và điều hành công ty, đồng thời bảo vệ họ khỏi trách nhiệm vô hạn trong một số trường hợp.

Loại hình hợp danh ở Hoa Kỳ kết hợp uy tín nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của các thành viên, mang lại thành công và được nhà đầu tư ưa chuộng nhờ tính nhỏ gọn, lợi ích thuế và quyền tự thỏa thuận của chủ sở hữu Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng, nhiều tư vấn kinh doanh không khuyến nghị lựa chọn loại hình này vì nó có thể gặp khó khăn hơn cả những cuộc hôn nhân không may.

1.3.2 Mô hình CTHDtheo pháp luật Đức

Cộng hòa Liên bang Đức đại diện cho hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, với pháp luật về công ty được hình thành từ sớm và phát triển hoàn chỉnh Công ty ở Đức được phân chia thành nhiều loại khác nhau, nhưng chủ yếu dựa trên tính chất liên đới và trách nhiệm của các thành viên, bao gồm công ty đối nhân và công ty đối vốn Trong số đó, công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản được xem là hai mô hình chuẩn trong pháp luật Đức.

24 Nguyễn Băng Tú, t đd tr.81

25 http://dddn.com.vn/2734cat97/thanh-lap-doanh-nghiep-tai-hoa-ky.htm

Nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, nghiên cứu và áp dụng các mô hình hợp danh để xây dựng các điều luật về CTHD trong LDN, đặc biệt là tham khảo mô hình của Đức.

2005 Do đ , việc tìm hi u mô hình h p danh của Đức sẽ đem ại cách nhìn toàn diện hơn hi nghiên cứu loại hình doanh nghiệp này ở nước ta

Theo Luật thương mại Đức, Công ty TNHH (CTHD) là loại hình doanh nghiệp mà các thành viên cùng hợp tác thực hiện các hoạt động thương mại dưới một tên chung Các thành viên trong CTHD có trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty.

Khác với các công ty ở nước khác, công ty tại Đức có thể hoạt động kinh doanh hoặc không Một số công ty, mặc dù các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới về nợ nần, nhưng không tham gia vào hoạt động thương mại mà chỉ thực hiện các nghề nghiệp như bác sĩ, kế toán, luật sư, do đó không thuộc loại công ty thương mại và chịu sự điều chỉnh của Luật dân sự Ngược lại, các công ty thương mại thực sự theo Luật thương mại Đức không có tư cách pháp nhân độc lập, nhưng được coi là thương gia Các thành viên của công ty phải có tư cách thương gia độc lập và chịu thuế thu nhập cá nhân, trong khi công ty không phải chịu thuế Luật thương mại Đức định nghĩa thương mại theo cách rộng rãi, bao gồm sản xuất, mua bán hàng hóa và dịch vụ, tương đương với khái niệm "kinh doanh" trong Luật doanh nghiệp 2005 Do đó, phạm vi hoạt động của các công ty thương mại rất rộng và không bị hạn chế trong các ngành nghề thương mại.

Thủ tục thành lập công ty ở Đức rất đơn giản, bắt đầu từ việc ký kết hợp đồng giữa các thành viên Hợp đồng này có thể được lập thành văn bản hoặc thỏa thuận công khai Để chính thức hóa, hợp đồng thành lập công ty cần được đăng ký vào danh bạ thương mại, xác nhận và công bố sự thành lập của công ty Tuy nhiên, sự thỏa thuận bằng lời nói hoặc hành vi kinh doanh chung một cách công khai cũng được coi là cơ sở hình thành công ty.

Khi hùn vốn vào công ty, các thành viên có quyền thỏa thuận về hình thức góp vốn như tiền, bất động sản, quyền sở hữu trí tuệ, hoặc thậm chí là uy tín kinh doanh của cá nhân Tất cả các thành viên trong công ty đều phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty, và chủ nợ có quyền yêu cầu bất kỳ thành viên nào thanh toán toàn bộ nợ nần của công ty.

26 Tr n Đức Phư ng (2001), Chế độ pháp lý về Công ty hợp danh, Luận văn cử nhân luật học, tr.15

Trách nhiệm của từng thành viên đối với các khoản nợ của công ty được giới hạn trong vòng năm năm, tính từ thời điểm thành viên rời khỏi công ty hoặc khi công ty bị giải thể.

Cơ chế tổ chức và điều hành hoạt động của công ty hợp danh chủ yếu dựa vào sự thỏa thuận giữa các thành viên, với pháp luật chỉ đảm bảo trật tự kinh doanh mà không can thiệp vào hoạt động cụ thể của công ty Theo điều lệ, các thành viên tự phân công các vị trí quản lý, và mặc dù luật thương mại Đức cho phép thuê người điều hành, các thành viên vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với các hậu quả phát sinh, trừ trách nhiệm dân sự của người được thuê Công ty hợp danh chỉ tồn tại và hoạt động khi có sự nhất trí của tất cả các thành viên, và sẽ bị giải thể nếu có một thành viên rút lui hoặc qua đời.

Công ty hợp vốn đơn giản ở Đức bao gồm hai loại thành viên: thành viên nhận vốn, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm vô hạn về nợ nần bằng toàn bộ tài sản cá nhân; và thành viên góp vốn, nhận lãi trên số vốn nhưng không có quyền điều hành, chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn đã góp Luật quy định rằng thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn không cần ghi tên vào sổ đăng ký doanh nghiệp và giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi, trong trường hợp họ không muốn công khai các hoạt động đầu tư Ngoài sự khác biệt về quy chế thành viên, các quy định về công ty hợp vốn đơn giản vẫn được áp dụng.

1.3.3 Mô hình CTHD theo pháp luật Nhật Bản

ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG TY HỢP DANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 – THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đồng Ngọc Ba (2005), “Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (01) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Đồng Ngọc Ba
Năm: 2005
2. Lê Việt Anh (2008), “Về tư c ch ph p nh n của công ty h p danh”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (115) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về tư c ch ph p nh n của công ty h p danh”, "Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
Tác giả: Lê Việt Anh
Năm: 2008
3. Nguyễn Thị Thu Vân (1998), Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Vân
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 1998
4. Nguyễn Việt Khoa và Từ Thanh Thảo (2010), Luật kinh tế, NXB Phương Đông, Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật kinh tế
Tác giả: Nguyễn Việt Khoa và Từ Thanh Thảo
Nhà XB: NXB Phương Đông
Năm: 2010
5. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình Luật Kinh tế (Tập 1: Luật Doanh nghiệp), NXB ĐHQG H Nội, H Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Kinh tế (Tập 1: Luật Doanh nghiệp)
Tác giả: Phạm Duy Nghĩa
Nhà XB: NXB ĐHQG H Nội
Năm: 2006
6. Phan Huy Hồng, Lê Nết (2005), “Tr ch nhiệm tài sản của pháp nhân: Hữu hạn hay vô hạn?”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (06) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tr ch nhiệm tài sản của pháp nhân: Hữu hạn hay vô hạn?”, "Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Phan Huy Hồng, Lê Nết
Năm: 2005
7. Trường đại học Luật thành phồ Hồ Chí Minh (2008 ), Tập bài giảng Chủ thể kinh doanh, Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập bài giảng Chủ thể kinh doanh
8. Vũ Đ ng Hải Yến (2010), “Ho n thiện pháp luật về công ty h p danh ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (09) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ho n thiện pháp luật về công ty h p danh ở Việt Nam”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Vũ Đ ng Hải Yến
Năm: 2010
9. Japaness International Cooperation Agency (JIA), Japaness Law, Volum 2 (1997, 1998), p.677 - Luật Nhật Bản, Tập 2 (1997, 1998), tr.677, Youth Publishing House – Nhà xuất bản Thanh Niên, Song ngữ Anh – Việt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Japaness Law," Volum 2 (1997, 1998), p.677 - "Luật Nhật Bản
Nhà XB: Nhà xuất bản Thanh Niên
1. Nguyễn Băng Tú (2005), Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành-Những bất cập và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ uật học, Tp.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành-Những bất cập và hướng hoàn thiện
Tác giả: Nguyễn Băng Tú
Năm: 2005
2. Nguyễn Thị Kim Thoa (2006), Địa vị pháp lý của công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2005, Luận văn thạc sĩ uật học, Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa vị pháp lý của công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp 2005
Tác giả: Nguyễn Thị Kim Thoa
Năm: 2006
3. Phạm Thị Nguyệt Sương (2004), Địa vị pháp lý của công ty hợp danh, Luận văn cử nhân luật học, Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa vị pháp lý của công ty hợp danh
Tác giả: Phạm Thị Nguyệt Sương
Năm: 2004
4. Tr n Đức Phư ng (2001), Chế độ pháp lý về công ty hợp danh, Luận văn cử nhân luật học, Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế độ pháp lý về công ty hợp danh
Tác giả: Tr n Đức Phư ng
Năm: 2001
6. Nghị định số 03/2010/NĐ-CP ng y 03 th ng 02 năm 2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 1999 Khác
7. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ng y 01 th ng 10 năm 2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 2005.Sách, báo, tạp chí khoa học Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Sơ đồ 1    Sơ đồ 2 - Công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp 2005 một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Sơ đồ 1 Sơ đồ 2 (Trang 46)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w