1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình sự việt nam một số vấn đề lí luận và thực tiễn

80 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chủ Thể Đặc Biệt Trong Luật Hình Sự Việt Nam Một Số Vấn Đề Lí Luận Và Thực Tiễn
Tác giả Trần Thị Minh Nhân
Người hướng dẫn Th.S. Trần Thanh Thảo
Trường học Trường Đại Học Luật Tp.Hcm
Chuyên ngành Luật Hình Sự
Thể loại Khóa Luận Cử Nhân Luật
Năm xuất bản 2014
Thành phố Tp.Hcm
Định dạng
Số trang 80
Dung lượng 1,13 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM (11)
    • 1.1. Khái niệm về chủ thể đặc biệt của tội phạm (11)
      • 1.1.1. Định nghĩa về chủ thể đặc biệt của tội phạm (11)
      • 1.1.2. Đặc điểm của chủ thể đặc biệt của tội phạm (21)
    • 1.2. Sơ lược lịch sử quy định về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi ban hành BLHS 1999 (0)
      • 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 1985 (23)
      • 1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến trước khi ban hành BLHS năm 1999 (28)
    • 1.3. Các dấu hiệu về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong quy định pháp luật hình sự hiện hành (30)
      • 1.3.1. Dấu hiệu liên quan đến chức vụ, quyền hạn (30)
      • 1.3.2. Dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc (33)
      • 1.3.3. Dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện (36)
      • 1.3.4. Dấu hiệu liên quan đến tuổi tác (40)
      • 1.3.5. Dấu hiệu liên quan đến giới tính (42)
      • 1.3.6. Dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ gia đình (44)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN (48)
    • 2.1. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm (48)
      • 2.1.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng quy định pháp luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm (50)
    • 2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm (62)
      • 2.2.1. Kiến nghị sửa đổi quy định của BLHS (62)
      • 2.2.2. Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các tội phạm quy định dấu hiệu chủ thể đặc biệt (63)
      • 2.2.3. Kiến nghị phương pháp xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn Luật (67)
      • 2.2.4. Kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật (69)
  • KẾT LUẬN (47)

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM

Khái niệm về chủ thể đặc biệt của tội phạm

1.1.1 Định nghĩa về chủ thể đặc biệt của tội phạm

Theo quy định của pháp luật, một hành vi chỉ được coi là tội phạm và phải chịu hình phạt khi đã được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) Việc xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không phụ thuộc vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này, hành vi dù có gây nguy hiểm cho xã hội cũng không bị coi là tội phạm Do đó, việc xác định chính xác yếu tố chủ thể trong cấu thành tội phạm là rất quan trọng, ảnh hưởng đến việc xác định tội danh và liệu hành vi nguy hiểm có được BLHS điều chỉnh hay không.

Tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và trái pháp luật hình sự, phải chịu hình phạt Hành vi tội phạm là hành vi của con người, thể hiện qua những xử sự có ý thức và ý chí, gây thiệt hại hoặc đe dọa đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ Theo từ điển thuật ngữ luật học của Đại học Luật Hà Nội, hành vi là toàn bộ phản ứng và cách cư xử của con người trong hoàn cảnh cụ thể, do đó không thể có hành vi mà không có chủ thể thực hiện Các hiện tượng tự nhiên như sấm sét hay động đất không được coi là hành vi, dù chúng có thể gây thiệt hại lớn.

Không phải ai thực hiện hành vi vi phạm Luật hình sự cũng trở thành chủ thể của tội phạm Đối với một số tội phạm, bên cạnh việc đáp ứng các điều kiện thông thường, người thực hiện còn phải có những dấu hiệu đặc biệt để được coi là người phạm tội Điều này được gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm trong khoa học pháp lý hình sự.

Chủ thể đặc biệt của tội phạm không chỉ cần có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, mà còn phải đáp ứng thêm các dấu hiệu đặc biệt khác Những dấu hiệu này là điều kiện cần thiết để họ trở thành chủ thể của các tội phạm tương ứng.

Có thể hiểu ngắn gọn về chủ thể đặc biệt như sau:

Chủ thể đặc biệt = chủ thể thường + (những) dấu hiệu đặc biệt

Pháp luật hình sự Việt Nam không trực tiếp định nghĩa "chủ thể của tội phạm", nhưng khái niệm này được thể hiện qua các thuật ngữ như “người nào phạm tội”, “người phạm tội” và “người bị kết án” trong Bộ luật Hình sự Mặc dù không có định nghĩa rõ ràng, chúng ta vẫn có thể xác định các đặc điểm của chủ thể tội phạm thông qua khái niệm về tội phạm được quy định trong luật.

Tội phạm được định nghĩa tại khoản 1 Điều 8 BLHS là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có thể là cố ý hoặc vô ý Hành vi này xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân Định nghĩa này phản ánh quan điểm cơ bản của Việt Nam về chủ thể của tội phạm, với hai dấu hiệu chính là hành vi nguy hiểm và năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện.

- Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể, đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

Theo pháp luật Việt Nam, chủ thể của tội phạm là cá nhân thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại đến lợi ích chung Điều 27 BLHS quy định rằng hình phạt không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội trở thành công dân có ích Do đó, chỉ những người vi phạm pháp luật hình sự mới phải chịu hình phạt, vì họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình Chủ thể tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam chỉ là những cá nhân cụ thể đã thực hiện hành vi được quy định trong BLHS.

Theo Luật hình sự hiện hành, pháp nhân không được coi là chủ thể của tội phạm tại Việt Nam, trái ngược với một số quốc gia theo truyền thống thông luật như Anh, Mỹ, Canada, nơi pháp nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự Nguyên nhân cho việc này là do chính sách hình sự Việt Nam vẫn chưa công nhận pháp nhân là đối tượng chịu trách nhiệm hình sự.

Theo Điều 84 BLDS, pháp nhân là tổ chức hợp pháp, có tài sản độc lập và tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập, chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng Hoạt động của pháp nhân được thể hiện qua hành vi của đại diện, nhưng bản thân pháp nhân không thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và không có khả năng nhận thức hay điều khiển hành vi, do đó không thể bị coi là có lỗi và không chịu TNHS TNHS chỉ áp dụng cho cá nhân khi họ thực hiện hành vi có lỗi, trái pháp luật hình sự, vì vậy pháp nhân không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo nguyên tắc trách nhiệm cá nhân trong Luật hình sự Việt Nam, chỉ cá nhân mới phải chịu trách nhiệm hình sự, do đó Bộ luật Hình sự hiện hành chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân, không áp dụng cho pháp nhân.

Mục đích của việc truy cứu trách nhiệm hình sự là cải tạo và giáo dục những cá nhân đã thực hiện hành vi phạm tội Tuy nhiên, tổ chức hay pháp nhân không thể nhận sự giáo dục từ nhà nước và xã hội, do đó việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân không đạt được mục tiêu cải tạo và giáo dục Vì lý do này, pháp nhân không thể trở thành chủ thể của tội phạm.

Chủ thể của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam chỉ có thể là cá nhân, tức là những người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự.

- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS

Năng lực TNHS là khả năng mà một cá nhân có thể nhận thức và hiểu rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện, đồng thời có khả năng kiểm soát hành vi đó ngay trong thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm.

Như vậy, năng lực TNHS được hợp thành từ hai yếu tố:

Thứ nhất: Khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi

Năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) là yếu tố quan trọng để xác định lỗi của một cá nhân khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội Chỉ những người có năng lực TNHS mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm Người có năng lực TNHS có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và có khả năng điều khiển hành vi đó.

Khả năng nhận thức của con người được hình thành từ bộ não và qua quá trình sống, hoạt động trong xã hội Mặc dù con người không có nhận thức ngay khi sinh ra, nhưng qua giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội, họ tiếp thu tri thức và kinh nghiệm sống, từ đó phát triển khả năng nhận thức Khi có khả năng này, con người mới hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong cộng đồng, cũng như những yêu cầu cần thiết cho bản thân Để đánh giá khả năng nhận thức, cần xem xét nhận thức của cá nhân về các yếu tố hành vi, tính nguy hiểm và tính chất xã hội của hành vi, bao gồm kinh nghiệm sống, trình độ chuyên môn, công cụ sử dụng và đối tượng bị tác động Nhận thức về những yếu tố này chính là năng lực nhận thức của người phạm tội.

Sơ lược lịch sử quy định về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi ban hành BLHS 1999

Khi xác định chủ thể của tội phạm, nếu không có các dấu hiệu riêng biệt của chủ thể đặc biệt, hành vi của người đó sẽ không bị coi là tội phạm và họ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự Do đó, các dấu hiệu về chủ thể đặc biệt là điều kiện bắt buộc được quy định trong Bộ luật Hình sự.

Các dấu hiệu về chủ thể đặc biệt của tội phạm là yếu tố quan trọng trong việc xác định tội danh Đối với các vụ án có đồng phạm, những dấu hiệu này chỉ áp dụng cho người thực hành tội phạm, trong khi những người xúi giục hoặc giúp sức không cần phải có các dấu hiệu đặc biệt đó.

Tội tham ô tài sản theo Điều 278 BLHS được xác định là tội phạm có chủ thể đặc biệt, yêu cầu người phạm tội phải có chức vụ, quyền hạn Tuy nhiên, trong trường hợp đồng phạm, người không có chức vụ, quyền hạn vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức cho hành vi tham ô.

1.2 Sơ lƣợc lịch sử quy định về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi ban hành BLHS

1.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS 1985

Xã hội được hình thành từ các quan hệ xã hội, nhưng các chủ thể thường phá vỡ mối liên kết này do lợi ích cá nhân đối kháng nhau Do đó, cần có phương tiện để duy trì trật tự xã hội và hài hòa lợi ích giữa cá nhân, nhóm và cộng đồng Pháp luật xuất hiện như một công cụ quan trọng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đảm bảo công bằng và bình đẳng Chức năng của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã hội, tuy nhiên, theo từng giai đoạn lịch sử, quy định pháp luật cũng cần thay đổi để phù hợp với sự phát triển của xã hội Điều này cũng áp dụng cho quy định về chủ thể đặc biệt trong cấu thành tội phạm, phản ánh sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội trong từng thời kỳ.

Cách mạng tháng Tám thành công đã dẫn đến sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tuy nhiên, trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, chính quyền nhân dân còn non trẻ phải đối mặt với cả giặc ngoại xâm và nội phản Sau chiến tranh, nền kinh tế rơi vào tình trạng kiệt quệ và nạn đói diễn ra liên miên Đồng thời, Đảng và nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm trong việc giữ vững chính quyền, điều này đã ảnh hưởng đến quá trình xây dựng pháp luật.

Trong bối cảnh đất nước đang đối mặt với ba nhiệm vụ lớn là diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, pháp luật thời kỳ này xác định chủ thể tội phạm là bất kỳ ai xâm hại đến lợi ích của nhà nước và nhân dân Việc quy định về chủ thể của tội phạm chủ yếu được thể hiện qua cách diễn đạt "tất cả những người nào" vi phạm hành vi bị cấm sẽ phải chịu trách nhiệm Điều này cho thấy sự chưa phân định rõ ràng giữa các chủ thể khác nhau trong từng hành vi phạm tội.

Chủ thể đặc biệt của tội phạm trong giai đoạn này chủ yếu liên quan đến các tội phạm chức vụ và nghĩa vụ của quân nhân Các quy định về chủ thể đặc biệt được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật của thời kỳ này.

Sắc lệnh 223/SL ngày 27/11/1946 đánh dấu bước khởi đầu quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, khi quy định về chủ thể đặc biệt của tội phạm là những người có chức vụ Văn bản này nêu rõ các hành vi vi phạm như nhận hối lộ, phù lạm và biển thủ công quỹ của công chức Đối tượng công chức được định nghĩa bao gồm nhân viên trong chính phủ, các ủy ban hành chính các cấp, các cơ quan do nhân dân bầu lên, bộ đội, và tất cả những người có trách nhiệm trong công vụ.

+ Sắc lệnh 163/SL ngày 23/8/1946 quy định 12 tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân mà tổ chức tòa án binh lâm thời được xử lý

Trong thời gian gần đây, các dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ thực hiện và các tội phạm liên quan đến chức vụ của chủ thể đặc biệt đã được quy định rõ ràng hơn Điều này giúp nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.

Sắc lệnh số 106/SL ngày 15/6/1950 quy định rõ ràng về nghĩa vụ quân sự, stipulating rằng những người không tuân theo hoặc chậm trễ thực hiện nghĩa vụ này sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm Điều này bao gồm cả những hành vi tự hủy hoại thân thể hoặc sử dụng mưu mẹo để trì hoãn nghĩa vụ quân sự Do đó, bất kỳ ai trong đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ quân sự mà không tuân thủ sẽ bị coi là phạm tội và phải chịu hình phạt tương ứng.

Sắc lệnh số 154/SL ngày 17/11/1950 quy định trách nhiệm giữ bí mật cơ quan và bí mật công tác, áp dụng cho công chức và quân nhân Theo Điều 1, trong thời kỳ kháng chiến, việc bảo vệ bí mật của Chính phủ là nhiệm vụ không chỉ của công chức và quân nhân mà còn của toàn dân.

Sắc lệnh 267/SL ngày 15/6/1956 quy định về âm mưu và hành động phá hoại tài sản của nhà nước, hợp tác xã và nhân dân, đồng thời xác định các tội phạm chức vụ liên quan Những tội danh này bao gồm việc không thực hiện hoặc thực hiện sai công vụ, cũng như thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng Theo Điều 10, những người có trách nhiệm trong công tác nếu để xảy ra lãng phí, hư hỏng tài sản, lộ bí mật nhà nước hoặc gây tai nạn sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.

Luật số 103 ngày 10/5/1957 quy định về hành vi bắt giam người trái phép, với các chủ thể phạm tội bao gồm cán bộ làm việc tại Tòa án nhân dân, tòa án quân sự, cán bộ công an, cùng với cán bộ thuộc bộ đội bảo vệ và bộ đội quốc phòng Những quy định cụ thể về thẩm quyền của Tòa án nhân dân liên quan đến các chủ thể này được nêu rõ trong luật.

- Công tố uỷ viên, phó công tố uỷ viên, thẩm phán Toà án nhân dân

- Chánh án, phó Chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân b) Việc thuộc thẩm quyền Toà án binh bao gồm chủ thể là:

- Cục trưởng hoặc Cục phó Cục quân pháp

Công tố uỷ viên và cán bộ công tố tại các Toà án binh được bổ nhiệm bởi Cục trưởng Cục quân pháp hoặc công tố uỷ viên của Toà án binh.

Các dấu hiệu về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong quy định pháp luật hình sự hiện hành

1.3.1 Dấu hiệu liên quan đến chức vụ, quyền hạn Đối với các tội phạm về chức vụ, các đặc điểm của chủ thể tội phạm là dấu hiệu quan trọng nhất để xác định hành vi phạm tội có cấu thành tội phạm hay không Bởi để xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội do một người gây ra có bị coi là tội phạm chức vụ hay không, cần xác định được hành vi được thực hiện đó có đủ yếu tố và điều kiện được quy định trong pháp luật về mặt chủ thể hay không Đặc trưng của các tội phạm về chức vụ là khi thực hiện một hành vi, người đó phải có đầy đủ điều kiện để thực hiện hành vi đó thông qua quyền hạn của mình Vì thế, các tội phạm về chức vụ đòi hỏi người thực hiện hành vi đó phải có những chức vụ, quyền hạn nhất định thì mới có thể thực hiện được hành vi, nên chủ thể mang dấu hiệu liên quan đến chức vụ, quyền hạn được xem là chủ thể đặc biệt của tội phạm

Theo Điều 277 Bộ luật Hình sự 1999, "người có chức vụ" được định nghĩa là cá nhân được bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc thông qua hình thức khác, có thể hưởng lương hoặc không, và được giao nhiệm vụ thực hiện công vụ nhất định với quyền hạn tương ứng.

Theo quy định pháp luật, có nhiều căn cứ để xác định chức vụ của một người, bao gồm việc được bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc các hình thức khác Người đó có thể hưởng lương hoặc không, nhưng phải được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn cụ thể trong quá trình thực hiện công vụ đó.

Trong khái niệm này, người có chức vụ được hiểu là cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện công vụ hợp pháp và có quyền hạn nhất định trong quá trình thực hiện công vụ đó.

Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC xác định rằng người thi hành công vụ là những cá nhân có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung của nhà nước và xã hội Tiến sĩ Nguyễn Quốc Sửu cũng nhấn mạnh rằng công vụ là hoạt động phục vụ lợi ích công, có thể do công chức nhà nước hoặc các tổ chức được ủy quyền thực hiện Tuy nhiên, không phải mọi hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thi hành công vụ đều liên quan đến tội phạm chức vụ; chỉ những người có chức vụ và quyền hạn được giao thực hiện công vụ mới là chủ thể của các tội phạm này.

Như vậy, có thể đưa ra những dấu hiệu đặc trưng cho người có chức vụ, quyền hạn như sau:

Người thực hiện công vụ phải được giao nhiệm vụ thông qua các hình thức như bổ nhiệm, bầu cử hoặc thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, người đó phải có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ được giao

Trong Bộ luật Hình sự, các tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện được quy định tại Chương XXI về tội phạm chức vụ, cùng với một số tội phạm khác được nêu trong các chương khác của luật.

Trong chương XXI về các tội phạm chức vụ, các tội danh liên quan đến tham nhũng được quy định rõ ràng, bao gồm Điều 278 về tội tham ô tài sản Những quy định này nhấn mạnh đặc điểm của chủ thể phạm tội trong các vụ án tham nhũng, nhằm nâng cao hiệu quả phòng chống và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.

Các tội danh liên quan đến tham nhũng và lạm dụng quyền lực bao gồm: Tội nhận hối lộ (Điều 279), các tội liên quan đến lạm dụng chức vụ, quyền hạn (Điều 280 đến Điều 283), và các tội phạm khác như Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285), Tội cố ý hoặc vô ý làm lộ bí mật công tác (Điều 286, Điều 287), và Tội đào nhiệm (Điều 288).

Các quy định pháp luật liên quan đến hành vi vi phạm trong lĩnh vực lao động và quản lý kinh tế được quy định tại nhiều điều luật khác nhau Điều 128 quy định về tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật; Điều 165 nêu rõ tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng; Điều 279 liên quan đến tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật; và Điều 303 quy định về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn giam giữ người trái pháp luật.

Dấu hiệu liên quan đến chức vụ, quyền hạn là một trong những đặc điểm quan trọng của chủ thể tội phạm, đặc biệt trong các tội phạm tham nhũng Để cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và chức vụ, quyền hạn, nhằm thực hiện hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng quyền lực trong khi thi hành công vụ Việc xác định chức vụ, quyền hạn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình định tội danh, giúp phân biệt các tội phạm về chức vụ với những tội phạm khác Nếu người thực hiện hành vi không có chức vụ, quyền hạn, kết luận về tội danh sẽ khác so với trường hợp người có chức vụ lạm dụng quyền hạn Ví dụ, nhân viên vệ sinh không có chức vụ quyền hạn nếu lợi dụng công việc để lấy trộm con dấu và lập giấy tờ giả mạo sẽ không cấu thành tội giả mạo trong công tác, mà chỉ là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

1.3.2 Dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp, tính chất công việc

Các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, mặc dù tương tự, nhưng được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau sẽ tạo thành các loại tội phạm khác nhau Trong pháp luật hình sự, các chủ thể này có dấu hiệu đặc biệt riêng, với sự khác biệt giữa dấu hiệu liên quan đến chức vụ và nghề nghiệp Dấu hiệu tội phạm liên quan đến chức vụ bao gồm những người lợi dụng quyền hạn của mình để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, trong khi dấu hiệu liên quan đến nghề nghiệp yêu cầu cá nhân phải thực hiện đúng trách nhiệm và quy định của công việc Nếu họ không tuân thủ hoặc vi phạm quy định pháp luật trong quá trình thực hiện công việc, họ sẽ trở thành chủ thể của các tội phạm tương ứng với đặc thù của ngành nghề đó.

Theo từ điển tiếng Việt của viện ngôn ngữ học Việt Nam thì:

Nghề nghiệp là công việc được thực hiện theo sự phân công trong xã hội, bao gồm nhiều loại hình khác nhau như luật sư, giáo viên, bác sĩ và nông dân.

Tính chất công việc là những đặc điểm riêng biệt của mỗi ngành nghề, giúp phân biệt chúng với các công việc khác Những đặc điểm này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định bản chất và yêu cầu của từng công việc.

Trong xã hội, mỗi nghề nghiệp đều có những đặc thù riêng, tạo nên tính chất công việc khác nhau Một số công việc yêu cầu những kỹ năng và kiến thức chuyên môn mà không phải ai cũng có thể thực hiện được.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:06

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã sửa đổi bổ sung năm 2009) Khác
6. Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội năm 1960 Khác
8. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 Khác
10. Luật số 103 (Luật đảm bảo quyền tự do thân thể và Quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân) ngày 20/5/1957 Khác
11. Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 Khác
12. Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TAND – Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS Khác
13. Pháp lệnh phòng chống mại dâm năm 2003 Khác
14. Thông tư liên tịch số 01/2001 TTLT-BTP-BCA-TAND-VKSND ngày 25/9/2001 về việc hướng dẫn các quy định tại chương XV BLHS Khác
15. Quy chế trích lập và sử dụng các quỹ dự trự của tổ chức (Ban hành theo quyết định số 106/QĐ-NH5 ngày 09 tháng 06 năm 1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) Khác
16. Sắc lệnh số 02, SL/76 ngày 15/3/1976. Sắc lệnh về việc bắt, giam những phần tử cần tập trung cải tạo Khác
18. Sắc lệnh số 154/SL ngày 17/11/1950. Sắc lệnh ấn định những hình phạt trừng trị việc để tiết lộ bí mật Khác
19. Sắc lệnh số 106/SL ngày 15/6/1950. Sắc lệnh định việc trừng trị những tội làm chậm trễ hay ngăn trở việc thi hành nghĩa vụ quân sự và lệnh tòng quân Khác
20. Sắc lệnh 163/SL ngày 23//1946. Sắc lệnh quy định tổ chức Tòa án binh lâm thời đặt ở Hà Nội Khác
21. Sắc lệnh 223/SL ngày 27/11/1946. Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ.B. Danh mục các tài liệu tham khảo Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN  - Chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình sự việt nam một số vấn đề lí luận và thực tiễn
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (Trang 1)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w