1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chế độ pháp lý về tài chính đối với người lao động việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài

104 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chế Độ Pháp Lý Về Tài Chính Đối Với Người Lao Động Việt Nam Đi Làm Việc Có Thời Hạn Ở Nước Ngoài
Tác giả Nguyễn Thị Phấn
Người hướng dẫn PGS.TS. Trần Hoàng Hải
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại luận văn thạc sĩ luật học
Năm xuất bản 2013
Thành phố Tp.Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 104
Dung lượng 2,69 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1................................................................................................................ 9 (15)
    • 1.1. Khái niệm và vai trò của việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (15)
      • 1.1.1. Khái niệm về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (15)
      • 1.1.2. Vai trò của việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong điều kiện kinh tế hiện nay (17)
    • 1.2. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài ở nước ta (22)
      • 1.2.1. Giai đoạn thực hiện nền kinh tế theo cơ chế tập trung, bao cấp: 1980- (22)
      • 1.2.2. Giai đoạn thực hiện nền kinh tế theo cơ chế thị trường (26)
  • CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 36 (42)
    • 1.1. Tiền môi giới (42)
    • 1.2. Tiền dịch vụ (51)
    • 1.3. Tiền ký quỹ của người lao động (52)
    • 1.4. Bảo hiểm xã hội (56)
    • 1.5. Thuế thu nhập (61)
    • 1.6. Khoản đóng góp vào Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước (65)
    • 1.7. Các chi phí khác (70)
  • KẾT LUẬN (41)

Nội dung

9

Khái niệm và vai trò của việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài

có thời hạn ở nước ngoài

1.1.1 Khái niệm về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài

Trước khi khám phá khái niệm đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, cần nắm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến việc làm và người lao động.

Quan niệm về việc làm của ILO được thể hiện qua khái niệm người có việc làm

Người có việc làm là những cá nhân thực hiện các công việc được trả tiền công, lợi nhuận, hoặc thanh toán bằng hiện vật Họ cũng có thể là những người tham gia vào các hoạt động tự tạo việc làm vì lợi ích hoặc thu nhập cho gia đình, dù không nhận tiền công hay hiện vật.

Quan niệm việc làm ở nước ta, được quy định tại điều 9 BLLĐ 2012: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”

Người lao động (NLĐ) được định nghĩa theo Điều 3 Bộ luật Lao động 2012 là cá nhân từ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, nhận lương và chịu sự quản lý của người sử dụng lao động.

Thuật ngữ “NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” được quy định trong Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, được Quốc hội thông qua vào ngày 29 tháng 11 năm 2006 Trước đó, tại NĐ370/HĐBT ngày 09 tháng 11 năm 1991, thuật ngữ “Đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn” đã được đề cập Đến khi Bộ luật Lao động 1994 ra đời, thuật ngữ này mới chính thức được đổi thành “NLĐ đi làm việc ở nước ngoài”.

Đinh Thị Chiến và Trần Hoàng Hải (2011) đã biên soạn "Giáo trình Luật Lao động" do Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM phát hành, trong đó đề cập đến vấn đề lao động nước ngoài theo hợp đồng lao động có thời hạn Một số đại biểu Quốc hội đã có những ý kiến đáng chú ý liên quan đến cụm từ này.

“NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” tuy hơi dài nhưng đã thể hiện được những ưu điểm sau đây của hoạt động này:

Thuật ngữ này bao gồm toàn bộ phạm vi, đối tượng áp dụng, nội dung luật điều chỉnh và mọi hoạt động liên quan đến người lao động Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng lao động.

Tên gọi mới đã khắc phục những hạn chế của "Luật xuất khẩu lao động", tránh hiểu lầm rằng XKLĐ giống như xuất khẩu hàng hóa, qua đó không đồng hóa sức lao động của con người với hàng hóa thông thường Sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, chỉ có thể được "bán" trong một khoảng thời gian nhất định, do đó giá trị và giá trị sử dụng của nó khác biệt Đồng thời, tên gọi mới cũng phản ánh đầy đủ hơn các hoạt động tìm kiếm, phát triển thị trường, tiếp nhận, quản lý và bảo vệ quyền lợi của người lao động, cũng như xử lý vi phạm trong lĩnh vực này Hơn nữa, "đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài" không phù hợp với việc cá nhân tự tìm kiếm và ký hợp đồng, vì thực tế, lao động thường thông qua các tổ chức môi giới và trung gian.

Theo quy định mới, “NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” sẽ không áp dụng cho cán bộ công chức, viên chức, và lao động là các chuyên gia Việt Nam tại các cơ quan ngoại giao, báo chí, cũng như văn phòng đại diện của các dự án quốc tế hoạt động ở nước ngoài không theo hợp đồng, do tính chất đặc thù của công việc.

“NLĐ Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng” là hoạt động đưa người lao động Việt Nam sang các quốc gia khác để làm việc trong một khoảng thời gian nhất định theo hợp đồng lao động.

3 Chẳng hạn, Đại biểu Đỗ Phương Thảo – Đoàn đại biểu Quốc hội Tp.Hải Phòng http://tuoitre.vn/Pages/Printview.aspx?ArticleID9350, truy cập ngày 06/03/2013

4 http://www.google.com.vn/giaidap/thread?tid9435403d81479b, truy cập ngày 20/4/2013

1.1.2 Vai trò của việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong điều kiện kinh tế hiện nay

Trong bài viết này, tác giả phân tích và làm rõ các vai trò quan trọng của hoạt động xuất khẩu lao động (XKLĐ), bao gồm lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và lợi ích chính trị Trong số đó, lợi ích kinh tế được nhấn mạnh là yếu tố quan trọng nhất.

1.1.2.1 Về lợi ích kinh tế

Hoạt động xuất khẩu lao động (XKLĐ) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, mang lại lợi ích cho người lao động (NLĐ) bằng cách tạo ra việc làm và tăng thu nhập Đồng thời, XKLĐ cũng hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, góp phần vào sự phát triển chung Đây là một phần không thể thiếu trong chương trình việc làm Quốc gia, giúp thực hiện chiến lược giải quyết việc làm và là công cụ hiệu quả trong cuộc chiến xoá đói, giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước đề ra.

Kinh nghiệm từ các quốc gia thành công trong hoạt động xuất khẩu lao động (XKLĐ) như Philippines và Trung Quốc cho thấy đây là giải pháp hiệu quả để giảm tình trạng thất nghiệp Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trên toàn cầu đang gia tăng nhanh chóng Năm 2009 ghi nhận số lượng người thất nghiệp cao nhất với 198 triệu người không có việc làm Dự báo của ILO cho thấy trong năm 2013, số người thất nghiệp toàn cầu sẽ tăng thêm 5,1 triệu so với năm 2012.

Theo báo cáo của ILO, số người thất nghiệp trên toàn cầu đã đạt 202 triệu, phá kỷ lục năm 2009 và dự kiến sẽ tăng lên 205 triệu vào năm 2014 Trong đó, gần 74 triệu người trong độ tuổi 15 đến 24 không có việc làm, với tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên là 12,6% so với năm 2011 Tình trạng này đã gây ra sự suy giảm mạnh trong tăng trưởng kinh tế Để khắc phục, nhiều quốc gia đang và kém phát triển đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động, đạt được những thành công đáng kể trong việc cải thiện nền kinh tế.

Trong 9 tháng đầu năm 2012, bảng thống kê số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động được chia theo giới tính, khu vực thành thị/nông thôn và trình độ chuyên môn kỹ thuật đã được trình bày trong phụ lục 2 và 3.

6 http://laodong.com.vn/Viec-lam/That-nghiep-tren-the-gioi-sap-pha-ky-luc/100281.bld, truy cập ngày 21/04/2013

7 http://vietbao.vn/Kinh-te/That-nghiep-Noi-am-anh-toan-cau-2013/22107004/87/, truy cập ngày 12/09/2013

Xuất khẩu lao động (XKLĐ) không chỉ đóng góp vào nền kinh tế mà còn mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho Việt Nam Từ năm 1993 đến 2012, tổng kiều hối chuyển về nước đã vượt 73 tỷ USD, chiếm 6,8% GDP, với mức trung bình hàng năm đạt 3,65 tỷ USD từ năm 2004 Năm 2012, Việt Nam đứng thứ hai Đông Nam Á về lượng kiều hối, chỉ sau Philippines, và đứng thứ 9 thế giới Sự gia tăng kiều hối từ lực lượng XKLĐ đã diễn ra mạnh mẽ, với khoảng 80.000 lao động Việt Nam được đưa ra nước ngoài làm việc mỗi năm, tổng cộng có khoảng 500.000 lao động đang làm việc hợp pháp ở hơn 40 quốc gia Dự kiến trong năm 2013, lượng kiều hối từ lao động nước ngoài sẽ đạt 1,8-2 tỷ USD, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và thu hẹp khoảng cách giàu-nghèo giữa các quốc gia.

Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài ở nước ta

về đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài ở nước ta

1.2.1 Giai đoạn thực hiện nền kinh tế theo cơ chế tập trung, bao cấp: 1980-1990

(theo Nghị Quyết số 362/CP ngày 29 tháng 11 năm 1980 của Chính phủ, Chỉ thị 108-HĐBT ngày 30 tháng 6 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng và các Hiệp định liên Chính phủ)

Sau khi thống nhất đất nước, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, với những sai lầm trong việc quản lý thị trường và phân phối Cải tạo công thương nghiệp tư nhân và hợp tác hóa nông nghiệp diễn ra chậm, dẫn đến sản xuất công nghiệp trì trệ và nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp Nền kinh tế không tạo ra sự cạnh tranh, lạm phát tăng cao, và tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 4,5%/năm Bên cạnh đó, các khoản nợ sau chiến tranh và hai cuộc chiến tranh biên giới đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế, buộc Nhà nước phải đưa lao động ra làm việc tại Liên Xô và Đông Âu.

17 Văn kiện Hội nghị trung ương 4 Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 5 tháng 6/1983

18 Xem: Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam (1985-2012) ở phụ lục 4 của Phần phụ lục

Kể từ năm 1980, Việt Nam đã tham gia vào Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) và bắt đầu chương trình xuất khẩu lao động có thời hạn ra nước ngoài thông qua hợp tác sử dụng lao động Trong giai đoạn này, khoảng 245.000 lao động và chuyên gia đã được đưa đến bốn quốc gia Xã hội Chủ nghĩa như Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc và Bungary Ngoài việc xuất khẩu lao động, Việt Nam cũng ký kết hợp tác chuyên gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và nông nghiệp với một số quốc gia Châu Phi như Libya, Angeri, Angola, Mozambique, Congo và Madagasca, với tổng số khoảng 7.200 người Tại Trung Đông, khoảng 18.000 lao động đã được đưa sang Iraq Thêm vào đó, gần 24.000 thực tập sinh và học sinh nghề nghiệp tại các nước Đông Âu đã chuyển sang làm việc trong những năm 1980 Tổng số lao động xuất khẩu trong giai đoạn này ước tính gần 300.000 người.

Nhận thấy nhu cầu lớn về nhập khẩu lao động từ các nước Xã hội Chủ nghĩa, ngày 3 tháng 1 năm 1980, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 01/CP thành lập Cục hợp tác Quốc tế về lao động trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Tiếp theo, vào ngày 11 tháng 2 năm 1980, Quyết định số 46/CP được ban hành nhằm đưa công nhân và cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao trình độ tại các nước Xã hội Chủ nghĩa, với mục tiêu đào tạo nghề cho lao động có trình độ cao Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 362/CP ngày 29 tháng 11 năm 1980 và Quyết định số 263/CT ngày 24 tháng 7 năm 1984 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

19 Xem: Biểu đồ thể hiện số người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (1980-1990) ở phụ lục 5 của

Cục Quản lý lao động ngoài nước (DOLAB) là đơn vị thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, được thành lập vào ngày 03 tháng 01 năm 1980 theo Quyết định số 04/CP Cục có trách nhiệm hỗ trợ Bộ trưởng trong việc quản lý nhà nước đối với người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo quy định pháp luật Mục tiêu chính của Cục là giải quyết việc làm cho thanh niên thông qua việc cử người sang các nước để đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề.

Cục Hợp tác Quốc tế về lao động là cơ quan được Nhà nước ủy thác để đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Theo thống kê của các cơ quan chuyên trách, trong giai đoạn từ năm 1980 đến

Từ năm 1989, hoạt động xuất khẩu lao động đã mang lại cho ngân sách nhà nước khoảng 800 tỷ đồng và hơn 300 triệu USD, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Hoạt động này không chỉ giảm tỷ lệ thất nghiệp mà còn tạo ra nguồn thu nhập cao cho người lao động Bên cạnh đó, người lao động còn có cơ hội tiếp cận công nghệ mới và gửi về một lượng hàng hóa tiêu dùng thiết yếu, góp phần cải thiện đời sống gia đình và xây dựng nền kinh tế trong nước trong giai đoạn khó khăn.

Trong giai đoạn này, chúng ta đã đạt được mục tiêu quan trọng là đào tạo một lượng lớn người lao động với tay nghề cao và tác phong làm việc công nghiệp Đây là yếu tố thiết yếu cho sự phát triển của đất nước thông qua quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Ngày 30 tháng 6 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 108-HĐBT nhằm mở rộng hợp tác lao động và chuyên gia với nước ngoài, phản ánh tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu lao động trong bối cảnh kinh tế và chính trị toàn cầu đang thay đổi Chỉ thị này cho phép thành lập các tổ chức kinh tế chuyên về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, khẳng định đây là một nhiệm vụ kinh tế quan trọng với ý nghĩa chiến lược lâu dài, đồng thời cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc.

21 Xem: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý lao động ngoài nước ở phụ lục 6 của Phần phụ lục

Năm 1989, nhiều biến động chính trị lớn tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và khủng hoảng kinh tế tại châu Phi đã dẫn đến việc giảm nhu cầu lao động từ Việt Nam Sau khi Đức tái thống nhất vào năm 1990, các công nhân chưa hết hợp đồng được đền bù để trở về nước Đại hội VI của Đảng và các Nghị quyết Trung ương nhấn mạnh việc xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính tập trung, chuyển sang cơ chế hoạch toán kinh doanh với nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Giai đoạn 1988 – 1990 chứng kiến sự đổi mới kinh tế, không chỉ dừng lại ở việc xóa bỏ cơ chế bao cấp mà còn hướng tới phát triển kinh tế đất nước Bên cạnh các hình thức cũ, các tổ chức kinh tế cung ứng lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đã bắt đầu hình thành, trực tiếp ký kết hợp đồng lao động và thực hiện đưa người lao động đi làm việc theo hình thức nhận thầu khoán.

Nhà nước đã cử 7.200 chuyên gia và 23.713 thực tập sinh đi làm việc ở nước ngoài, mang lại khoảng 800 tỷ đồng ngân sách (theo tỷ giá Rúp/Đồng Việt Nam năm 1990) và hơn 300 triệu USD Đồng thời, người lao động và chuyên gia cũng đã đưa về nước nhiều hàng hóa thiết yếu với tổng giá trị lên đến hàng nghìn tỷ đồng.

Hoạt động hợp tác và xuất khẩu lao động (XKLĐ) hiện nay chưa đạt hiệu quả tối đa do thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực hợp tác quốc tế và cơ chế quản lý tập trung của Chính phủ Điều này khiến cho bức tranh XKLĐ chưa thực sự khả quan Hơn nữa, các chính sách và quy định pháp luật liên quan đến XKLĐ còn thiếu đầy đủ và cụ thể, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của lĩnh vực này, dẫn đến nhiều hạn chế trong hoạt động XKLĐ.

23 http://dolab.gov.vn/index.aspx?mid53&sid, truy cập ngày 20/4/2013

1.2.2 Giai đoạn thực hiện nền kinh tế theo cơ chế thị trường

1.2.2.1 Giai đoạn từ 1991-1994 (Theo Nghị định 370/HĐBT)

Vào cuối thập niên 80 và đầu 90 của thế kỷ XX, nhiều nước Xã hội Chủ nghĩa và Đông Âu đã trải qua biến động lớn, dẫn đến việc giảm nhu cầu tiếp nhận lao động và chuyên gia Việt Nam Đồng thời, Việt Nam cũng đang chuyển mình sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Trước tình hình này, việc đổi mới cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia trở nên cấp bách để phù hợp với thực tế trong nước và quốc tế, nhằm tránh tình trạng phải đưa về nước hàng loạt lao động và chuyên gia mà chưa có kế hoạch tiếp nhận và bố trí việc làm.

Một cơ chế mới về hoạt động xuất khẩu lao động (XKLĐ) đã được thiết lập, trong đó phân định rõ ràng giữa chức năng quản lý của nhà nước và chức năng kinh doanh dịch vụ XKLĐ Nhà nước đảm nhận vai trò quản lý thống nhất thông qua các chính sách và quy định pháp lý, trong khi các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ XKLĐ thông qua các hợp đồng ký kết với đối tác nước ngoài.

Theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI, chúng ta đã thực hiện việc xóa bỏ nền kinh tế tập trung bao cấp và xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa Trong lĩnh vực hợp tác lao động, nhà nước đã chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, sau đó lan rộng sang Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania Cuối cùng, vào cuối năm 1991, Liên Xô chính thức bị giải thể.

36

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:06

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng khảo sát số lao động biết các quy định của pháp luật về mức phí môi giới - Chế độ pháp lý về tài chính đối với người lao động việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
Bảng kh ảo sát số lao động biết các quy định của pháp luật về mức phí môi giới (Trang 45)
Bảng tỉ giá hối đoái (USD/VNĐ) từ năm 2007-2013                                                   (Theo tỷ giá giao dịch ngân hàng thương mại) - Chế độ pháp lý về tài chính đối với người lao động việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
Bảng t ỉ giá hối đoái (USD/VNĐ) từ năm 2007-2013 (Theo tỷ giá giao dịch ngân hàng thương mại) (Trang 47)
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƯỚC - Chế độ pháp lý về tài chính đối với người lao động việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƯỚC (Trang 90)
BẢNG LỆ PHÍ XIN VISA (NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN) - Chế độ pháp lý về tài chính đối với người lao động việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
BẢNG LỆ PHÍ XIN VISA (NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN) (Trang 98)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w