1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

99 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chức Năng Bào Chữa Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự
Tác giả Phạm Thị Ngọc Thu
Người hướng dẫn TS. Ls Nguyễn Hữu Thế Trạch
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố TP. HỒ CHÍ MINH
Định dạng
Số trang 99
Dung lượng 1,31 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG (13)
    • 1.1. Khái quát, đặc điểm, ý nghĩa chức năng bào chữa (13)
      • 1.1.1. Khái quát chức năng bào chữa (13)
      • 1.1.2. Khái quát chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (17)
      • 1.1.3. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (19)
      • 1.1.4. Ý nghĩa của việc thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (20)
    • 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chức năng bào chữa từ năm 1945 đến năm 2013 (22)
      • 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 (22)
      • 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2013 (24)
    • 1.3. Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của một số nước trên thế giới (27)
      • 1.3.1. Liên Bang Nga (27)
      • 1.3.2. Cộng hòa Liên bang Đức (30)
  • CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA (34)
    • 2.1. Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo việc thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (34)
      • 2.1.1. Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (34)
      • 2.1.2. Chủ thể có trách nhiệm đảm bảo chức năng bào chữa trong giai đoạn điều (41)
    • 2.2. Thời điểm bắt đầu và kết thúc của chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (42)
    • 2.3. Nội dung chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (43)
      • 2.3.1. Pháp luật thực định về nội dung chức năng bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (44)
      • 2.3.3. Pháp luật thực định về nội dung chức năng bào chữa của người bào chữa (50)
  • CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU (57)
    • 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (57)
      • 3.1.1. Những kết quả đạt được (57)
      • 3.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế của quá trình thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (60)
    • 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đảm bảo thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (72)
      • 3.2.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả đảm bảo thực hiện chức năng bào chữa (72)
      • 3.2.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đảm bảo thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (73)
  • PHỤ LỤC (90)

Nội dung

NHẬN THỨC CHUNG VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG

Khái quát, đặc điểm, ý nghĩa chức năng bào chữa

1.1.1 Khái quát chức năng bào chữa a Khái niệm chức năng tố tụng hình sự

Chức năng TTHS đóng vai trò quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, giúp xác định vị trí, vai trò và phạm vi của từng chức năng trong hệ thống TTHS Việc hiểu đúng và đầy đủ các chức năng này là cần thiết để phân định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng Để có cái nhìn toàn diện về chức năng TTHS, cần tiếp cận từ góc độ chức năng của nhà nước.

Chức năng nhà nước là các hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ đặt ra, được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước với nhiều cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan có chức năng và quyền hạn riêng Chức năng nhà nước có tính chất định hướng, ổn định và lâu dài, phản ánh bản chất của nhà nước Dựa vào hình thức hoạt động, nhà nước có ba chức năng cơ bản: lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó chức năng TTHS là một dạng cụ thể của chức năng tư pháp.

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, hiện đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về chức năng của tố tụng hình sự (TTHS) Một số ý kiến cho rằng chức năng TTHS là một phần của hoạt động tố tụng hình sự, trong khi đó, những quan điểm khác nhấn mạnh rằng chức năng này không chỉ đơn thuần là định hướng các hoạt động tố tụng mà còn là sự thể hiện của các hoạt động chức năng và vai trò của các chủ thể trong tố tụng hình sự Ngoài ra, cũng có quan điểm cho rằng chức năng TTHS bao gồm những phương diện hoặc dạng hoạt động do các chủ thể khác nhau thực hiện theo quy định của Bộ luật TTHS, với nội dung và định hướng độc lập nhưng vẫn gắn kết với nhau.

3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, tr 53

4 P.X.Enkind (1963), Bản chất của Luật tố tụng hình sự Xô Viết, NXB MGU, tr.61

Các quan điểm về chức năng của tố tụng hình sự (TTHS) nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố trong hệ thống tố tụng, nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS Theo đó, chức năng tố tụng hình sự được xem như một dạng hoạt động tố tụng có định hướng và nội dung khác biệt, nhưng vẫn nằm trong bối cảnh tổng thể của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự Mối quan hệ này thể hiện sự liên kết giữa cái riêng và cái chung trong lĩnh vực tố tụng.

Chức năng TTHS được hiểu là định hướng các hoạt động của nhà làm luật, buộc các cơ quan chức năng và cá nhân có thẩm quyền thực hiện Nó không chỉ đơn thuần là hoạt động TTHS mà còn là những phương hướng lớn, cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau, phù hợp với nội dung, mục đích, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên Tác giả đồng tình với quan điểm này, nhấn mạnh rằng chức năng TTHS thể hiện rõ trong các hoạt động TTHS cụ thể.

Chức năng TTHS là những phương hướng hoạt động cơ bản giúp phân định các hoạt động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau, đảm bảo tính hợp pháp và phù hợp với mục đích, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên liên quan Chức năng bào chữa đóng vai trò quan trọng trong quá trình này, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân và tổ chức trong hệ thống pháp luật.

Tố tụng hình sự có nhiều chức năng, trong đó phân thành chức năng cơ bản và không cơ bản Chức năng cơ bản được hiểu là những hoạt động giúp thực hiện nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự Theo nhiều học giả, hoạt động tố tụng hình sự chủ yếu bao gồm ba chức năng cơ bản: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử Mỗi chức năng này có vị trí và bản chất riêng, được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau.

Bài tham luận của Nguyễn Thái Phúc (2015) tại Hội thảo khoa học về các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự hiện nay Tác giả phân tích các chức năng của tố tụng hình sự và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp Việt Nam Hội thảo được tổ chức bởi Học viện Khoa học xã hội vào ngày 28/11/2015, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự cần thiết cải cách trong lĩnh vực này.

7 Lê Tiến Châu (2009), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư pháp, tr 15-16

8 M.A Chenxốp (1962), Tố tụng hình sự Xô Viết, NXB Văn học pháp lý, tr 14

10 Lê Tiến Châu, tlđd (7), tr 16

11 Giáo trình tố tụng hình sự Xô Viết, (1980), NXB Văn học pháp lý, tr 15

Ngoài ba chức năng cơ bản của TTHS, còn nhiều quan điểm cho rằng TTHS còn có các chức năng khác như điều tra, giải quyết vụ việc dân sự và kiểm sát việc tuân theo pháp luật Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ, mỗi chức năng tồn tại và phát triển nhờ sự hỗ trợ lẫn nhau của hai chức năng còn lại.

Chức năng bào chữa là một trong ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (TTHS) và đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của hệ thống này Hiện nay, khái niệm về chức năng bào chữa trong khoa học pháp lý vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.

Chức năng bào chữa được hiểu là một hoạt động tố tụng hình sự nhằm sử dụng lý lẽ và chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho một bên đương sự trong các vụ án hình sự hoặc dân sự tại Toà án, cũng như trong những trường hợp bị xã hội lên án Quan điểm này rất rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau, và chức năng bào chữa vẫn tồn tại ngay cả khi không có sự buộc tội Điều này cho thấy chức năng bào chữa không chỉ liên quan đến quyền của công dân mà còn là sự bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ.

Chức năng bào chữa được hiểu là hoạt động của người bào chữa nhằm xác định các tình tiết có thể minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can và bị cáo Quan điểm này nhấn mạnh vai trò của người bào chữa nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, vì chủ thể chính của chức năng bào chữa là người bị bắt, tạm giữ, bị can và bị cáo Do đó, cần mở rộng phạm vi và nội dung của chức năng bào chữa để phản ánh đúng vai trò của các đối tượng này trong quá trình tố tụng.

Quan điểm chung được nhiều nhà khoa học thừa nhận:

Người bị buộc tội có quyền bào chữa và phản bác lại các cáo buộc thông qua việc trình bày chứng cứ và lập luận nhằm giảm nhẹ trách nhiệm Trong quá trình điều tra và xét xử, cần làm rõ không chỉ các chứng cứ khẳng định sự buộc tội mà còn cả những chứng cứ có lợi cho bị cáo.

Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự đóng vai trò quan trọng, giúp người bị buộc tội có cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình Pháp luật đảm bảo rằng họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác thực hiện quyền bào chữa, tạo điều kiện cho sự công bằng trong quá trình xét xử.

13 Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

14 Lê Tiến Châu (2001), Các chức năng tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự - Luận văn thạc sĩ trường Đại học Luật TP.HCM, tr 14

15 Hoàng Thị Sơn (1998), “Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng hình sự,” Tạp chí luật học (2), tr 37

Bài viết của Nguyễn Thái Phúc (1999) trong kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ về tố tụng hình sự Việt Nam nêu rõ các vấn đề liên quan đến quyền công tố của Viện Kiểm sát Tác giả trình bày các chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ cáo buộc mà còn làm giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo, đồng thời cung cấp những thông tin có lợi cho họ trong quá trình tố tụng.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chức năng bào chữa từ năm 1945 đến năm 2013

1.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đánh dấu sự kết thúc của chế độ thực dân nửa phong kiến và thiết lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trong bối cảnh này, Nhà nước chú trọng đến việc củng cố và xây dựng hệ thống pháp luật Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh quan trọng, trong đó có Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 về việc thành lập Tòa án quân sự, quy định quyền tự bào chữa của bị cáo, và Sắc lệnh ngày 10/10/1945 về duy trì tổ chức đoàn thể.

Sắc lệnh số 13 ban hành ngày 24/01/1946 quy định về tổ chức các tòa án và ngạch thẩm phán, xác định rằng các luật sư có quyền biện hộ trước mọi tòa án, ngoại trừ tòa án sơ cấp.

Các sắc lệnh này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với luật sư, đánh dấu bước khởi đầu cho việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị cáo Điều này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946 với quy định “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Điều 67) Hiến pháp 1946 không chỉ ghi nhận quyền tự do dân chủ của công dân mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển chức năng bào chữa Tuy nhiên, sự tham gia của luật sư hiện chỉ giới hạn ở giai đoạn xét xử tại Tòa án cấp hai trở lên, và vẫn thiếu quy định về chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra.

Ngày 20/6/1956, Hội nghị Tư pháp toàn quốc đã thông qua “Đề án quyền bào chữa của bị cáo”, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam Đề án quy định rằng người bào chữa có quyền theo dõi quá trình thẩm cứu, có mặt trong các cuộc hỏi cung, và yêu cầu điều tra bổ sung khi chứng cứ không rõ ràng Họ cũng có quyền yêu cầu điều tra lại nếu phát hiện hành vi vi phạm như dùng nhục hình hay đe dọa bị cáo Đặc biệt, người bào chữa được gặp gỡ và trao đổi với bị cáo một cách riêng tư, không có sự tham gia của người khác, điều này thể hiện sự tiến bộ trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo.

30 Tập hệ thống luật lệ về tố tụng hình sự (1976), Toà án nhân dân tối cao, Hà Nội, tr 40

Thông tư 2225/HCCP-BTP ngày 24/10/1956 của Bộ Tư pháp đã chỉ ra những hạn chế trong việc thực hiện chức năng bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra và xét xử Trong quá trình điều tra, có hiện tượng các cơ quan tố tụng không tôn trọng quyền tự do bào chữa của bị can, dẫn đến việc mớm cung, bức cung và trấn áp, khiến bị can không được tự do khai nại Thông tư cũng nêu rõ các nguyên nhân gây ra những hạn chế này, nhấn mạnh sự cần thiết phải chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa để bảo đảm tính công bằng trong quá trình tố tụng hình sự.

Quyền tự do bào chữa là một yếu tố quan trọng trong chế độ dân chủ nhân dân, nhưng chúng ta vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của nó Việc bảo vệ quyền này không chỉ đảm bảo công bằng trong xét xử mà còn phản ánh bản chất nhân văn của hệ thống pháp luật.

Thông tư nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ quyền tự do bào chữa của bị can và xác định vai trò của bộ phận bào chữa trong hệ thống tư pháp.

Và “Vị trí của bộ phận bào chữa là một vị trí bình đẳng với công tố viên” 34

Ngay từ những ngày đầu xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến quyền con người và quyền công dân, đặc biệt là quyền bào chữa Nhiều văn bản pháp lý đã được ban hành nhằm bảo vệ quyền bào chữa của bị can và bị cáo trong quá trình tố tụng Qua thời gian, chức năng bào chữa đã phát triển với việc mở rộng chủ thể và nội dung, từ việc đảm bảo bào chữa tại phiên tòa đến các giai đoạn tố tụng khác, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là tình trạng chiến tranh, nhiều quy định vẫn còn hạn chế và thực hiện chưa đầy đủ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Hiệp định Gionevơ, mặc dù hòa bình được lập lại, đất nước vẫn bị chia cắt Trong bối cảnh đó, Hiến pháp 1959 đã được ban hành, ghi nhận quyền bào chữa của bị can và bị cáo như một nguyên tắc hiến định.

Quyền bào chữa của bị can và bị cáo được đảm bảo theo Điều 101 của Hiến pháp năm 1959 Để cụ thể hóa nội dung này, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 đã đưa ra các quy định chi tiết.

Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo, cho phép bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ luật sư hỗ trợ Ngoài ra, bị cáo còn có thể nhờ một công dân khác tham gia bào chữa cho mình.

Thông tư 22/25/HTCP hướng dẫn quy trình thực hiện quyền bảo chữa bị can, cung cấp thông tin chi tiết về các bước và yêu cầu cần thiết trong thủ tục này Để tìm hiểu thêm, vui lòng truy cập vào trang web [thuvienphapluat.vn](https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thu-tuc-To-tung/Thong-tu-2225-HCTP-chan-chinh-thuc- hien-quyen-bao-chua-bi-can/22520/noi-dung.aspx) vào ngày 26/12/2017.

Luật Tổ chức Tòa án năm 1960 quy định rằng người bào chữa chỉ được tham gia từ giai đoạn kết thúc điều tra, điều này hạn chế chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Để khắc phục vấn đề này, Thông tư 06/TC ngày 09/9/1967 đã được ban hành, nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo Thông tư này nhấn mạnh tầm quan trọng của chức năng bào chữa, yêu cầu các thẩm phán trong quá trình xét xử phải chú ý đến cả hai khía cạnh buộc tội và gỡ tội, không được thiên lệch về một phía nào.

Năm 1980, sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Hiến pháp mới, kế thừa và phát triển từ Hiến pháp 1946 và 1959 Hiến pháp 1980 khẳng định quyền bào chữa của bị cáo, đồng thời quy định việc thành lập tổ chức luật sư nhằm hỗ trợ pháp lý cho bị cáo và các đương sự khác.

Vào ngày 31/10/1983, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 691/QLTPK, quy định về công tác bào chữa trên toàn quốc, nhấn mạnh trách nhiệm của đoàn bào chữa và bào chữa viên trong việc bảo vệ chân lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa Tiếp đó, vào ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh tổ chức Luật sư, cụ thể hóa Điều 133 của Hiến pháp năm 1980, đánh dấu văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước quy định chi tiết về tổ chức, điều kiện và nhiệm vụ của nghề bào chữa.

Trong giai đoạn gần đây, các quy định về bào chữa đã được củng cố, thể hiện sự dân chủ trong tố tụng và đảm bảo chức năng tố tụng hình sự (TTHS) cũng như bào chữa Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định hạn chế ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra, như quy định về việc người bào chữa chỉ tham gia sau khi kết thúc điều tra theo Luật Tổ chức Toà án 1960 và quy định xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm theo Luật Tổ chức Toà án 1981.

1.2.2 Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2013

Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của một số nước trên thế giới

số nước trên thế giới

Nghiên cứu quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự Liên Bang Nga và Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức cho thấy cả hai đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của chức năng bào chữa, đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Tuy nhiên, mức độ và phương thức thực hiện quy định này có sự khác biệt rõ rệt giữa hai quốc gia.

Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga, được ĐUMA Quốc gia thông qua vào ngày 22/11/2001 và phê chuẩn bởi Quốc hội vào ngày 05/12/2001, hiện nay đã trải qua nhiều lần sửa đổi với 06 phần và 475 điều khoản Để bảo đảm quyền bào chữa trong quá trình tố tụng hình sự, đặc biệt trong giai đoạn điều tra, Bộ luật quy định nhiều nguyên tắc quan trọng như nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tình nghi và bị can Những nguyên tắc này là cơ sở cho việc thực hiện chức năng bào chữa trong các giai đoạn tố tụng Người bị tình nghi và bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ của người bào chữa, bao gồm cả người đại diện hợp pháp Pháp luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga mở rộng đối tượng thực hiện chức năng bào chữa, không chỉ là người bị khởi tố hoặc tạm giữ mà còn bao gồm cả người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trước khi khởi tố bị can.

Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (VAHS) đối với người bị nghi ngờ và bị can được quy định một cách đa dạng và đầy đủ, đảm bảo tính tương thích cao.

39 Xem nội dung BLTTHS hiện hành của Liêng Bang Nga (phiên bản Tiếng anh) tại website http://legislationline.org/documents/section/criminal-codes/country/7, truy cập ngày 12/10/2017

40 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, Điều 14

41 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, Điều 16

42 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, Điều 46, Điều 98, Điều 100

BLTTHS Việt Nam quy định quyền của người bị tình nghi và bị can trong giai đoạn điều tra, bao gồm quyền được thông báo về lý do bị nghi ngờ, yêu cầu chứng cứ, và nhận bản sao các quyết định tố tụng Đặc biệt, người bị tình nghi có quyền gặp gỡ riêng và bí mật với người bào chữa trước khi lấy lời khai, trong khi bị can có quyền này không bị hạn chế về số lần và thời gian Ngoài ra, cả người bị tình nghi và bị can đều có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra theo yêu cầu của họ, nếu được sự đồng ý của Dự thẩm viên hoặc Điều tra viên Mặc dù BLTTHS Liên Bang Nga không quy định trực tiếp quyền im lặng, nhưng vẫn đảm bảo quyền này thông qua việc cho phép người bị tình nghi đưa ra hoặc từ chối lời khai Người bị tình nghi cần biết rằng họ có quyền không khai báo, từ đó lựa chọn cách thức bào chữa phù hợp Về chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, BLTTHS Liên Bang Nga xác định người bào chữa là luật sư, bên cạnh đó, một số người thân hoặc người khác cũng có thể được chấp nhận theo yêu cầu của bị can.

43 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, điểm 3, khoản 4, Điều 46

44 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, điểm 9, Khoản 4, Điều 47

45 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, Điều 46

46 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, điểm 2, Khoản 4, Điều 46

47 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, điểm 3, Khoản 4, Điều 47

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga (BLTTHS), khoản 2, điều 49 năm 2001 quy định rằng người bào chữa (NBC) có thể tham gia vào quá trình tố tụng mà không bị giới hạn về số lượng Thời điểm NBC tham gia tố tụng tương tự như ở Việt Nam, bắt đầu từ khi khởi tố bị can hoặc sớm hơn trong trường hợp bắt giữ người bị tình nghi Ngoài ra, BLTTHS Liên bang Nga còn cho phép NBC tham gia ngay từ khi “bắt đầu thực hiện những biện pháp cưỡng chế tố tụng khác” hoặc “những hoạt động tố tụng khác hạn chế quyền và tự do của người bị tình nghi.” Điều này cho thấy NBC có thể tham gia khá sớm trong quá trình tố tụng, đặc biệt trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, điều này khác biệt so với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Để đảm bảo bí mật nhà nước, NBC chỉ cần viết giấy cam đoan không tiết lộ thông tin mật và chịu trách nhiệm nếu vi phạm.

NBC có quyền tham gia vào các hoạt động tố tụng, bao gồm cả giai đoạn điều tra trong các vụ án có liên quan Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, nếu trong vòng 5 ngày, người bào chữa không thể tham gia vào một hoạt động tố tụng cụ thể và người bị tình nghi không mời hoặc đề nghị bào chữa khác, thì điều tra viên hoặc dự thẩm viên có quyền tiến hành hoạt động đó mà không cần sự có mặt của người bào chữa.

(trừ một số trường hợp nhất định liên quan đến diện bào chữa bắt buộc)

Liên Bang Nga và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng trong truyền thống pháp luật, đặc biệt là trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) của Việt Nam, nơi nhiều quy định được tiếp thu từ kinh nghiệm lập pháp của Nga Pháp luật TTHS Nga có những quy định tiến bộ nhằm đảm bảo chức năng bào chữa, đặc biệt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (VAHS) Đối tượng thực hiện chức năng bào chữa được quy định rộng rãi, bao gồm người bị tình nghi, bị can và người bào chữa, với nội dung chức năng bào chữa được quy định đầy đủ và thiết thực Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng không bị hạn chế trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và bí mật nhà nước, điều này mở ra cơ hội cho Việt Nam nghiên cứu và áp dụng những quy định tiến bộ này vào thực tiễn.

49 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, Điều 49

50 BLTTHS Việt Nam, năm 2015, Điều74

51 BLTTHS Liên Bang Nga, năm 2001, Khoản 5, Điều 49

1.3.2 Cộng hòa Liên bang Đức Đức là nước Cộng hoà Liên bang gồm 16 bang, nguồn cơ bản tố tụng và hình sự của Đức là Hiến pháp Đức và BLTTHS Đức ban hành năm 1877, cùng các văn bản có liên quan đến bộ luật Bộ luật được sửa đổi gần nhất bởi đạo luật ban hành ngày 20/6/2013, hiện BLTTHS Đức bao gồm 495 điều khoản và chia làm 08 phần Giai đoạn điều tra được quy định từ Điều 151 đến Điều 177, BLTTHS Đức

Các hoạt động điều tra chủ yếu do cảnh sát và công tố viên thực hiện, với sự tham gia hạn chế của Thẩm phán nhằm giám sát tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế Để đảm bảo việc buộc tội khách quan và hiệu quả trong chức năng bào chữa, pháp luật TTHS Đức quy định rằng nếu bị can bị bắt, họ phải được đưa ngay trước Thẩm phán có thẩm quyền Trong quá trình này, bị can sẽ được thông báo về các yếu tố buộc tội và quyền của mình, cũng như có cơ hội bác bỏ căn cứ nghi ngờ và trình bày các tình tiết có lợi Điều 137 BLTTHS Đức cho phép bị can nhận sự trợ giúp pháp lý từ luật sư tại bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng Tuy nhiên, trước đây, luật sư thường chỉ được tham gia sau khi hồ sơ đã chuyển cho cơ quan công tố, và việc tham gia của họ tại giai đoạn thẩm vấn do cảnh sát quyết định Hiện nay, để bảo vệ quyền lợi của bị can, những người bị bắt sẽ bị tạm giam ít nhất 03 tháng và không được trả tự do ít nhất 02 tuần trước khi phiên xử chính bắt đầu.

52 Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ, NXB Chính trị quốc gia, tr.88

53 Bộ luật TTHS Đức, Điều 115

54 Mireille Delmas - Marty, T.R.Dpencer: European Criminal Procedures, Cambridge University Press,

Theo bài viết "Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức" của tác giả Nguyễn Quyết Thắng, được đăng trên trang web Người bảo vệ quyền lợi, Điều 140 quy định rằng người bị bắt phải có người bào chữa (NBC) và được chỉ định NBC ngay lập tức theo Điều 141 Điều này cho thấy rằng quy định về quyền bào chữa bắt buộc trong Bộ luật Tố tụng hình sự Đức rất rộng rãi.

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự Đức, ngoài luật sư hành nghề tại tòa án, các giáo sư giảng dạy luật tại các trường đại học cũng có thể trở thành người bào chữa cho bị can, bị cáo, điều này khác biệt so với pháp luật Việt Nam Đặc biệt, pháp luật TTHS Đức quy định giới hạn số lượng người bào chữa cho một bị can hoặc bị cáo theo Điều 137 (1) BLTTHS Đức Đối với một số tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, sự tham gia của luật sư vào các thủ tục tố tụng bị hạn chế nếu có căn cứ cho rằng điều này có thể ảnh hưởng đến an ninh của Cộng hòa Liên bang Đức (Điều 13b).

Kinh phí bào chữa theo quy định của BLTTHS Đức rất đặc biệt, với Điều 467 (1) quy định rằng người bị tuyên có tội phải trả án phí, bao gồm cả chi phí cho luật sư bào chữa (NBC) Tuy nhiên, nếu họ được tuyên vô tội, phiên tòa bị từ chối hoặc chấm dứt, thì nhà nước sẽ chi trả án phí và các chi phí cần thiết khác Quy định này có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt cho người nghèo, giúp họ có khả năng bào chữa mặc dù không có dịch vụ bào chữa công tại Đức Các học giả Đức gọi đây là chính sách “hỗ trợ pháp lý tương tự” Ngoài ra, BLTTHS Đức cũng quy định cho người bị tình nghi, bị can và NBC một số quyền thiết thực trong giai đoạn điều tra, bao gồm quyền tiến hành điều tra, quyền tiếp cận hồ sơ vụ án, và quyền gặp gỡ giữa NBC và bị can.

+ Quyền tiến hành điều tra:

Trong giai đoạn điều tra, NBC có quyền tiến hành điều tra độc lập mà không bị cưỡng bách, đồng thời có quyền đề nghị công tố viên thu thập chứng cứ cần thiết NBC cũng đại diện cho bị can, bị cáo trong việc nhận tài liệu và thông tin theo Điều 145a, kiểm tra biên bản ghi lời khai mà NBC có mặt (Điều 147(3)), và kiểm tra kết quả giám định của chuyên gia.

56 Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), tlđd (52), tr.118

Quyền tiếp cận hồ sơ vụ án theo Điều 147 BLTTHS Đức cho phép người bào chữa (NBC) kiểm tra các tài liệu và chứng cứ mà Tòa án đã thu thập, tuy nhiên, quyền này có thể bị hạn chế trong giai đoạn điều tra nếu ảnh hưởng đến mục đích điều tra Trong trường hợp có NBC, bị can không được quyền tiếp cận hồ sơ vụ án, nhưng pháp luật cho phép NBC cung cấp bản photo tài liệu cho bị can Nếu bị can không có NBC, họ có thể nhận thông tin từ hồ sơ vụ án qua việc trích dẫn hoặc sao chép, miễn là không gây nguy hiểm cho điều tra và không xâm phạm quyền lợi của bên thứ ba.

Quyền gặp gỡ và trao đổi giữa người bị cáo (NBBT) và người bào chữa (NBC) được quy định tại Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự Đức, cho phép họ giao tiếp mà không bị kiểm soát NBBT có quyền giao tiếp bằng lời nói hoặc văn bản với luật sư bào chữa, bất kể họ có đang bị tạm giam hay tạm giữ Tuy nhiên, việc trao đổi bằng thư từ sẽ bị hạn chế nếu NBBT bị cáo buộc các tội liên quan đến an ninh quốc gia.

PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:06

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
27. Lê Tiến Châu (2001), Các chức năng tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học trường Đại học Luật TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: chức năng tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự
Tác giả: Lê Tiến Châu
Năm: 2001
28. Lê Tiến Châu (2002), “Tìm hiểu các kiểu (hình thức) tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (08) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu các kiểu (hình thức) tố tụng hình sự”, "Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Lê Tiến Châu
Năm: 2002
29. Lê Tiến Châu (2009), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Lê Tiến Châu
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2009
32. Lê Huỳnh Tấn Duy, “Bảo đảm hoạt động của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Bảo đảm hoạt động của người bào chữa trong điều tra tội phạm”, do Trường Cao đẳng an ninh nhân dân tổ chức vào tháng 10/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm hoạt động của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, "Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Bảo đảm hoạt động của người bào chữa trong điều tra tội phạm”
33. Trần Văn Độ (2010), Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Sách chuyên khảo Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
Tác giả: Trần Văn Độ
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia TP.HCM
Năm: 2010
34. Trần Ngọc Đức, Nguyễn Tiến Nam, “Quá trình hình thành và phát triển về quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Bảo đảm hoạt động của người bào chữa trong điều tra tội phạm”, do Trường Cao đẳng an ninh nhân dân tổ chức vào tháng 10/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình hình thành và phát triển về quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về "“Bảo đảm hoạt động của người bào chữa trong điều tra tội phạm”
35. E.Ph.Cutcôva (1983), “Quyền bào chữa và quyền bảo vệ các lợi ích trong tố tụng hình sự Xô viết”, Tạp chí Luật học (2) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền bào chữa và quyền bảo vệ các lợi ích trong tố tụng hình sự Xô viết
Tác giả: E.Ph.Cutcôva
Năm: 1983
36. Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
Tác giả: Phạm Hồng Hải
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 1999
42. M.X.Xtrôgôvich (1968), Giáo trình luật tố tụng hình sự Xô Viết, NXB Khoa học Maxcơva Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật tố tụng hình sự Xô Viết
Tác giả: M.X.Xtrôgôvich
Nhà XB: NXB Khoa học Maxcơva
Năm: 1968
43. Nguyễn Đức Mai (1995), “Vấn đề tranh tụng hình sự”, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ của VKSNDTC, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề tranh tụng hình sự
Tác giả: Nguyễn Đức Mai
Năm: 1995
45. Võ Thị Kim Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học quốc gia HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Võ Thị Kim Oanh
Nhà XB: NXB Đại học quốc gia HCM
Năm: 2011
46. Võ Thị Kim Oanh, Trịnh Duy Thuyên, “Một số điểm mới trong các quy định về biện pháp ngăn chặn của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” do Đại học Luật TP.HCM tổ chức tháng 4/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số điểm mới trong các quy định về biện pháp ngăn chặn của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về "“Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”
47. Nguyễn Thái Phúc (1999), “Một số vấn đề về quyền công tố của Viện Kiểm sát” – Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ về “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam” do Viện Khoa học Kiểm sát – VKSNDTC tổ chức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về quyền công tố của Viện Kiểm sát” – Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ về "“Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam”
Tác giả: Nguyễn Thái Phúc
Năm: 1999
48. Nguyễn Thái Phúc, “Chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay”, kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do Học viện Khoa học xã hội tổ chức ngày 28/11/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay”, kỷ yếu Hội thảo khoa học về "“Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”
49. Nguyễn Thái Phúc, “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong Tố tụng hình sự”, tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 (41)/2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong Tố tụng hình sự”, "tạp chí Khoa học pháp lý
50. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), Đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh giữa luật Tố tụng hình sự Việt Nam,Đức và Mỹ, Luận án Tiến sĩ Luật học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh giữa luật Tố tụng hình sự Việt Nam,Đức và Mỹ
Tác giả: Lương Thị Mỹ Quỳnh
Năm: 2011
51. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ
Tác giả: Lương Thị Mỹ Quỳnh
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2013
52. Hoàng Thị Sơn (1998), “Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng hình sự,” tạp chí luật học (2/1998) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng hình sự,” "tạp chí luật học
Tác giả: Hoàng Thị Sơn
Năm: 1998
53. Hoàng Thị Sơn (2003), “Khái niệm quyền bào chữa và việc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, tạp chí luật học số 5/2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khái niệm quyền bào chữa và việc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo”, "tạp chí luật học
Tác giả: Hoàng Thị Sơn
Năm: 2003
54. Võ Văn Tài, Trịnh Tuấn Anh, “Một số vấn đề lý luận về quyền im lặng trong tố tụng hình sự”, tạp chí khoa học và phát triển công nghệ, Q3/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề lý luận về quyền im lặng trong tố tụng hình sự”, "tạp chí khoa học và phát triển công nghệ

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60380104  - Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
huy ên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60380104 (Trang 2)
BLHS Bộ luật Hình sự - Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
lu ật Hình sự (Trang 4)
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự - Chức năng bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
lu ật Tố tụng hình sự (Trang 4)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w