1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa phương

98 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Cơ Chế Một Cửa, Một Cửa Liên Thông Tại Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Ở Địa Phương
Tác giả Trương Thị Kiều Ngân
Người hướng dẫn PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2016
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 1,76 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn (9)
  • 3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu (12)
  • 4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu (13)
  • 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (13)
  • 6. Những đóng góp mới của luận văn (14)
  • 7. Kết cấu của luận văn (14)
  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ (15)
    • 1.1. Khái quát chung về cơ chế một cửa (15)
      • 1.1.1. Khái niệm (15)
      • 1.1.2. Bản chất (17)
      • 1.1.3. Đặc điểm (20)
      • 1.1.4. Lịch sử hình thành và phát triển (21)
      • 1.1.5. Quy trình thực hiện cơ chế một cửa (22)
    • 1.2. Khái quát chung về cơ chế một cửa liên thông (25)
      • 1.2.1. Khái niệm (25)
      • 1.2.2. Bản chất (26)
      • 1.2.3. Đặc điểm (27)
      • 1.2.4. Lịch sử hình thành và phát triển (28)
      • 1.2.5. Quy trình thực hiện cơ chế một cửa liên thông (29)
    • 1.3. Nguyên tắc thực hiện, cơ quan và phạm vi áp dụng cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (32)
      • 1.3.1. Nguyên tắc thực hiện (32)
      • 1.3.2. Cơ quan áp dụng (34)
      • 1.3.3. Phạm vi áp dụng (36)
    • 1.4. Chu trình làm việc tại nội bộ cơ quan hành chính nhà nước (37)
      • 1.4.1. Khái niệm Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (37)
      • 1.4.2. Vị trí của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (38)
      • 1.4.3. Diện tích làm việc, trang thiết bị của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (38)
      • 1.4.4. Công chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (39)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ MỘT CỬA, CƠ CHẾ MỘT CỬA LIÊN THÔNG TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC (43)
    • 2.1. Khái quát về các địa bàn khảo sát (43)
      • 2.1.1. Tỉnh Long An (43)
      • 2.1.2. Tỉnh Vĩnh Long (43)
      • 2.1.3. Tỉnh Đồng Tháp (43)
    • 2.2. Thực trạng cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các địa bàn khảo sát (44)
      • 2.2.1. Công bố thủ tục hành chính thực hiện theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (44)
      • 2.2.2. Công khai thủ tục hành chính thực hiện theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (48)
      • 2.2.3. Quyết định về thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (50)
      • 2.2.4. Quy chế hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (52)
      • 2.2.5. Công chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (54)
      • 2.2.6. Diện tích, trang thiết bị làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (59)
      • 2.2.7. Quy trình thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (62)
      • 2.2.8. Kết quả giải quyết thủ tục hành chính khi áp dụng cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (62)
    • 2.3. Nhận xét, đánh giá việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các địa bàn khảo sát (65)
      • 2.3.1. Ưu điểm (65)
      • 2.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân (67)
    • 2.4. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (74)
      • 2.4.3. Hình thành đội ngũ công chức chuyên nghiệp làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (77)
      • 2.4.4. Quy định rõ một số thủ tục hành chính không thực hiện theo cơ chế một cửa (78)
      • 2.4.5. Thực hiện công tác đánh giá mức độ hài lòng của người dân về việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (78)
      • 2.4.6 Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các cơ quan chuyên môn (79)
      • 2.4.7. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông (79)

Nội dung

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Cơ chế một cửa và cơ chế một cửa liên thông đã được triển khai rộng rãi tại các cơ quan hành chính nhà nước, dẫn đến nhiều nghiên cứu về vấn đề này Nguyễn Thị Bích Ngân (2014) trong bài viết trên http://kstthc.moj.gov.vn đã chỉ ra thực trạng và những hạn chế trong việc triển khai cơ chế này, đặc biệt là sự không thống nhất giữa các địa phương và tình trạng công chức gây khó khăn cho người dân Tác giả đề xuất cần ban hành Quyết định mới thay thế Quyết định số 93/2007/TTg để cải thiện tình hình Tạ Thị Hải Yến (2014) cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải nhanh chóng ban hành Quyết định mới, đồng thời phân tích các quy định trong Dự thảo Quyết định thay thế, tập trung vào khái niệm và tổ chức bộ phận tiếp nhận và trả kết quả Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước (2009) đã nghiên cứu về cơ chế “một cửa” tại cấp xã, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả nhưng chưa đề cập đến mô hình một cửa liên thông.

Mô hình thí điểm tổ chức tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) theo cơ chế một cửa cấp huyện và xã tại tỉnh Thừa Thiên Huế đã được nghiên cứu với mục tiêu áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào cấp huyện và xã mà chưa đề cập đến cơ chế một cửa liên thông Trương Đắc Linh (2007) đã chỉ ra những hạn chế của cơ chế một cửa một dấu tại thành phố Hồ Chí Minh, chứng minh tính trái pháp luật và không khả thi của mô hình này, đồng thời đề xuất các giải pháp cải thiện Tuy nhiên, thời điểm nghiên cứu, cơ chế một cửa liên thông chưa được triển khai, do đó chưa có phân tích về cơ chế này Trần Văn Tuấn (2010) cũng đã đề cập đến cải cách TTHC và cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong bài viết của mình.

Bài viết của tác giả trình bày khái quát quá trình cải cách hành chính tại Việt Nam, đặc biệt là thực trạng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa và một cửa liên thông từ Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg Tác giả cũng nêu rõ một số hạn chế trong quá trình thực hiện và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế này tại các cơ quan hành chính nhà nước.

Mô hình một cửa liên thông trong lĩnh vực thu hút đầu tư tại tỉnh Bình Phước đã được nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công của Học viện Hành chính Quốc gia Tác giả đã chỉ ra những cơ sở cần thiết để áp dụng mô hình này nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn chỉ tập trung vào việc giải quyết thủ tục hành chính theo mô hình một cửa liên thông cho một lĩnh vực cụ thể.

Cà Mau đang đối mặt với thách thức trong việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC), theo nghiên cứu của tác giả trong luận văn thạc sĩ tại Học viện Hành chính Quốc gia Mặc dù đã đề cập đến mô hình một cửa, công trình này chưa khai thác sâu về cơ chế một cửa liên thông Trong khi đó, nghiên cứu của Phạm Huy Thông tại Đại học Luật TP.HCM đã hệ thống hóa lý luận và pháp lý về cơ chế một cửa liên thông, phân tích vai trò và nguyên tắc của TTHC, cũng như thực trạng áp dụng tại TP.HCM Tác giả đã chỉ ra ưu điểm và hạn chế, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình này Bên cạnh đó, Nguyễn Đức Vượng cũng nghiên cứu cách nâng cao hiệu quả cơ chế một cửa tại UBND cấp phường TP.HCM, góp phần vào việc cải cách hành chính hiện đại.

Bài viết này phân tích thực trạng giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) tại UBND phường ở thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế một cửa Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào cơ chế một cửa cấp xã mà chưa đề cập đến cơ chế một cửa liên thông cũng như ở cấp huyện và tỉnh Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về cơ chế một cửa và một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước, nhưng chúng thường chỉ dừng lại ở một cấp hành chính hoặc một cơ quan cụ thể Do đó, các vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế này tại địa phương chưa được phân tích một cách hệ thống Hơn nữa, những nghiên cứu trước đây đã trở nên lỗi thời so với thực tiễn hiện nay, khiến cho nhiều phân tích không còn phù hợp Vì vậy, đề tài “CCMC, CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương” là cần thiết và không trùng lặp với các công trình đã công bố trước đó, đòi hỏi sự quan tâm đầu tư nghiên cứu.

Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

3.1.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là CCMC, CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương

Cụm từ “cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương” đề cập đến các cơ quan hành chính địa phương, không bao gồm cơ quan Trung ương, áp dụng CCMC và CCMCLT theo Quy chế thực hiện CCMC, CCMCLT tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg) Các cơ quan này bao gồm cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện và UBND cấp xã Nghiên cứu này tập trung vào CCMC và CCMCLT trong giai đoạn 2012 - 2015 và thực tiễn tại một số cơ quan hành chính ở tỉnh Long An, Vĩnh Long và Đồng Tháp.

Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu trong luận văn này là phát triển các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của CCMC và CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

4.1.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về CCMC,

CCMCLT áp dụng tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương

Thứ hai, đánh giá thực trạng áp dụng CCMC, CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được khảo sát

Thứ ba, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện CCMC, CCMCLT tại các ơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác-Lênin.

Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp hệ thống được áp dụng trong việc phân tích tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn trong phần mở đầu, giúp tác giả tổ chức và trình bày thông tin một cách rõ ràng và có hệ thống.

Phương pháp tổng hợp và phân tích được áp dụng để tổng hợp và phân tích các quy định pháp luật cũng như thực trạng áp dụng của CCMC và CCMCLT tại các cơ quan khảo sát trong Chương 1 và Chương 2.

Phương pháp thống kê được áp dụng để phân tích kết quả hoạt động tại các bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, như đã trình bày trong Chương 2.

Phương pháp nghiên cứu lịch sử được áp dụng để khảo sát quá trình hình thành và phát triển của CCMC, cụ thể là trong Chương 1 của CCMCLT.

Những đóng góp mới của luận văn

Thứ nhất, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về CCMC,

CCMCLT tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương

Luận văn này phân tích thực trạng áp dụng CCMC và CCMCLT tại một số cơ quan hành chính nhà nước địa phương, đồng thời đánh giá những thành tựu và hạn chế hiện có Bài viết cũng tìm ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế này.

Bài viết đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng CCMC, CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước địa phương.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương như sau:

Chương 1 Cơ sở lý luận và pháp lý về CCMC, CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương

Chương 2 Thực trạng CCMC, CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và một số giải pháp hoàn thiện.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ

Khái quát chung về cơ chế một cửa

Cơ chế, theo định nghĩa từ Từ điển tiếng Việt, là cách thức thực hiện một quá trình, trong khi Từ điển Le Petit Larousse mô tả cơ chế là cách thức hoạt động của các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau Hiểu một cách đơn giản, "cơ chế" thể hiện sự phối hợp giữa nhiều chủ thể trong việc giải quyết công việc chung Để hiểu rõ hơn về "cơ chế một cửa", cần đặt nó trong bối cảnh cải cách hành chính của Chính phủ Việt Nam Trước đây, người dân phải liên hệ với nhiều cơ quan khác nhau để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, dẫn đến sự phiền hà và lúng túng Tình trạng này tạo điều kiện cho một số cán bộ nhũng nhiễu, không phù hợp với nguyên tắc Nhà nước vì dân Để khắc phục, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện cải cách hành chính nhằm xây dựng một chính quyền phục vụ người dân.

1 Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, tr.214

2 Dẫn lại từ website: https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia (Truy cập 27/6/2016)

3 Cụm từ “một cửa” không được Từ điển tiếng Việt định nghĩa, nó có nghĩa trực ngôn là “một cái cửa”

Lịch sử hình thành và phát triển của "cơ chế một cửa" sẽ được trình bày trong một mục riêng Hiện tại, chính quyền cần nhận thức về những "khó khăn" mà người dân gặp phải và nỗ lực tạo ra "thuận lợi" tối đa cho họ.

Tại Việt Nam, khái niệm “cơ chế một cửa” đã được áp dụng trong việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) cho người dân Theo đó, các cơ quan hành chính nhà nước sẽ thành lập “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả”, có nhiệm vụ hướng dẫn TTHC, tiếp nhận hồ sơ từ cá nhân và tổ chức, chuyển đến các cơ quan chuyên môn hoặc cấp có thẩm quyền giải quyết, và nhận, trả kết quả Nhờ đó, người dân chỉ cần liên hệ với một đầu mối duy nhất là Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, giúp đơn giản hóa quy trình và tạo thuận lợi trong việc thực hiện TTHC.

Khái niệm "cơ chế một cửa" thường được hiểu là phương thức thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) cho cá nhân và tổ chức thông qua một đầu mối tiếp nhận và trả kết quả Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, nội hàm của khái niệm này không chỉ dừng lại ở cách hiểu trên.

Cơ chế một cửa là phương pháp giải quyết công việc cho cá nhân và tổ chức, thuộc trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước Cơ chế này nhằm công khai hướng dẫn thủ tục hành chính (TTHC), tiếp nhận hồ sơ, và giải quyết, trả kết quả tại một đầu mối duy nhất, là Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính.

Theo quy định pháp luật, "cơ chế một cửa" không chỉ đơn thuần là việc tiếp nhận và trả kết quả cho người dân thông qua Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, mà quan trọng hơn, việc thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) chỉ thuộc thẩm quyền của một cơ quan hành chính nhà nước Khái niệm này khác với cách hiểu thông thường ở chỗ TTHC trong "cơ chế một cửa" chỉ được thực hiện bởi một cơ quan hành chính, nhằm phân biệt với các khái niệm liên quan khác.

Theo Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ, Quy chế thực hiện cơ chế một cửa và cơ chế một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương được quy định tại khoản 1 Điều 2.

Cần sớm hoàn thiện Dự thảo Quyết định thay thế Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg về cơ chế một cửa, một cửa liên thông, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ người dân Thông tin chi tiết có thể tham khảo tại website: http://kstthc.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/nghiencuutraodoi/ (27/6/2016).

Trong luận văn này, khái niệm “cơ chế một cửa” được hiểu theo quy định của pháp luật, cụ thể là theo Thủ tướng Chính phủ (2015), tại khoản 1 Điều 1 Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng cơ chế một cửa liên thông trong quản lý hành chính.

Cơ chế một cửa nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính phức tạp, tập trung các dịch vụ hành chính tại một đầu mối duy nhất để tạo thuận lợi cho người dân và tổ chức khi cần giải quyết công việc với nhà nước Người dân chỉ cần đến một địa điểm nhất định để nộp hồ sơ và nhận kết quả từ các cơ quan có thẩm quyền Đối với các cơ quan hành chính, việc thiết lập quy trình giải quyết công việc cần phù hợp với điều kiện cụ thể, nhằm đảm bảo xử lý nhanh chóng và hợp lý các yêu cầu của công dân, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và kéo dài thời gian giải quyết, từ đó giữ vững lòng tin của tổ chức và cá nhân đối với chính quyền.

Cơ chế một cửa không chỉ công khai hóa và minh bạch hóa các quy định thủ tục hành chính mà còn giảm thiểu phiền hà và thời gian chờ đợi cho người dân và doanh nghiệp Trách nhiệm của cán bộ, công chức được nâng cao, góp phần chuyển đổi mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước và người dân từ cơ chế xin - cho sang phục vụ Người dân chỉ cần đến “một cửa” để giải quyết công việc, ví dụ như hồ sơ quyền sử dụng đất, mà không phải đi qua nhiều khâu như trước Sự kết hợp giữa cơ chế một cửa và công nghệ thông tin giúp kiểm tra thủ tục hành chính trở nên thuận tiện và đơn giản Ngoài ra, việc thực hiện cơ chế này còn liên quan đến việc xác lập lại trật tự trong quản lý thu phí và lệ phí, tạo điều kiện thuận lợi thông qua việc công khai nguyên tắc thu và mức thu tại các bộ phận một cửa.

Mô hình "một cửa" là một phương thức tiếp cận nhằm tạo thuận lợi cho người dân khi thực hiện thủ tục hành chính, đồng thời ngăn chặn tình trạng cán bộ, công chức thu thêm phí trái phép Việc áp dụng cơ chế này cần đi kèm với việc rà soát, đơn giản hóa và công khai các thủ tục, từ đó nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo trong việc giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp theo đúng quy định pháp luật.

Trước khi triển khai cơ chế một cửa, việc giải quyết thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước gặp nhiều vấn đề như bộ máy cồng kềnh, chức năng không rõ ràng, và sự chồng chéo trong nhiệm vụ Nhiều cơ quan tranh giành thực hiện các công việc mang lại “lợi ích”, trong khi những nhiệm vụ quan trọng nhưng không có lợi ích rõ ràng lại bị đùn đẩy Phân cấp quản lý và xác định thẩm quyền thiếu cụ thể đã làm cho bộ máy hoạt động kém hiệu quả Thủ tục, phí và lệ phí không rõ ràng, rườm rà, và một số cơ quan tự đặt ra các quy định riêng gây phiền hà cho người dân Thời gian giải quyết thủ tục không được quy định cụ thể, dẫn đến tình trạng nhũng nhiễu và quan liêu Sự phức tạp trong giải quyết thủ tục hành chính đã tạo điều kiện cho nạn “cò hồ sơ” phát triển, gây ra nhiều tác động tiêu cực và biến việc thực hiện thủ tục thành đặc quyền của một số cán bộ Việc tiếp nhận và giải quyết yêu cầu của người dân thiếu công khai, dẫn đến khiếu kiện kéo dài và tạo ra sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa người dân và chính quyền, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng.

Để khắc phục những hạn chế trong giải quyết thủ tục hành chính, cơ chế một cửa đã được ra đời như một phương thức làm việc mới giữa các cơ quan hành chính nhà nước và người dân Việc triển khai cơ chế này nằm trong bối cảnh cải cách cung cấp dịch vụ công trong khu vực công, một vấn đề phức tạp và đa nguyên nhân Lịch sử cải cách hành chính toàn cầu đã tạo ra những tư duy mới về vai trò của nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công Sự cạnh tranh từ khu vực tư đã thúc đẩy người dân yêu cầu Nhà nước cải cách cách thức cung cấp dịch vụ công hiệu quả hơn.

Cơ chế một cửa được triển khai nhằm tạo thuận lợi cho công dân và tổ chức khi giải quyết thủ tục hành chính, chỉ cần đến một đầu mối duy nhất tại cơ quan nhà nước Cơ chế này giúp khắc phục những hạn chế của dịch vụ công truyền thống, giảm thiểu phiền hà do phải di chuyển nhiều lần và tiết kiệm thời gian cho người dân Đồng thời, nó góp phần chống lại tệ quan liêu, tham nhũng và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức Việc phân công rõ ràng thẩm quyền và trách nhiệm cũng như sắp xếp lại bộ máy hành chính theo hướng gọn nhẹ sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước Hơn nữa, cơ chế này còn thúc đẩy việc nâng cao kỹ năng chuyên môn, giao tiếp và thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời hiện đại hóa cơ sở vật chất của cơ quan hành chính nhà nước.

Khái quát chung về cơ chế một cửa liên thông

Cơ chế một cửa liên thông là phương thức giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức liên quan đến nhiều cơ quan hành chính nhà nước, cho phép công khai, hướng dẫn thủ tục hành chính (TTHC), tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả tại một đầu mối duy nhất Khác với cơ chế một cửa, nơi trách nhiệm chỉ thuộc về một cơ quan, cơ chế một cửa liên thông yêu cầu sự phối hợp giữa nhiều cơ quan hành chính Mặc dù có nhiều cơ quan tham gia, cá nhân, tổ chức chỉ cần liên hệ tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của một cơ quan hành chính nhà nước, giúp đơn giản hóa quy trình và tiết kiệm thời gian.

Cơ chế một cửa liên thông là phương thức giải quyết công việc giữa nhiều cơ quan hành chính nhà nước, cho phép cá nhân và tổ chức chỉ cần nộp hồ sơ tại một điểm tiếp nhận duy nhất Các cơ quan liên quan sẽ phối hợp để xử lý yêu cầu, sau đó người dân có thể nhận kết quả tại cùng một địa điểm Từ "liên thông" thể hiện sự hợp tác giữa các cơ quan trong việc phục vụ công dân và tổ chức, nhằm nâng cao hiệu quả và giảm thiểu thời gian chờ đợi.

Cơ chế một cửa liên thông là mô hình cung cấp dịch vụ công cho cá nhân và tổ chức thông qua sự phối hợp của nhiều cơ quan hành chính nhà nước Mô hình này giúp giải quyết công việc khi chức năng và nhiệm vụ cung cấp dịch vụ không chỉ thuộc về một cơ quan mà cần sự hợp tác của nhiều cơ quan khác nhau Việc triển khai cơ chế một cửa liên thông là cần thiết đối với những dịch vụ công phức tạp mà không thể giao trọn vẹn cho một cơ quan Cơ chế này gắn liền với khái niệm "cung cấp dịch vụ công lồng ghép", thể hiện sự phối hợp trong hoạt động cung cấp dịch vụ công giữa các cơ quan nhà nước.

Theo Thủ tướng Chính phủ (2015), việc cung cấp dịch vụ công cần có sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ tốt hơn cho cá nhân và tổ chức Mô hình này yêu cầu sự chia sẻ, phối hợp và thống nhất trong hoạt động cung cấp dịch vụ công Để áp dụng cơ chế một cửa liên thông, cần hoàn thiện quan hệ giao tiếp giữa các cơ quan liên quan, đồng thời xác định rõ các lĩnh vực có thể trùng lắp để phân định nhiệm vụ và quyền hạn Cuối cùng, xây dựng kế hoạch cụ thể để xác định nội dung và trách nhiệm của từng cơ quan là điều cần thiết.

Trong cơ chế một cửa liên thông, sự liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước diễn ra theo cả chiều ngang và chiều dọc Theo chiều ngang, nhiệm vụ và quyền hạn trong cung cấp dịch vụ công không tập trung tại một cơ quan duy nhất, yêu cầu sự phối hợp giữa các cơ quan cùng cấp Theo chiều dọc, nhiều loại công việc không được phân cấp tuyệt đối cho một cấp, mà có sự tham gia của nhiều cấp trong giải quyết công việc cho cá nhân, tổ chức Tại Việt Nam, liên thông theo chiều dọc bao gồm bốn loại: giữa cấp xã và cấp huyện, giữa cấp huyện và cấp tỉnh, giữa ba cấp chính quyền địa phương, và giữa cơ quan trung ương với cơ quan địa phương Tương tự như cơ chế một cửa, trong cơ chế một cửa liên thông, cá nhân, tổ chức chỉ cần đến một cửa để nộp hồ sơ và nhận kết quả, trong khi các cơ quan liên quan phối hợp để giải quyết thủ tục hành chính.

Trong cơ chế một cửa liên thông, việc xử lý công việc của cá nhân và tổ chức liên quan đến nhiều cơ quan hành chính nhà nước Cơ chế này có những đặc điểm nổi bật như sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong việc giải quyết thủ tục hành chính.

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất quy trình tiếp nhận và trả kết quả cho cá nhân và tổ chức trong quá trình giải quyết công việc.

Các cơ quan hành chính nhà nước sẽ thực hiện việc “liên thông” trong quá trình giải quyết công việc cho cá nhân và tổ chức Sự “liên thông” này có thể diễn ra theo chiều dọc giữa các cấp hành chính hoặc theo chiều ngang giữa các cơ quan cùng cấp.

Việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức là trách nhiệm quan trọng của các đơn vị này.

1.2.4 Lịch sử hình thành và phát triển

Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương tiên phong trong cải cách hành chính với cơ chế “một cửa, một dấu” Ngày 30/10/1995, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Công văn số 6194/CCHC, đồng ý cho thành phố thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế này Việc triển khai sẽ diễn ra qua hai giai đoạn tại các quận, huyện.

Giai đoạn 1 của cơ chế “một cửa” diễn ra từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1997, tập trung vào việc cải tạo và xây dựng khu hành chính tại trụ sở UBND các quận, huyện Mục tiêu chính là tập trung các phòng ban chuyên môn để giảm thiểu sự phân tán, giúp cá nhân và tổ chức tiết kiệm thời gian và chi phí khi giải quyết công việc Việc này không chỉ tối ưu hóa quy trình làm việc mà còn tiết kiệm mặt bằng và cơ sở vật chất cho các cơ quan hành chính Đồng thời, giai đoạn này cũng bao gồm việc thành lập Phòng tiếp nhận và trả hồ sơ tại Văn phòng Hội đồng nhân dân và UBND các quận, huyện, nhằm công khai hóa các thủ tục hành chính (TTHC).

Giai đoạn 2, diễn ra từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1997, là giai đoạn triển khai cơ chế “một dấu” tại UBND quận, huyện Trong giai đoạn này, các công việc chính bao gồm hoàn thiện quy chế và quy trình làm việc theo cơ chế “một cửa, một dấu”, thu hồi con dấu của các Phòng ban, và các Phòng ban sẽ thực hiện giải quyết công việc hành chính dựa trên chế độ ủy quyền của Chủ tịch UBND quận, huyện, cùng với việc sử dụng dấu của UBND quận, huyện.

Cơ chế “một cửa, một dấu” đã bộc lộ nhiều vấn đề và không còn phù hợp khi xử lý các vụ việc hành chính liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau Để cải thiện tình hình và tạo thuận lợi cho người dân, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg vào ngày 22/6/2007, thay thế Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg, nhằm thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước Tiếp theo, vào ngày 25/3/2015, Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg được ban hành để thay thế Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg, trong đó thiết lập “cơ chế một cửa liên thông” giúp giải quyết công việc cho cá nhân và tổ chức khi có sự tham gia của nhiều cơ quan hành chính.

Cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” được Thành phố Hồ Chí Minh khởi xướng từ năm 2007 đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của nó Cơ chế này hiện đang được áp dụng rộng rãi cho các cơ quan hành chính nhà nước ở mọi cấp chính quyền địa phương trên toàn quốc, đóng góp quan trọng vào tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia.

1.2.5 Quy trình thực hiện cơ chế một cửa liên thông

Việc triển khai cơ chế một cửa liên thông phức tạp hơn cơ chế một cửa do liên quan đến nhiều cơ quan hành chính nhà nước.

Do đó, pháp luật quy định có các loại hình liên thông sau đây 17 :

Nguyên tắc thực hiện, cơ quan và phạm vi áp dụng cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông

cơ chế một cửa liên thông

Nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản cần tuân thủ trong một loạt các hoạt động Trong bối cảnh thực hiện CCMC và CCMCLT, nguyên tắc này đề cập đến những quy định mà các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan phải nghiêm túc tuân theo Theo Quy chế thực hiện CCMC và CCMCLT tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, ban hành kèm theo Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, có bốn nguyên tắc quan trọng cần được tuân thủ.

Nguyên tắc thứ nhất : niêm yết công khai, đầy đủ, kịp thời các TTHC tại

UBND cấp tỉnh quyết định công bố thủ tục hành chính (TTHC) theo quy định, đảm bảo rằng các TTHC được công khai đầy đủ và kịp thời Việc này giúp cá nhân và tổ chức nắm rõ quy định pháp luật, đồng thời hạn chế khả năng cán bộ, công chức, đặc biệt là tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, lợi dụng thông tin thiếu sót để trục lợi hoặc gây khó khăn cho người dân.

19 Viện ngôn ngữ học (2006), tlđd 1, tr.694

Theo quy định tại Điều 3, Nghị định 20/2015/NĐ-CP, việc công khai thủ tục hành chính (TTHC) không chỉ dừng lại ở việc công khai tên TTHC mà còn phải bao gồm tất cả các thành phần cấu thành TTHC như trình tự thực hiện, cách thức thực hiện, hồ sơ, thời hạn giải quyết, đối tượng thực hiện, cơ quan thực hiện, kết quả thực hiện, mẫu đơn, mẫu tờ khai, yêu cầu và điều kiện (nếu có), cũng như phí và lệ phí (nếu có) Công khai TTHC phải được thực hiện thông qua Quyết định công bố thủ tục hành chính của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về kiểm soát TTHC.

Nguyên tắc thứ hai yêu cầu việc giải quyết công việc phải nhanh chóng và thuận tiện cho cá nhân, tổ chức, với quy định rằng yêu cầu bổ sung hồ sơ chỉ được thực hiện một lần trong suốt quá trình xử lý hồ sơ tại cơ quan chuyên môn Mục tiêu của việc triển khai CCMC và CCMCLT là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, nhằm xây dựng nền hành chính phục vụ thay vì cai trị Do đó, việc giải quyết công việc cần diễn ra một cách nhanh chóng và thuận tiện, đồng thời ngăn chặn tình trạng cán bộ, công chức gây khó khăn cho người dân trong việc hoàn thiện hồ sơ thủ tục hành chính.

Nguyên tắc thứ ba là đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức Trong cơ chế một cửa liên thông, trách nhiệm và thẩm quyền giải quyết công việc thường thuộc về nhiều cơ quan khác nhau, do đó cần thiết phải có sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan này Việc này được thực hiện thông qua quy chế phối hợp được thiết lập giữa các cơ quan hành chính nhà nước.

Nguyên tắc thứ tư quy định rằng việc thu phí và lệ phí từ cá nhân, tổ chức phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật Phí được định nghĩa là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi nhận dịch vụ từ tổ chức hoặc cá nhân khác, theo danh mục phí được ban hành kèm theo Pháp lệnh Trong khi đó, lệ phí cũng là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp, nhưng thường liên quan đến việc thực hiện các thủ tục hành chính hoặc dịch vụ công.

21 Chính phủ (2010), Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính, khoản 2 Điều 8

Hiện nay, việc kiểm soát thủ tục hành chính được quy định bởi Nghị định số 63/2010/NĐ-CP và Nghị định số 48/2013/NĐ-CP, trong đó Nghị định thứ hai sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính.

Theo Pháp lệnh phí và lệ phí năm 2001 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cá nhân và tổ chức phải nộp phí và lệ phí khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện công việc quản lý nhà nước Việc thu phí, lệ phí phải tuân thủ các quy định của pháp luật và phải được thực hiện đúng theo quy trình thủ tục hành chính, trong đó phí và lệ phí là một phần quan trọng tạo nên tính hoàn chỉnh của thủ tục hành chính.

Không phải tất cả các cơ quan nhà nước đều áp dụng cơ chế CCMC và CCMCLT Theo quy định, chỉ những cơ quan nhất định mới được phép áp dụng hai cơ chế này.

Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh bao gồm các sở và cơ quan ngang sở, được quy định bởi pháp luật Cụ thể, các sở này bao gồm: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, và Sở Tài chính.

Sở Công thương; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở Giao thông vận tải;

Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh, và Sở Ngoại vụ (chỉ thành lập ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) cùng với Sở Quy hoạch - Kiến trúc (được thành lập tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phát triển các lĩnh vực khác nhau của địa phương.

Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc thành lập Ban Dân tộc tại một số tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương Theo quy định, các sở này cần phải thực hiện CCMC và CCMCLT để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản lý.

Theo quy định pháp luật, tại cấp huyện, Ủy ban Nhân dân (UBND) cấp huyện là cơ quan thực hiện các cơ chế CCMC và CCMCLT Điều thú vị là ở cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh không được xác định là cơ quan áp dụng hai cơ chế này, mà thay vào đó là các sở Ngược lại, tại cấp huyện, UBND cấp huyện lại giữ vai trò quan trọng trong việc áp dụng CCMC và CCMCLT, trong khi các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, như phòng và cơ quan tương đương, hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ này.

24 Ủy ban thường vụ Quốc hội (2001), tlđd 23, Điều 3

25 Thủ tướng Chính phủ (2015), tlđd 5, Điều 4

26 Chính phủ (2014), Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, khoản 2 Điều 1

Theo Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg, tại khoản 1 Điều 8 của Quy chế thực hiện CCMC, CCMCLT tại cơ quan hành chính nhà nước địa phương, có những quy định quan trọng không được liệt kê trong danh sách của Chính phủ (2014) Điều này cho thấy sự cần thiết phải xem xét và cập nhật các quy định để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả trong quản lý hành chính.

Bài viết liệt kê bảy loại hình liên thông giữa các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, giữa các cơ quan chuyên môn này với các cơ quan ngành dọc tại huyện, và giữa UBND cấp xã với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, như đã trình bày trong bảng 1.2 của luận văn.

Chu trình làm việc tại nội bộ cơ quan hành chính nhà nước

1.4.1 Khái niệm Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả là một phần thiết yếu trong cơ quan hành chính nhà nước, có chức năng hướng dẫn thủ tục hành chính (TTHC), tiếp nhận hồ sơ của cá nhân và tổ chức để chuyển đến các cơ quan chuyên môn hoặc cấp có thẩm quyền giải quyết Sau khi xử lý, bộ phận này cũng có trách nhiệm nhận và trả kết quả cho người dân Theo quy định, bộ phận này được coi là hiện đại, nhằm nâng cao hiệu quả và sự minh bạch trong quá trình xử lý hồ sơ hành chính.

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại sử dụng trang thiết bị điện tử và phần mềm điện tử để tối ưu hóa giao dịch hành chính giữa cá nhân, tổ chức và cơ quan hành chính nhà nước Phương thức hoạt động này giúp công khai, hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, chuyển đến các cơ quan chuyên môn giải quyết và trả kết quả cho cá nhân, tổ chức theo quy định của CCMC và CCMCLT Việc áp dụng công nghệ trong quy trình này không chỉ nâng cao hiệu quả làm việc mà còn đảm bảo tính minh bạch và nhanh chóng trong giải quyết thủ tục hành chính.

30 Viện ngôn ngữ học (2006), tlđd 1, tr.80

31 Thủ tướng Chính phủ (2015), tlđd 5, khoản 1 Điều 2

32 Thủ tướng Chính phủ (2015), tlđd 5, khoản 2 Điều 2

1.4.2 Vị trí của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả trong cơ quan hành chính nhà nước được quy định cụ thể: Bộ phận này thuộc cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, đặt tại Văn phòng cơ quan và chịu sự quản lý của Văn phòng chuyên môn Tại các tỉnh, thành phố có trung tâm hành chính tập trung như Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đà Nẵng, bộ phận này được tổ chức một cách tập trung Đối với UBND cấp huyện, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả được đặt tại Văn phòng Hội đồng nhân dân và UBND, dưới sự quản lý và chỉ đạo của cơ quan này.

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND cấp xã được đặt tại trụ sở UBND cấp xã, trong khi đó, các cơ quan ngành dọc sẽ tổ chức bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo quy định của các cơ quan chủ quản.

1.4.3 Diện tích làm việc, trang thiết bị của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả Để đảm bảo điều kiện vật chất cần thiết cho Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hoạt động, pháp luật quy định như sau 35 :

Diện tích tối thiểu của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại UBND cấp tỉnh là 40 m², cấp huyện là 80 m² và cấp xã là 40 m² Khoảng 50% diện tích của bộ phận này phải được bố trí làm nơi chờ cho cá nhân, tổ chức giao dịch Trang thiết bị làm việc cần thiết bao gồm máy vi tính, máy photocopy, máy fax, máy in, điện thoại cố định, ghế ngồi, bàn làm việc, nước uống, quạt mát hoặc máy điều hòa nhiệt độ, cùng các thiết bị khác phục vụ cho nhu cầu làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hành chính Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại nên được đặt ở vị trí thuận lợi, tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức thực hiện các giao dịch hành chính một cách thuận tiện.

33 Thủ tướng Chính phủ (2015), tlđd 5, Điều 8

Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, trong kỳ bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp diễn ra vào ngày 22/5/2016, Hội đồng nhân dân cấp huyện đã được thiết lập trở lại tại những địa phương thí điểm, mặc dù trước đó, Văn phòng UBND huyện nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp huyện.

Theo quy định tại Điều 9 của Nghị định 35/2015, các khu chức năng cần được bố trí hợp lý, bao gồm khu vực cung cấp thông tin và tiếp nhận thủ tục hành chính (TTHC), khu vực đặt các thiết bị điện tử như máy lấy số tự động và tra cứu thông tin, cùng với khu vực tiếp nhận và trả kết quả được chia thành các quầy theo lĩnh vực Ngoài ra, cần có đủ ghế ngồi chờ và bàn viết cho cá nhân, tổ chức giao dịch Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và các thiết bị chuyên dụng phải đáp ứng đủ điều kiện để triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 và áp dụng phần mềm điện tử theo quy định.

1.4.4 Công chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả

Pháp luật không chỉ quy định về điều kiện vật chất mà còn đưa ra các tiêu chuẩn cho nguồn nhân lực phục vụ Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, bao gồm trách nhiệm, quyền lợi và thẩm quyền quản lý.

Đội ngũ công chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cần đảm bảo đủ số lượng và có chuyên môn phù hợp với yêu cầu công việc Họ phải có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao và tính chuyên nghiệp Ngoài ra, công chức cần có tác phong chuẩn mực và khả năng giao tiếp tốt với cá nhân và tổ chức.

Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc quy chế hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong các giao dịch hành chính Cần hướng dẫn rõ ràng để đảm bảo cá nhân, tổ chức chỉ bổ sung hồ sơ một lần, tiếp nhận hồ sơ theo quy định Đồng thời, bộ phận cần chủ động đề xuất sáng kiến cải tiến quy trình, kịp thời phát hiện và kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ các quy định về TTHC không khả thi, phù hợp với thực tế địa phương.

Theo Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, dịch vụ công trực tuyến được phân chia thành bốn mức độ Mức độ 1 cung cấp đầy đủ thông tin về thủ tục hành chính; mức độ 2 cho phép tải về mẫu văn bản và gửi hồ sơ hoàn thiện đến cơ quan; mức độ 3 cho phép điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản, với giao dịch xử lý hồ sơ diễn ra trên mạng; và mức độ 4 cho phép thanh toán lệ phí trực tuyến, với kết quả trả có thể thực hiện trực tuyến hoặc qua bưu điện.

Người lao động sẽ được tham gia các khóa đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và văn hóa ứng xử với cá nhân, tổ chức Ngoài ra, họ còn được hưởng chế độ hỗ trợ theo quy định 37.

Công chức làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh chịu sự quản lý trực tiếp của Chánh Văn phòng cơ quan này Tương tự, công chức tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND cấp huyện thuộc biên chế Văn phòng Hội đồng nhân dân và UBND cấp huyện cũng chịu sự quản lý toàn diện của Chánh Văn phòng Đối với Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND cấp xã, công chức là những người thuộc 7 chức danh công chức cấp xã theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và được Chủ tịch UBND cấp xã phân công dựa trên tình hình cụ thể của từng địa phương.

Hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt trong cải cách nền hành chính và thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, phụ thuộc vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức Việc triển khai cơ chế này sẽ tạo ra một bộ phận đầu mối, với các công chức đại diện cho cơ quan để tiếp nhận và hướng dẫn thủ tục hành chính, đồng thời trả kết quả cho cá nhân và tổ chức.

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ MỘT CỬA, CƠ CHẾ MỘT CỬA LIÊN THÔNG TẠI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
13. Trương Đắc Linh (2007), “Một dấu trong cơ chế “Một cửa, một dấu” của chính quyền quận, huyện Tp. Hồ Chí Minh: Ý tưởng đột phá nhưng thực hiện nửa vời, trái pháp luật và không khả thi”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (06) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một dấu trong cơ chế “Một cửa, một dấu” của chính quyền quận, huyện Tp. Hồ Chí Minh: Ý tưởng đột phá nhưng thực hiện nửa vời, trái pháp luật và không khả thi”, "Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Trương Đắc Linh
Năm: 2007
17. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long (2015), Báo cáo số 41/BC-SKHĐT thực hiện cải cách hành chính quý IV và cả năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo số 41/BC-SKHĐT thực hiện cải cách hành chính quý IV và cả năm 2014
Tác giả: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long
Năm: 2015
19. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014 (Dân số và Lao động), Nxb. Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Niên giám thống kê 2014 (Dân số và Lao động)
Tác giả: Tổng cục Thống kê
Nhà XB: Nxb. Thống kê
Năm: 2015
20. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014 (Đơn vị hành chính, Đất đai và Khí hậu), Nxb. Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Niên giám thống kê 2014 (Đơn vị hành chính, Đất đai và Khí hậu)
Tác giả: Tổng cục Thống kê
Nhà XB: Nxb. Thống kê
Năm: 2015
21. Phạm Huy Thông (2008), Cơ chế một cửa liên thông tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ chế một cửa liên thông tại thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Phạm Huy Thông
Năm: 2008
23. Ủy ban nhân dân huyện Long Hồ (2013), Báo cáo số 187/BC-UBND về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2013 và Phương hướng công tác cải cách hành chính năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo số 187/BC-UBND về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2013 và Phương hướng công tác cải cách hành chính năm 2014
Tác giả: Ủy ban nhân dân huyện Long Hồ
Năm: 2013
14. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long (2013), Báo cáo số 1351/BC- SKHĐT tổng kết thực hiện cải cách hành chính năm 2013 và Phương hướng nhiệm vụ năm 2014 Khác
15. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long (2013), Báo cáo số 60/BC- SKHĐT tổng kết thực hiện cải cách hành chính năm 2012 của Sở Kế hoạch và Đầu tư Khác
16. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Long (2015), Báo cáo số 2255/BC- SKHĐT tổng kết công tác cải cách hành chính năm 2015 và kế hoạch thực hiện cải cách hành chính năm 2016 Khác
18. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Long (2014), Báo cáo số 2334/BC-STNMT kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính trong năm 2014 và Kế hoạch thực hiện năm 2015 Khác
22. Ủy ban nhân dân huyện Long Hồ (2012), Báo cáo số 203/BC-UBND về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2012 và Phương hướng công tác cải cách hành chính năm 2013 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.2. Các loại hình liên thông trong cơ chế một cửa liên thông. - Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa phương
Bảng 1.2. Các loại hình liên thông trong cơ chế một cửa liên thông (Trang 30)
Bảng 1.3. Quy trình thực hiện cơ chế một cửa liên thông. - Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa phương
Bảng 1.3. Quy trình thực hiện cơ chế một cửa liên thông (Trang 30)
Phụ lục 2. Sơ đồ hóa quy trình thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên - Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa phương
h ụ lục 2. Sơ đồ hóa quy trình thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên (Trang 90)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w