1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Cơ chế một cửa ở UBND xã, thị trấn thực trạng và giải pháp hòan thiện (từ thực tiễn tỉnh bến tre)

85 26 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 85
Dung lượng 704,07 KB

Cấu trúc

  • BIA.pdf

  • ND.pdf

  • TLTK.pdf

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Nền hành chính nhà nước hiệu lực và hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Hoạt động này liên quan đến tất cả cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức, bao trùm toàn bộ lãnh thổ và ảnh hưởng đến mọi vùng miền của đất nước Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nền hành chính cần đáp ứng không chỉ nhu cầu quản lý nhà nước trong nước mà còn phục vụ tốt cho các quan hệ xã hội mang tính chất quốc tế.

Việt Nam đang chuyển đổi từ nền hành chính quan liêu bao cấp sang nền hành chính phục vụ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế Tuy nhiên, nền hành chính nhà nước hiện tại còn nhiều bất cập, cần có quyết sách kịp thời để nâng cao hiệu lực và hiệu quả Trong thời gian qua, đã có nhiều nỗ lực cải cách hành chính (CCHC), bắt đầu với Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 về cải cách thủ tục hành chính Tiếp theo, vào ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2001-2010 Ngày 27/4/2006, Quyết định 94/2006/QĐ-TTg được ban hành để phê duyệt kế hoạch CCHC giai đoạn 2006-2010 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 (Khóa X) cũng đã thông qua Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 nhằm đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

CCHC hướng tới việc hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch và vững mạnh Mục tiêu là phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, cùng với hệ thống cơ quan nhà nước hoạt động hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003, quy định về việc áp dụng cơ chế “Một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước từ ngày 01/01/2005 Tỉnh Bến Tre đã triển khai cơ chế này sớm hơn một năm, từ 01/01/2004, và đã tích lũy nhiều kinh nghiệm thực tiễn Ngày 22/6/2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg, thay thế Quyết định 181/2003/QĐ-TTg, quy định thí điểm cơ chế Một cửa liên thông tại Bến Tre và một số địa phương khác Hiện nay, tỉnh Bến Tre tiếp tục thực hiện cơ chế Một cửa trên toàn địa bàn và triển khai cơ chế Một cửa liên thông ba cấp hành chính tại một số khu vực, cũng như giữa các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh.

Cơ chế Một cửa, Một cửa liên thông đã cải cách hiệu quả thủ tục hành chính (TTHC) tại chính quyền cơ sở, giúp tổ chức và cá nhân giảm bớt khó khăn và phiền hà khi làm việc với UBND cấp xã Nhờ đó, số lần đi lại của người dân đã giảm đáng kể, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ trong quá trình phục vụ.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007

3 bộ, công chức cấp xã trong công tác giải quyết công việc cho tổ chức, cá nhân

Cơ chế Một cửa, Một cửa liên thông là bước tiến quan trọng nhằm tạo môi trường minh bạch và thuận lợi cho việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC), nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn Hiện tại, chưa có cơ chế phù hợp cho UBND cấp xã, và kỹ năng giải quyết công việc hành chính của cán bộ, công chức còn hạn chế, thiếu chuyên nghiệp Thái độ phục vụ của họ chưa thực sự thân thiện, dẫn đến tình trạng người dân gặp khó khăn trong việc hiểu và thực hiện TTHC Thông tin về TTHC chưa được công khai đầy đủ, gây phiền hà cho người dân, trong khi chính quyền địa phương thường xuyên áp lực họ thực hiện nghĩa vụ tài chính ngoài quy định Sự phối hợp giữa các yếu tố trong quy trình Một cửa chưa nhịp nhàng, và ý thức tuân thủ kỷ cương hành chính của cán bộ còn thấp Ngoài ra, cũng thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả trong lĩnh vực này.

Những hạn chế và nhược điểm trong cải cách hành chính (CCHC) và cải cách thủ tục hành chính (TTHC) cần được nghiên cứu một cách toàn diện hơn Do đó, việc nghiên cứu đề tài "Cơ chế Một cửa" tại UBND xã, thị trấn, với thực trạng và giải pháp hoàn thiện từ thực tiễn tỉnh Bến Tre, là rất cần thiết cho công cuộc cải cách này.

CCHC còn nhiều việc phải làm hiện nay của cả nước nói chung cũng như của tỉnh Bến Tre nói riêng.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Gần đây, nhiều bài viết trên báo và tạp chí khoa học đã thảo luận về cơ chế Một cửa trong các lĩnh vực như hải quan, thuế và công chứng Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nghiên cứu hoặc bài viết khoa học đề cập đến cơ chế Một cửa và Một cửa liên thông tại UBND cấp xã, đặc biệt là tại UBND xã và thị trấn.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu cơ chế Một cửa trong việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) cho tổ chức và cá nhân tại UBND xã, thị trấn, mà không tập trung vào cơ chế này ở cấp phường, huyện, tỉnh và trung ương.

Luận văn này khái quát về thể chế của cơ chế Một cửa và Một cửa liên thông, đồng thời phân tích những đặc điểm chung và riêng của chính quyền cơ sở, đặc biệt là ở cấp xã và thị trấn trong việc thực hiện cơ chế này Bài viết làm rõ thực trạng của cơ chế Một cửa, Một cửa liên thông tại UBND xã, thị trấn, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế này.

Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài này được xây dựng dựa trên việc áp dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích - tổng hợp, thống kê và so sánh.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đề tài "Cơ chế Một cửa ở UBND xã, thị trấn: thực trạng và giải pháp hoàn thiện (từ thực tiễn tỉnh Bến Tre)" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng Về mặt lý luận, đề tài làm rõ cơ chế Một cửa và Một cửa liên thông, đồng thời nhấn mạnh những điểm đặc thù của cơ chế này đối với UBND xã, thị trấn Nó cũng trình bày tổng quát các yếu tố, giai đoạn, đặc điểm và mối quan hệ của cơ chế Một cửa, từ đó giúp nâng cao hiệu quả quản lý hành chính tại địa phương.

Đề tài này tập trung vào việc cải thiện cơ chế Một cửa tại UBND xã, thị trấn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) cho người dân Qua đó, nó sẽ góp phần nâng cao hiệu lực hoạt động của UBND trong quá trình cải cách hành chính nhà nước.

Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung chính gồm 3 chương:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CƠ CHẾ MỘT CỬA Ở UBND XÃ, THỊ TRẤN 1.1 Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế Một cửa và cơ chế Một cửa liên thông

Sự ra đời của cơ chế Một cửa

Thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) đối với tổ chức và cá nhân là một quá trình khó khăn, phức tạp và tốn nhiều thời gian Để hoàn thành TTHC liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình, người dân cần liên hệ với nhiều cơ quan có thẩm quyền, chủ yếu là các cơ quan chuyên môn của Ủy ban Nhân dân (UBND) Nhằm cải cách TTHC, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành công văn số 2853/UB-NCVX ngày 27/9/1995, đề xuất thí điểm tổ chức hoạt động tại UBND quận, huyện theo mô hình cơ chế mới.

Chính phủ đã đồng ý thực hiện đề án "Một cửa, một dấu" theo Thông báo số 6194/CCHC ngày 30/10/1995 Sau quá trình thí điểm và đánh giá hiệu quả của cơ chế này, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Chỉ thị số 36/CT-UB-NC ngày 11/11/1996 để tiếp tục thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế đã được phê duyệt.

Ngoài thành phố Hồ Chí Minh, nhiều tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương, Hòa Bình, Quảng Ninh, Trà Vinh, Tây Ninh, Đồng Nai, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế, Đồng Tháp và Quảng Bình cũng đang triển khai cơ chế Một cửa.

Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thanh Hoá, Bến Tre…Đến tháng

5/2003 đã có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thí điểm triển khai cơ chế Một cửa ở 196/1281 sở chiếm 15,30%; 160/631 cấp huyện chiến 25,30% và khoảng 6% đơn vị cấp xã 2

Vào tháng 6/2003, Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính tổ chức hội nghị tổng kết thí điểm mô hình “Một cửa” Sau hội nghị, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ dự thảo Quy chế thực hiện cơ chế “Một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước địa phương Ngày 04/9/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 181/2003/QĐ-TTg về Quy chế này, trong đó Điều 17 quy định rằng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện cơ chế “Một cửa” từ ngày 01 tháng sau đó.

Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2005, các cấp xã sẽ tiến hành tổng kết và đánh giá hàng năm, đồng thời gửi báo cáo về Bộ Nội vụ để tổng hợp và trình Thủ tướng Chính phủ.

Kể từ đây, việc thực hiện cơ chế Một cửa ở UBND cấp xã mới được thể chế hóa và triển khai thực hiện trong thực tiễn.

Mục đích của cơ chế Một cửa và cơ chế Một cửa liên thông

Đề tài này mang ý nghĩa thực tiễn quan trọng, nhằm đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế Một cửa tại UBND xã, thị trấn Điều này sẽ góp phần cải thiện quy trình giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) cho nhân dân, đồng thời nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của UBND trong công cuộc cải cách hành chính nhà nước.

6 Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung chính gồm 3 chương:

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CƠ CHẾ MỘT

CỬA Ở UBND XÃ, THỊ TRẤN

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA Ở UBND XÃ, THỊ TRẤN TẠI TỈNH BẾN TRE

CHƯƠNG 3: CÁC ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN

THIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA Ở UBND XÃ, THỊ TRẤN

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA CƠ CHẾ “MỘT CỬA” Ở UỶ BAN

NHÂN DÂN XÃ, THỊ TRẤN

1.1 Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế Một cửa, Một cửa liên thông

1.1.1 Sự ra đời của cơ chế Một cửa

Thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) đối với tổ chức và cá nhân là một quá trình khó khăn, phức tạp và tốn nhiều thời gian Người dân thường phải liên hệ với nhiều cơ quan, chủ yếu là các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân (UBND) để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Nhằm cải cách TTHC, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành công văn số 2853/UB-NCVX vào ngày 27/9/1995, đề xuất thí điểm tổ chức hoạt động tại UBND quận, huyện theo mô hình cơ chế mới.

Đề án "Một cửa, một dấu" đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý thực hiện theo Thông báo số 6194/CCHC ngày 30/10/1995 Sau quá trình thí điểm và tổng kết, cơ chế này đã chứng minh hiệu quả, dẫn đến việc UBND thành phố Hồ Chí Minh ban hành Chỉ thị số 36/CT-UB-NC ngày 11/11/1996 nhằm tiếp tục thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế này.

Ngoài thành phố Hồ Chí Minh, nhiều tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương, Hòa Bình, Quảng Ninh, Trà Vinh, Tây Ninh, Đồng Nai, Cần Thơ, Thừa Thiên Huế, Đồng Tháp và Quảng Bình cũng đang triển khai cơ chế Một cửa.

Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thanh Hoá, Bến Tre…Đến tháng

5/2003 đã có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thí điểm triển khai cơ chế Một cửa ở 196/1281 sở chiếm 15,30%; 160/631 cấp huyện chiến 25,30% và khoảng 6% đơn vị cấp xã 2

Vào tháng 6 năm 2003, Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính tổ chức hội nghị tổng kết mô hình “Một cửa” Sau hội nghị, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ dự thảo Quy chế thực hiện cơ chế “Một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước địa phương Ngày 04 tháng 9 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 181/2003/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện cơ chế “Một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước Theo Điều 17 của Quy chế, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện cơ chế “Một cửa” tại cấp tỉnh và cấp huyện từ ngày 01 tháng 10 năm 2003.

Từ ngày 01 tháng 01 năm 2005, các cấp xã sẽ tiến hành tổng kết, đánh giá hàng năm và gửi báo cáo về Bộ Nội vụ để tổng hợp, báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ.

Kể từ đây, việc thực hiện cơ chế Một cửa ở UBND cấp xã mới được thể chế hóa và triển khai thực hiện trong thực tiễn

1.1.2 Quá trình áp dụng, phát triển của cơ chế Một cửa và sự ra đời của cơ chế Một cửa liên thông

Cơ chế Một cửa tại UBND cấp xã được triển khai nhanh chóng, vì ở cấp xã chỉ có UBND là cơ quan duy nhất giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) Mặc dù UBND cấp xã không có cơ quan chuyên môn trực thuộc và chỉ sử dụng một con dấu duy nhất, nhưng trước khi áp dụng cơ chế Một cửa, việc giải quyết TTHC thực tế đã diễn ra qua Một cửa Tuy nhiên, do quy trình giải quyết TTHC chưa được tổ chức một cách quy củ và rõ ràng, nên tổ chức và cá nhân thường phải gặp nhiều cán bộ, công chức khác nhau để hoàn thành thủ tục hành chính tại địa phương.

2 Báo cáo số 2770/BC-BNV ngày 30 tháng 10 năm 2004 của Bộ Nội vụ

Khi chưa áp dụng cơ chế Một cửa ở cấp xã, tổ chức và cá nhân phải liên hệ riêng với từng cán bộ, công chức của UBND cấp xã, dẫn đến tình trạng đi lại nhiều lần và thiếu sự hướng dẫn thống nhất trong thủ tục Việc không xác định rõ trách nhiệm khiến cán bộ cấp xã dễ rơi vào tình trạng quan liêu và tắc trách Sự khác biệt cơ bản giữa hai giai đoạn này là việc thành lập bộ phận chuyên môn tiếp nhận hồ sơ để giải quyết thủ tục hành chính cho người dân Nhiều thủ tục, sau khi thực hiện tại UBND cấp xã, vẫn yêu cầu người dân liên hệ với các cơ quan chuyên môn cấp trên hoặc các cấp hành chính khác, gây khó khăn trong quá trình giải quyết.

Hiện nay, các thủ tục hành chính (TTHC) thường thiếu sự liên thông và phối hợp, khiến cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp phải đến nhiều cơ quan khác nhau để thực hiện Để khắc phục tình trạng này, vào ngày 22 tháng 06 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg, thiết lập cơ chế Một cửa, Một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước địa phương Quyết định này thay thế Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg, góp phần giảm bớt gánh nặng cho người dân khi phải liên hệ với nhiều cấp hành chính để giải quyết công việc Cơ chế Một cửa liên thông tại cấp huyện và tỉnh đã giúp đơn giản hóa quy trình giải quyết TTHC cho người dân.

3 Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính ban hành kèm Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày ngày 10 tháng 01 năm

2007 của Thủ tướng Chính phủ

Cơ chế Một cửa liên thông ở cấp xã đã giúp người dân giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) một cách thuận lợi, chỉ cần nộp hồ sơ tại một cơ quan duy nhất Điều này mang lại sự tiện lợi, khi người dân chỉ cần liên hệ với cấp xã, cơ sở gần gũi nhất, bất kể thủ tục có liên quan đến nhiều cơ quan hay cấp hành chính khác nhau.

1.1.3 Mục đích của cơ chế Một cửa, Một cửa liên thông

Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế Cải cách lập pháp và tư pháp đã có những tiến bộ đáng ghi nhận Tuy nhiên, công tác cải cách hành chính (CCHC) vẫn gặp nhiều khó khăn, với thủ tục hành chính (TTHC) phức tạp, cùng với tình trạng cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm và có biểu hiện nhũng nhiễu.

Việc áp dụng cơ chế “Một cửa” đã tạo ra sự chuyển biến quan trọng trong mối quan hệ và quy trình giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức và công dân Cơ chế này giúp giảm thiểu phiền hà cho người dân và tổ chức, đồng thời chống lại các hiện tượng như quan liêu, tham nhũng và cửa quyền của cán bộ, công chức Qua đó, nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước.

Cơ chế Một cửa, Một cửa liên thông được đề ra nhằm đạt các mục đích như sau:

Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) giúp tổ chức và cá nhân tiết kiệm thời gian và công sức, giảm thiểu phiền hà khi giải quyết công việc tại các cơ quan hành chính nhà nước Điều này ngăn chặn tình trạng phải đi lại nhiều lần giữa các cơ quan để hoàn thành một TTHC, đồng thời hạn chế rủi ro xảy ra tắc trách ở bất kỳ khâu nào trong quá trình giải quyết Nhờ đó, tổ chức và cá nhân chỉ cần liên hệ với một địa điểm duy nhất để hoàn tất TTHC, mang lại sự thuận tiện và hiệu quả hơn trong quá trình làm việc.

4 Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ

10 trong thực tế khi người dân có công việc cần liên hệ với cơ quan hành chính là luôn luôn sợ bị phiền hà, hạch sách, gây khó dễ

- Cơ chế Một cửa giúp người dân được giải quyết TTHC một cách nhanh chóng, thuận tiện

Cơ chế Một cửa góp phần đảm bảo tính minh bạch và công khai trong việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) của tổ chức và cá nhân Việc công khai hóa hướng dẫn TTHC tại UBND cấp xã giúp tổ chức và cá nhân dễ dàng hoàn thiện hồ sơ, đồng thời giảm thiểu tình trạng tùy tiện của công chức trong quá trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ Điều này cũng hạn chế việc cán bộ, công chức tự ý đặt ra những yêu cầu và giấy tờ trái pháp luật, thường gây khó khăn cho người dân.

Đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là cấp xã, đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại tệ quan liêu, cửa quyền và tham nhũng Nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ của họ sẽ góp phần cải thiện chất lượng phục vụ tổ chức và cá nhân, đồng thời tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra ở cấp gần dân nhất.

Khái niệm cơ chế Một cửa và cơ chế Một cửa liên thông

1.2.1 Khái niệm cơ chế Một cửa

Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04 tháng 9 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ đã định nghĩa cơ chế Một cửa, trong đó nêu rõ rằng "Một cửa" là phương thức giải quyết công việc của tổ chức và công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước Cơ chế này bao gồm quá trình tiếp nhận yêu cầu, hồ sơ và trả kết quả thông qua một đầu mối duy nhất là BPTNVTKQ tại cơ quan hành chính.

Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 06 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung khái niệm về cơ chế Một cửa Cơ chế Một cửa được định nghĩa là quy trình giải quyết công việc của tổ chức và cá nhân, bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài, dưới sự quản lý và thẩm quyền của một cơ quan hành chính nhà nước Tất cả các bước từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, đến giải quyết và trả kết quả đều được thực hiện tại một đầu mối, là Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước.

Như vậy về cơ bản cơ chế Một cửa có các đặc điểm như sau:

Cơ chế Một cửa là phương thức giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) dành cho tổ chức và cá nhân, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch TTHC này thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của một cơ quan hành chính nhà nước, giúp đơn giản hóa quy trình và nâng cao trải nghiệm của người dân trong việc thực hiện các thủ tục hành chính.

Quá trình giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) bao gồm các bước hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, xử lý và trả kết quả, tất cả đều diễn ra tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính.

- Trong quá trình giải quyết TTHC, các cán bộ, công chức phải tuân theo một quy trình nhất định

1.2.2 Khái niệm cơ chế Một cửa liên thông

Theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 06 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, cơ chế Một cửa liên thông được định nghĩa là phương thức giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân liên quan đến nhiều cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp hoặc giữa các cấp hành chính Cơ chế này bao gồm các bước từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, đến giải quyết và trả kết quả, tất cả đều được thực hiện tại một đầu mối là Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của một cơ quan hành chính nhà nước.

Cơ chế Một cửa liên thông sở hữu đầy đủ các đặc điểm của cơ chế Một cửa, nhưng có sự khác biệt quan trọng Cụ thể, cơ chế Một cửa chỉ giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) liên quan đến một cơ quan hành chính nhà nước, trong khi cơ chế Một cửa liên thông được thiết kế để xử lý TTHC mà yêu cầu sự phối hợp của nhiều cơ quan hành chính và nhiều cấp hành chính khác nhau.

1.2.3 Mối quan hệ giữa cơ chế Một cửa và cơ chế Một cửa liên thông

Mỗi thủ tục hành chính (TTHC) đều nhằm giải quyết một yêu cầu cụ thể từ tổ chức hoặc cá nhân, như xin giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hay đăng ký kinh doanh Cơ chế Một cửa cho phép tổ chức, cá nhân chỉ cần liên hệ với một cơ quan hành chính duy nhất, thường là UBND cấp xã, để thực hiện TTHC Nếu TTHC liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau, trách nhiệm phối hợp và thống nhất thuộc về các cơ quan nhà nước, không phải là gánh nặng của người dân Nhà nước cần đơn giản hóa quy trình TTHC để tránh gây khó khăn và phức tạp cho công dân.

Tổ chức và cá nhân không cần phải liên hệ nhiều nơi để giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) Cả cơ chế Một cửa và Một cửa liên thông đều hướng đến việc giải quyết TTHC qua "một cửa" Một cửa liên thông về bản chất là cơ chế Một cửa, trong đó Một cửa giản đơn thuộc thẩm quyền của một cơ quan hành chính, còn Một cửa phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan và cấp hành chính khác nhau.

Thẩm quyền hành chính là sự thống nhất trong việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) cho tổ chức và cá nhân, phản ánh quyền lực của bộ máy hành chính nhà nước đối với các vụ việc cụ thể Sự phân chia thẩm quyền giữa các cơ quan và cấp độ khác nhau được quy định bởi thể chế nhằm đạt được mục tiêu quản lý nhà nước Tuy nhiên, nếu sự phân chia này gây ra khó khăn, phức tạp, các cơ quan hành chính nhà nước cần tự giải quyết vấn đề, không nên để tổ chức và cá nhân gặp phải phiền hà, khó khăn không cần thiết.

1.2.4 Các yếu tố của cơ chế Một cửa và cơ chế Một cửa liên thông

Sự vận hành của cơ chế Một cửa phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:

- Trình độ, năng lực, kỹ năng, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức có trách nhiệm trong việc giải quyết TTHC cho tổ chức, cá nhân

Các quy định liên quan đến hành vi của cán bộ, công chức bao gồm quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật Cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008, cùng với Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức Những quy phạm này nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong công tác của cán bộ, công chức.

- Quy định của pháp luật về TTHC mà tổ chức, cá nhân yêu cầu

- Phiếu nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả

- Quy trình giải quyết hồ sơ TTHC tại BPTNVTKQ

- Cơ sở vật chất xử lý hồ sơ hành chính

- Trụ sở của UBND cấp xã

- Bảng công khai hướng dẫn TTHC

- Bảng công khai lệ phí

- Trình độ nhận thức của tổ chức, cá nhân.

UBND xã, thị trấn và cơ chế Một cửa

1.3.1 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND xã, thị trấn

UBND xã, thị trấn thực hiện nhiều nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và tiểu thủ công nghiệp Đồng thời, cơ quan này cũng quản lý lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải, giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá và thể dục thể thao Ngoài ra, UBND còn đảm nhiệm nhiệm vụ liên quan đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thi hành pháp luật, cũng như thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo tại địa phương.

5 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003

UBND xã, thị trấn đảm nhận vai trò quản lý nhà nước toàn diện trên địa bàn, với nội dung quản lý phong phú và đa dạng, tương tự như chức năng và nhiệm vụ của UBND cấp tỉnh và cấp huyện Các quyết sách lớn và phức tạp liên quan đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội đều thuộc thẩm quyền quyết định của UBND, điều này là hợp lý và cần thiết.

1.3.2 Cơ cấu tổ chức của UBND xã, thị trấn

Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003 quy định rằng UBND cấp xã có từ ba đến năm thành viên và phải họp ít nhất một lần mỗi tháng Các quyết định của UBND chỉ có hiệu lực khi được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành, theo Điều 11 và Điều 12 của Nghị định số 107/2004/NĐ-CP ngày 01 tháng.

Theo quy định của Chính phủ năm 2004, cơ cấu UBND các cấp bao gồm Chủ tịch, một hoặc hai Phó Chủ tịch và các ủy viên, trong đó có thể có ủy viên phụ trách công an và quân sự Các công chức chuyên môn của UBND cấp xã không phải là thành viên UBND, ngoại trừ một số ít xã có công chức Văn phòng-thống kê là Uỷ viên Quy trình ra quyết định của UBND hiện tại yêu cầu tổ chức họp theo thủ tục quy định, dẫn đến khả năng chậm trễ trong việc giải quyết vấn đề Mặc dù UBND họp ít nhất một lần mỗi tháng, nhưng không thường xuyên tổ chức các cuộc họp Để nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức và cá nhân, nên quy định thẩm quyền này thuộc về Chủ tịch UBND cấp xã hoặc ủy viên hành chính, nhằm đảm bảo việc giải quyết thủ tục hành chính được thông suốt Tác giả sẽ làm rõ vấn đề này ở mục 3.2.1.

1.3.3 Cán bộ, công chức của UBND xã, thị trấn

6 Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22 tháng 06 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ

UBND cấp xã đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối Nhà nước với nhân dân, đảm bảo các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước được thực thi hiệu quả trong đời sống Mức độ thực thi pháp luật và sự hiệu quả của các chính sách phần lớn phụ thuộc vào hoạt động của chính quyền cơ sở Hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức tại địa phương không chỉ thể hiện sự đại diện của Nhà nước trong việc thực thi pháp luật mà còn thể hiện trách nhiệm của công dân trong việc chấp hành các quy định pháp luật.

Tầm quan trọng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức cấp xã ngày càng được khẳng định qua việc bổ sung và hoàn thiện các quy định Hiện nay, các văn bản có hiệu lực bao gồm Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2000 và 2003), Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ, cùng với Thông tư số 03/2004/TT-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ trưởng.

Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ; Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm

Nghị định số 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ và chính sách cho cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn, được hướng dẫn bởi Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT/BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 14 tháng 05 năm 2004 Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004, quy định tiêu chuẩn cụ thể cho cán bộ, công chức tại địa phương Ngoài ra, UBND tỉnh Bến Tre cũng đã ban hành Quyết định số 1804/2006/QĐ-UBND ngày 08 tháng 8 năm 2006, quy định về quản lý, sử dụng và tuyển dụng cán bộ chuyên trách và công chức tại xã, phường, thị trấn.

Đến nay, quy định về cán bộ, công chức cấp xã đã được quy định trong Luật Cán bộ, công chức, được ban hành vào ngày 13/11/2008 và có hiệu lực từ 01/01/2010.

Khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 định nghĩa cán bộ, công chức cấp xã như sau:

Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử vào các chức vụ trong Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân theo nhiệm kỳ.

Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội

Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng để đảm nhiệm các chức danh chuyên môn và nghiệp vụ tại Ủy ban nhân dân cấp xã Họ làm việc trong biên chế và nhận lương từ ngân sách nhà nước.

Luật Cán bộ, công chức ban hành ngày 13/11/2008 quy định tại Chương V về cán bộ, công chức cấp xã, trong đó nêu rõ các chức vụ và chức danh của cán bộ, công chức cấp xã.

- Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:

+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ

+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân

+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân

+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam chịu trách nhiệm đối với các xã, phường, thị trấn có hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam.

+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam

- Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:

+ Chỉ huy trưởng Quân sự

+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã)

+ Văn hóa - xã hội Điều 62 của Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 quy định nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức cấp xã như sau:

1 Thực hiện các nghĩa vụ, quyền quy định tại Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan, điều lệ của tổ chức mà mình là thành viên

2 Cán bộ, công chức cấp xã khi giữ chức vụ được hưởng lương và chế độ bảo hiểm; khi thôi giữ chức vụ, nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật được xem xét chuyển thành công chức, trong trường hợp này, được miễn chế độ tập sự và hưởng chế độ, chính sách liên tục; nếu không được chuyển thành công chức mà chưa đủ điều kiện nghỉ hưu thì thôi hưởng lương và thực hiện đóng bảo hiểm tự nguyện theo quy định của pháp luật; trường hợp là cán bộ, công chức được điều động, luân chuyển, biệt phái thì cơ quan có thẩm quyền bố trí công tác phù hợp hoặc giải quyết chế độ theo quy định của pháp luật Đồng thời, Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 quy định việc bầu cử cán bộ cấp xã được thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, điều lệ của tổ chức có liên quan, các quy định khác của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền Việc tuyển dụng công chức cấp xã phải thông qua thi tuyển; đối với các xã miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì có thể được tuyển dụng thông qua xét tuyển Chủ tịch UBND

18 cấp huyện tổ chức tuyển dụng công chức cấp xã theo quy định của Chính phủ Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý

1.3.4 Cơ sở vật chất của UBND xã, thị trấn Điều 2 của Quyết định số 32/2004/QĐ-BTC ngày 06/4/2004 của Bộ Tài chính quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước tại xã, phường, thị trấn quy định định mức sử dụng trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước cấp xã tại khu vực đồng bằng, trung du không quá 500 m 2 Diện tích này bao gồm nhà dùng để làm việc cho các cán bộ, công chức làm công tác đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, chuyên môn nghiệp vụ, phục vụ cho công tác tiếp dân, họp, lưu trữ hồ sơ và sử dụng cho các nhu cầu công việc chung khác tại xã Điều 12 của Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định diện tích BPTNVTKQ như sau: Diện tích phòng làm việc của BPTNVTKQ của UBND cấp xã tối thiểu 40m 2 Trong tổng diện tích phòng làm việc của BPTNVTKQ, UBND cấp xã phải dành 50% diện tích để bố trí nơi ngồi chờ cho tổ chức, cá nhân

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA Ở

CÁC ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA Ở UBND XÃ, THỊ TRẤN 3.1 Các định hướng hòan thiện cơ chế Một cửa

Tiếp tục áp dụng cơ chế Một cửa và cơ chế Một cửa liên thông nhưng gọi chung là cơ chế Một cửa .41 3.1.2 Đề cao trách nhiệm cá nhân Chủ tịch UBND cấp xã

Cơ chế Một cửa là một bước đột phá quan trọng trong công tác cải cách hành chính (CCHC), đã được khẳng định qua hai năm thực hiện tại cả ba cấp chính quyền địa phương Việc triển khai đồng loạt cơ chế này tại các cơ quan hành chính, bao gồm cả Trung ương, cho thấy đây là một chủ trương đúng đắn Để nâng cao hiệu quả, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ chế Một cửa và Một cửa liên thông tại các cơ quan nhà nước, đồng thời mở rộng áp dụng tại các đơn vị sự nghiệp công như bệnh viện và trường học Cơ chế Một cửa không chỉ phù hợp với thực tiễn mà còn đáp ứng tốt yêu cầu của công cuộc CCHC.

Trong thực tế, nhiều hồ sơ thủ tục hành chính (TTHC) cần thực hiện qua nhiều cấp hành chính, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp tỉnh, nơi có thể yêu cầu sự tham gia của từ hai cơ quan chuyên môn trở lên Chẳng hạn, hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hồ sơ xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các tổ chức, người nước ngoài, hoặc cơ sở tôn giáo, cũng như hồ sơ xin cải chính hộ tịch đều là những ví dụ tiêu biểu Hầu hết các hồ sơ TTHC đều phải tuân thủ quy trình này.

20 Báo cáo số 01/BC-BCĐCCHC ngày 27/4/2006 của Ban chỉ đạo CCHC của Chính phủ

21 Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X

Tất cả các đối tượng đều phải thực hiện nghĩa vụ tài chính như nộp phí và lệ phí, bao gồm cả thuế Những nghĩa vụ này thường được thực hiện tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ và cơ quan thuế.

Cơ chế Một cửa được áp dụng cho các thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm quyền của một cơ quan nhà nước, trong khi cơ chế Một cửa liên thông áp dụng cho các TTHC có liên quan đến nhiều cấp hành chính và nhiều cơ quan khác nhau Dù TTHC có liên quan đến nhiều cấp và ngành, pháp luật cần quy định một đầu mối tiếp nhận hồ sơ để người dân dễ dàng hiểu và thực hiện Trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, ngành thuộc về các cơ quan nhà nước Do đó, việc quy định rõ ràng trình tự, thủ tục, trách nhiệm và thẩm quyền của các cơ quan hành chính trong các văn bản quy phạm pháp luật là rất cần thiết.

3.1.2 Đề cao trách nhiệm cá nhân Chủ tịch UBND cấp xã trong công tác giải quyết TTHC cho tổ chức, cá nhân

Quản lý xuất hiện khi lao động được xã hội hóa, tức là khi có sự phân công lao động trong cộng đồng Để lao động đạt được mục đích, cộng đồng cần có định hướng chung, dù là tự giác hay miễn cưỡng Quản lý nhà nước gắn liền với quyền uy, vì không có quyền uy thì không thể thực hiện quản lý hiệu quả Quyền uy được hình thành từ bạo lực, uy tín và phương pháp Bộ máy hành chính nhà nước được thiết lập để thực hiện chức năng quản lý cơ bản, hoạt động một cách thường xuyên và liên tục, tạo thành các chu trình quản lý ổn định Dù có sự thay đổi trong chính thể, hoạt động hành chính vẫn phải duy trì tính ổn định và không bị gián đoạn Các cơ quan hành chính nhà nước yêu cầu tính chuyên nghiệp và chuyên môn cao, cần giải quyết các vấn đề nhanh chóng thông qua mệnh lệnh.

43 quyết các TTHC cho tổ chức, cá nhân là của tập thể UBND cấp xã

Các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động theo hệ thống và thứ bậc, với quản lý nhà nước chủ yếu là ra quyết định hành chính và thực thi chúng Để đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả, thẩm quyền hành chính cần được giao cho một cá nhân, trong đó Chủ tịch UBND cấp xã là người có toàn quyền trong phạm vi lãnh thổ Mỗi cán bộ, công chức của UBND cũng phải chịu trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật Chủ tịch UBND có nhiệm vụ đôn đốc và xử lý cán bộ, công chức để đạt mục tiêu quản lý hợp pháp Sự khác biệt trong nhận thức có thể xảy ra, dẫn đến hành vi không đồng nhất giữa các cán bộ, công chức về một vấn đề Do đó, Chủ tịch UBND cấp xã cần giải quyết các khác biệt này để đảm bảo sự nhất quán trong quản lý nhà nước, đồng thời cần được trao quyền quyết định toàn diện trong việc giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức và cá nhân.

Vì vậy mà, cần thiết thực hiện phân quyền cho Chủ tịch UBND cấp xã có toàn quyền trong việc giải quyết TTHC.

Thủ tục nào thuộc phạm vi quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở hoặc cần có ý kiến của chính quyền cơ sở thì thuộc thẩm quyền hướng dẫn, tiếp nhận giải quyết của BPTNVTKQ của UBND cấp xã

Để nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) cho người dân, cần tăng cường thẩm quyền cho UBND cấp xã trong việc hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ Cấp xã là cấp gần dân nhất, do đó các TTHC liên quan đến UBND cấp xã nên thuộc thẩm quyền của BPTNVTKQ cấp xã Nếu có TTHC nào thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, cũng cần chuyển về cấp xã để hoàn thiện hồ sơ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc liên hệ và thực hiện các thủ tục.

Bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào họat động phản biện công tác giải quyết TTHC và các quy định về TTHC của UBND cấp xã

Nhân dân ở địa phương chịu tác động trực tiếp từ việc UBND cấp xã giải quyết công việc, vì vậy việc công khai thủ tục, quy trình và lệ phí là rất quan trọng để họ có thể nắm bắt và giám sát dễ dàng Họ chính là động lực thúc đẩy cải cách hành chính (CCHC) tại địa phương, đặc biệt là trong hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (BPTNVTKQ) Do đó, cần xây dựng cơ chế thu thập ý kiến từ tổ chức, cá nhân đã liên hệ công việc với BPTNVTKQ và từ nhân dân địa phương về hoạt động CCHC và công tác của BPTNVTKQ.

Đa dạng mô hình tổ chức chính quyền cấp xã

Chủ trương không tổ chức HĐND huyện, quận, phường và bầu trực tiếp Chủ tịch UBND cấp xã là phù hợp với tình hình hiện nay Tuy nhiên, cần đa dạng hóa mô hình bầu Chủ tịch UBND cấp xã và không tổ chức HĐND phường Việc tổ chức hay không tổ chức HĐND ở cấp xã, phường, thị trấn nên do HĐND cấp tỉnh quyết định, không chỉ giới hạn ở phường mà còn có thể áp dụng cho xã, thị trấn theo đề nghị của nhân dân thông qua cuộc lấy ý kiến do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã tổ chức Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003 để quy định cơ chế cho HĐND cấp tỉnh quyết định về việc tổ chức HĐND tại các xã, phường, thị trấn.

Trong trường hợp Chủ tịch UBND cấp xã không thực thi đúng pháp luật hoặc không hoàn thành nhiệm vụ, người dân địa phương có quyền bãi miễn Nếu không bãi miễn, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và các đoàn thể có thể tổ chức bãi miễn theo cơ chế quá bán số cử tri Nếu không thể bãi miễn, Chủ tịch UBND cấp xã vẫn phải chịu trách nhiệm trước yêu cầu của nhân dân địa phương.

Để nâng cao hiệu quả quản lý hành chính, cần xây dựng cơ chế phù hợp nhằm khắc phục tình trạng 45 tịch UBND không đảm bảo trình độ nghiệp vụ về hành chính.

Các giải pháp hòan thiện

3.2.1 Phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của UBND cấp xã với Chủ tịch UBND cấp xã Đối với công tác giải quyết các TTHC cho tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền của cấp xã chỉ nên giao cho Chủ tịch UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm tòan diện về mọi họat động của công tác này Tình hình hiện nay thì “công tác lãnh đạo, điều hành thực hiện công tác CCHC ở một số đơn vị, địa phương nhất là người đứng đầu thiếu quan tâm, vận hành thiếu khoa học, thậm chí có nơi buông lơi công tác này” 22 Khi phân quyền nhiều cho Chủ tịch UBND thì cũng cần có cơ chế thích hợp để bảo đảm được tính thống nhất của thẩm quyền hành chính ở địa phương và bảo đảm được quyền hạn cho Chủ tịch UBND cấp xã trong công tác này Nghị quyết Trung ương V khóa X của Đảng đã nêu: “Quy định rõ trong luật về thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch UBND và tập thể UBND theo hướng phân định rõ những việc bắt buộc phải thảo luận và biểu quyết của UBND, những lọai việc thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch UBND” Những lọai việc thuộc thẩm quyền giải quyết TTHC của tổ chức, cá nhân thì nên quy định thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của cá nhân Chủ tịch UBND Việc giải quyết TTHC cho tổ chức, cá nhân đòi hỏi phải kịp thời, nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật Do đó, nên giao thẩm quyền quyết định cho một cá nhân để dễ dàng trong tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính Chủ tịch UBND cấp xã có thẩm quyền tuyệt đối và là tư lệnh trong các quyết định liên quan đến việc giải quyết TTHC của tổ chức, cá nhân

Nghị quyết Trung ương V khóa X của Đảng cũng định hướng: “Người đứng đầu cơ quan hành chính có trách nhiệm đề xuất, giới thiệu nhân sự cấp phó

22 Huỳnh Duy Nhân (2008), http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&idB04&Itemid7

Chủ tịch UBND xã có trách nhiệm thành lập bộ máy hành chính để đảm bảo hoạt động hiệu lực và hiệu quả tại địa phương Việc này cần được thực hiện theo đúng quy trình, với sự xem xét và quyết định của cấp ủy có thẩm quyền, sau đó giới thiệu cho cơ quan dân cử để bầu hoặc bổ nhiệm Điều này nhằm đảm bảo tính thống nhất và thông suốt trong công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện sau này.

Ngày 27/10/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 157/2007/NĐ-

Nghị định số 157/2007/NĐ-CP quy định chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ công vụ, với Điều 7 nêu rõ 10 nội dung trách nhiệm Tuy nhiên, nghị định này chỉ đề cập đến nguyên tắc chịu trách nhiệm mà chưa thiết lập cơ chế trao quyền và phân quyền thực chất cho người đứng đầu Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành cũng thiếu quy định mạnh mẽ về phân quyền Nhận xét rằng "tất cả những thiếu sót, tồn tại nêu trên thuộc trách nhiệm của người đứng đầu" là chính xác, đặc biệt đối với các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh và huyện Tuy nhiên, sự bất công xảy ra khi quyền hạn của Chủ tịch UBND cấp xã chưa thực sự tuyệt đối, trong khi trách nhiệm lại rất toàn diện.

3.2.2 Tạo sự cân bằng kiểm tra giữa UBND cấp huyện và nhân dân ở địa phương

Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền bổ nhiệm Uỷ viên hành chính cấp xã nhằm đảm bảo công tác quản lý được thực hiện hiệu quả Thời gian công tác của Uỷ viên hành chính tại cấp xã do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định Uỷ viên hành chính là công chức chuyên môn, có trách nhiệm giải quyết tất cả các thủ tục hành chính trong các lĩnh vực của cấp xã và là người đứng đầu Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả.

23 Huỳnh Duy Nhân (2008), http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&idB04&Itemid7

Chủ tịch UBND cấp xã phải được bầu trực tiếp và chịu trách nhiệm thực hiện đúng chỉ đạo của UBND cấp huyện trong việc giải quyết thủ tục hành chính (TTHC) và đáp ứng yêu cầu của nhân dân Nếu không tuân thủ, họ có thể bị kiểm soát thông qua việc bổ nhiệm Uỷ viên hành chính và có thể bị bãi miễn nếu không được tín nhiệm Điều này nhằm hạn chế tình trạng tùy tiện và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cấp xã đối với nhân dân.

Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động hành chính nhà nước, đặc biệt là việc tiếp nhận và giải quyết yêu cầu về thủ tục hành chính (TTHC) của tổ chức và cá nhân Cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003 để quy định rõ Chủ tịch UBND cấp xã có toàn quyền quyết định đối với các yêu cầu TTHC Hiện nay, các nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết của HĐND mới thuộc trách nhiệm của UBND, tuy nhiên, số lượng Nghị quyết của HĐND cấp xã không nhiều và nội dung chủ yếu không đáng kể.

Chính quyền cấp xã hiện chỉ có HĐND do nhân dân bầu ra và UBND do HĐND bầu ra, không có cơ quan chuyên môn nào khác có thẩm quyền UBND có các ban như Ban Tài chính, Ban Tư pháp, nhưng các ban này hoạt động như nhóm tham mưu cho UBND và không độc lập Các ban này chỉ hoạt động hình thức, với quyết định cuối cùng thuộc về Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND Việc thành lập các ban này vừa hình thức, vừa lãng phí và thiếu cơ chế trách nhiệm rõ ràng, do đó cần thiết không quy định việc thành lập các ban nhóm thuộc UBND cấp xã trong các văn bản pháp luật.

3.2.3 Bảo đảm trách nhiệm kỷ luật trong thi hành công vụ và trách nhiệm cá nhân

Báo cáo số 01/BC-BCĐCCHC ngày 27/4/2006 của Ban chỉ đạo CCHC của Chính phủ nhấn mạnh sự cần thiết phải làm rõ trách nhiệm và thẩm quyền của từng cán bộ, công chức trong cơ chế Một cửa Theo báo cáo, nhiều quy định pháp lý về trách nhiệm thực thi công vụ còn thiếu rõ ràng, đặc biệt là đối với người đứng đầu các cơ quan hành chính Để khắc phục điều này, cần quy định bằng văn bản trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ, công chức, bao gồm nhiệm vụ, sản phẩm, số lượng, chất lượng, thời gian hoàn thành, và trách nhiệm báo cáo Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm ban hành các quy định này một cách chính xác để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động công vụ.

Chủ tịch UBND cấp xã cần ban hành quy trình giải quyết cho từng thủ tục hành chính (TTHC) cụ thể Trong quá trình này, cần có văn bản ghi nhận ý kiến, đề xuất, mốc thời gian, kết quả giải quyết và nguyên nhân, hậu quả của việc thực hiện không đúng Điều này là cần thiết vì công chức có nhiều quyền nhưng trách nhiệm không rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc quy trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra Hiện tại, Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg chỉ yêu cầu quy trình chung cho việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ mà không quy định cho từng TTHC, trong khi mỗi TTHC có quy trình riêng biệt và sự khác nhau đáng kể.

Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ cần

24 Nguyễn Phước Thọ (2003), Thực trạng và giải pháp nâng cao kỷ luật hành chính trong giai đọan hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12 (tháng 12/2003)

Chủ tịch UBND cấp xã cần ban hành quy chế và quy trình giải quyết cho từng thủ tục hành chính (TTHC) cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, theo quy định tại Điều 49.

3.2.4 Các giải pháp về cán bộ, công chức

Trong bối cảnh hiện nay, quy định pháp luật về các cấp chính quyền chưa đồng nhất, dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt động và luật pháp chưa theo kịp thực tiễn Chế độ tiền lương không đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, trong khi trình độ pháp luật, năng lực quản lý và chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức cấp xã còn hạn chế Do đó, việc hoàn thiện đội ngũ này là rất cần thiết.

3.2.4.1 Nâng cao trình độ và ý thức tuân thủ pháp luật cho cán bộ, công chức khi thực hiện công vụ

Pháp luật hiện nay thường xuyên thay đổi nhưng dễ dàng tiếp cận nhờ vào sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng Tuy nhiên, vấn đề chính nằm ở người tiếp nhận thông tin Cán bộ, công chức cấp xã chủ yếu được đào tạo qua thực tiễn công việc và các lớp học về quản lý nhà nước, chính trị, dẫn đến việc giải quyết công việc đôi khi chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân, mang tính chủ quan và bảo thủ.

Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ, cán bộ, công chức cần trang bị tri thức đa dạng để theo kịp sự phát triển xã hội Cán bộ, công chức ở cấp xã, thị trấn cần có trình độ lý luận chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, cùng với chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực cụ thể Đặc biệt, kiến thức pháp luật và khả năng vận dụng pháp luật là rất quan trọng Để nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức, cần khuyến khích họ tự học tập và rèn luyện, bên cạnh việc tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên đề và chương trình đào tạo cơ bản.

Cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức với phong cách làm việc chuyên nghiệp, bởi thực tế hiện nay cho thấy nhiều cán bộ cấp xã còn lề mề, chậm chạp, ăn mặc không chỉn chu và giao tiếp không phù hợp Để khắc phục tình trạng này, cần tổ chức các lớp đào tạo chuyên sâu về phong cách hiện đại cho cán bộ, công chức cấp xã và đưa tiêu chí này vào xét thi đua một cách nghiêm túc để mọi người thực hiện triệt để.

3.2.4.2 Bảo đảm các chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã

Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ quy định về chế độ và chính sách đối với cán bộ, công chức tại các xã, phường, thị trấn Cùng với đó, Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT/BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 14 tháng 05 năm 2004 hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các chế độ, chính sách này, nhằm đảm bảo quyền lợi và nâng cao hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ công chức địa phương.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Bộ Nội vụ, Báo cáo số 2770/BC-BNV ngày 30 tháng 10 năm 2004 sơ kết một năm thực hiện cơ chế “một cửa” theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ Sách, tạp chí
Tiêu đề: một cửa
19. HĐND tỉnh Bến Tre, Nghị quyết số 03/2008/NQ-HĐND ngày 11/4/2008 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ở các cấp đã áp dụng cơ chế “một cửa” Sách, tạp chí
Tiêu đề: một cửa
20. HĐND tỉnh Bến Tre, Nghị quyết số 05/2009/NQ-HĐND ngày 13/02/2009 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với cán bộ, công chức làm việc tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ở các cấp đã áp dụng cơ chế “một cửa” Sách, tạp chí
Tiêu đề: một cửa
26. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương Sách, tạp chí
Tiêu đề: một cửa
52. Huỳnh Duy Nhân, http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=4204&Itemid=37 Link
1. Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, Báo cáo số 01/BC-BCĐCCHC ngày 27/4/2006 tổng kết thực hiện giai đọan I (2001-2005) Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đọan 2001-2010 và phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính giai đọan II (2006-2010) Khác
2. Ban chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh Bến Tre, Báo cáo số 59/BC-CCHC ngày 15/7/2005 về tình hình triển khai thực hiện Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ ở 03 cấp tỉnh, huyện, xã Khác
4. Bộ Nội vụ, Công văn số 2732/BNV-CCHC ngày 26/10/2004 về việc thực hiện cơ chế một cửa tại UBND cấp xã Khác
5. Bộ Tài chính, Quyết định số 32/2004/QĐ-BTC ngày 06/4/2004 quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước tại xã, phường, thị trấn Khác
6. Bộ Nội vụ, Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn Khác
7. Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động-thương binh-xã hội, Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT/BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 14 tháng 05 năm 2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn Khác
8. Bộ Nội vụ, Thông tư số 03/2004/TT-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 hướng dẫn thực hiện Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ Khác
9. Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính, Thông tư liên tịch số 08/2005/TTLT-BNV-BTC ngày 05 tháng 01 năm 2005 hướng dẫn thực hiện chế độ trả lương làm việc vào ban đêm, làm thêm giờ đối với cán bộ, công chức, viên chức Khác
10. Chính phủ, Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ Khác
11. Chính phủ, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn Khác
12. Chính phủ, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn Khác
15. Chính phủ, Nghị định s ố 204/2004/N Đ -CP ngày 14 tháng 12 n ăm 2004 v ề ch ế độ ti ề n l ương đố i v ới cán b ộ , công ch ức, viên ch ứ c và l ự c l ượng v ũ trang Khác
16. Chính phủ, Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức Khác
17. Chính phủ, Nghị quyết số 53/2007/NQ-CP ngày 07/11/2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần Khác
18. HĐND tỉnh Bến Tre, Nghị quyết 47/2005/NQ-HĐND ngày 12/10/2005 về việc phê duyệt Đề án cải cách hành chính giai đoạn II (2006-2010) Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình thức này được thể hiện theo sơ đồ sau: - Cơ chế một cửa ở UBND xã, thị trấn thực trạng và giải pháp hòan thiện (từ thực tiễn tỉnh bến tre)
Hình th ức này được thể hiện theo sơ đồ sau: (Trang 28)
Hình thức này được thể hiện theo sơ đồ sau: - Cơ chế một cửa ở UBND xã, thị trấn thực trạng và giải pháp hòan thiện (từ thực tiễn tỉnh bến tre)
Hình th ức này được thể hiện theo sơ đồ sau: (Trang 29)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w