1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

chế độ pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại trong luật thương mại 2005

70 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chế Độ Pháp Lý Về Nhượng Quyền Thương Mại Theo Luật Thương Mại 2005
Tác giả Cao Tuấn Nghĩa
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Thanh Lê
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hcm
Chuyên ngành Luật Thương Mại
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2010
Thành phố Tp Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 70
Dung lượng 850,58 KB

Cấu trúc

  • LỜI NÓI ĐẦU

    • Xét về mặt kinh tế, có khá nhiều các công trình nghiên cứu về nhượng quyền thương mại điển hình như “Franchise – bí quyết thành công bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh” – NXB Trẻ, Hà Nội, năm 2005 và “mua Franchise cơ hội mới cho các doanh nghiệp Vi...

      • 6. Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại

      • 7. Nghị định số 45/1998/NĐ–CP về chuyển giao công nghệ

      • 8. Thông tư số 1254/1999/TT – BKHCNMT của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn chi tiết thi hành nghị định của Chính phủ số 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ

Nội dung

tổng quan về hoạt động NQTM

Khái Niệm và đặc điểm hoạt động NQTM

1.2.1.1 Theo của pháp luật các quốc gia trên thế giới

NQTM đang trở nên phổ biến trên toàn cầu, nhưng khái niệm này trong pháp luật của các quốc gia lại không hoàn toàn đồng nhất Dưới đây là những định nghĩa về NQTM từ một số tổ chức quốc tế và pháp luật của một số quốc gia.

Theo Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Quốc tế (IFA), nhượng quyền thương mại là một mối quan hệ hợp đồng giữa bên giao quyền và bên nhận quyền Trong đó, bên giao quyền có trách nhiệm duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của bên nhận quyền, bao gồm các khía cạnh như bí quyết kinh doanh và đào tạo nhân viên Bên nhận quyền sẽ hoạt động dưới nhãn hiệu và phương pháp kinh doanh do bên giao quyền sở hữu hoặc kiểm soát, đồng thời đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp của mình.

- Theo Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (The US Federal Trade Commission - FTC):

Hợp đồng nhượng quyền thương mại là thỏa thuận giữa ít nhất hai bên, trong đó bên mua nhượng quyền được quyền bán hoặc phân phối sản phẩm, dịch vụ theo hệ thống tiếp thị của bên chủ thương hiệu Hoạt động kinh doanh của bên mua nhượng quyền cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các kế hoạch và quy định đã được đặt ra bởi bên nhượng quyền.

Hệ thống tiếp thị của nhãn hiệu bao gồm thương hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu chí và quảng cáo, cùng với các biểu tượng thương mại khác Người mua franchise sẽ phải trả một khoản phí, được gọi là phí franchise, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.

NQTM, được khởi xướng và định nghĩa bởi người Mỹ, là một hợp đồng liên kết giữa nhà sản xuất hoặc tổ chức dịch vụ và người kinh doanh độc lập Định nghĩa này phản ánh đầy đủ các vấn đề cơ bản của NQTM, bao gồm các đối tượng tham gia và phí nhượng quyền Quan trọng hơn, nó nhấn mạnh tính liên tục và mối quan hệ mật thiết giữa các bên trong hợp đồng Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh của BNHQ cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt kế hoạch và hệ thống tiếp thị của BNQ.

- Theo Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU)

Khái niệm NQTM không được định nghĩa trực tiếp mà được tiếp cận gián tiếp thông qua khái niệm “quyền thương mại”:

Quyền thương mại bao gồm các quyền sở hữu công nghiệp và trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết và sáng chế Những quyền này được khai thác nhằm mục đích bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ đến tay người sử dụng cuối cùng.

Theo Bộ luật dân sự Nga, bản chất pháp lý của nhượng quyền thương mại (NQTM) được xác định qua Hợp đồng nhượng quyền thương mại, trong đó bên có quyền cung cấp cho bên sử dụng quyền sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền, bao gồm quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, bí mật kinh doanh và các quyền độc quyền khác như nhãn hiệu hàng hóa, với một khoản thù lao và trong một thời hạn nhất định hoặc không thời hạn.

Khái niệm NQTM trong pháp luật Nga tương tự như của EC, định nghĩa NQTM là một quan hệ hai chiều, trong đó bên nhượng chuyển giao quyền sử dụng một số yếu tố thuộc quyền sở hữu cho bên kia và nhận một khoản tiền Tuy nhiên, khái niệm này chưa thể hiện rõ tính liên tục và mối quan hệ mật thiết giữa các bên trong suốt quá trình kinh doanh.

8 TS Lý Quý Trung (2006), “francise bí quyết thành công bằng mô hình NQTM”, Nxb Trẻ

Một số khái niệm về nhượng quyền thương mại trên thế giới, đặc biệt là phương thức nhượng quyền thương mại (NQTM), có những thiếu sót khi so sánh với định nghĩa của Hội đồng thương mại Hoa Kỳ.

Các hệ thống pháp luật khác nhau có những khái niệm không giống nhau về NQTM, điều này phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề Một số quốc gia tập trung vào các chủ thể và quyền nghĩa vụ của họ trong quan hệ NQTM, trong khi những quốc gia khác lại chú trọng đến khái niệm quyền thương mại Tuy nhiên, nhìn chung, các quốc gia đều có sự thống nhất về bản chất của quan hệ NQTM ở một số điểm nhất định.

Trong mối quan hệ NQTM, luôn có sự hiện diện của bên NQ và bên BNHQ, trong đó bên NQ giữ vai trò là chủ sở hữu hoặc là bên kiểm soát các quyền sở hữu trí tuệ cùng với các phương thức kinh doanh.

Các bên tham gia kinh doanh sẽ hợp tác dựa trên việc sử dụng chung các yếu tố như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu, biểu tượng kinh doanh, và quảng cáo của BNQ, cùng với cách thức tổ chức kinh doanh mà BNQ quy định.

Giữa BNQ và BNHQ tồn tại một mối quan hệ chặt chẽ, trong đó BNQ không chỉ có quyền kiểm tra và giám sát BNHQ mà còn có trách nhiệm hỗ trợ và hướng dẫn cho BNHQ trong quá trình hoạt động.

1.2.1.2 Theo pháp luật Việt Nam

Trước đây, hoạt động NQTM được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự và pháp luật chuyển giao công nghệ dưới tên gọi “cấp phép đặc quyền kinh doanh” Sự ra đời của Luật Thương Mại 2005 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quy định về NQTM tại Việt Nam, khi lần đầu tiên định nghĩa rõ ràng về hoạt động này trong một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao.

Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại cho phép bên nhượng quyền yêu cầu bên nhận quyền thực hiện mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ theo những điều kiện nhất định.

Phân loại NQTM

Nghiên cứu về NQTM có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào mục đích và cách tiếp cận của tác giả Một số tiêu chí phân loại phổ biến hiện nay bao gồm tính chất của NQTM, mối quan hệ giữa BNQ và BNHQ, cũng như đối tượng mà NQTM hướng tới.

1.3.1 Căn cứ tính chất mối quan hệ giữa BNQ và BNhQ

Căn cứ vào tiêu chí này NQTM có thể đươc chia thành NQTM riêng lẻ (trực tiếp), NQTM độc quyền và NQTM phát triển khu vực 12 a NQTM riêng lẻ

NQTM riêng lẻ là hình thức nhượng quyền cơ bản, trong đó BNHQ ký hợp đồng với chủ thương hiệu để sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp và bí quyết kinh doanh Hợp đồng quy định quyền kinh doanh tại một địa điểm nhất định trong thời gian thỏa thuận giữa các bên.

NQTM độc quyền là tình huống mà BNQ cấp phép cho BNHQ thực hiện quyền kinh doanh các đối tượng trong hợp đồng NQTM tại một khu vực lãnh thổ cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định.

Trong hợp đồng NQTM, bên nhượng quyền (BNQ) không được phép cấp quyền thương mại cho bên thứ ba trong khu vực quy định Ngược lại, bên nhận quyền (BNHQ) có quyền nhượng lại quyền thương mại cho bên thứ ba hoặc tự mở cửa hàng để kinh doanh trong khu vực đó Quyền hạn của BNHQ trong NQTM này rất lớn, do đó phí chuyển nhượng cũng cao hơn nhiều so với NQTM trực tiếp.

11 Nguyễn Bá Bình (2006), “ nhượng quyền thương mại - bản chất và mối quan hệ với hoạt động chuyển giao công nghệ, li xăng”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2), Tr 21

12 TS Lý Quý Trung (2006), “ mua Franchise cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam”, Nxb trẻ

Hiện nay, nhiều hệ thống nhượng quyền thương mại lớn như McDonald's và Pizza Hut đã chuyển sang hình thức nhượng quyền độc quyền thay vì nhượng quyền trực tiếp Điều này giúp họ giảm bớt gánh nặng quản lý đối với số lượng cửa hàng lớn, đặc biệt ở những thị trường xa xôi với sự khác biệt về văn hóa và phong tục Nhượng quyền thương mại phát triển khu vực cho phép bên nhượng quyền mở các cơ sở kinh doanh trong một khu vực và thời gian nhất định, với số lượng cửa hàng tùy thuộc vào thỏa thuận, nhưng không được phép nhượng quyền lại cho bên thứ ba Hình thức này giống như một trung gian giữa nhượng quyền đơn lẻ và nhượng quyền độc quyền.

Theo Luật thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về phân loại NQTM, nhưng một số điều khoản đã đề cập đến các tên gọi khác nhau của các bên trong quan hệ NQTM như BNQ sơ cấp và thứ cấp Các khái niệm liên quan đến quyền thương mại chung và hợp đồng NQTM thứ cấp tại Điều 3 Nghị định 35 cho thấy rằng pháp luật Việt Nam đã gián tiếp phân loại hoạt động NQTM Tuy nhiên, việc phân loại này chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật cho từng loại NQTM, vì mỗi loại đều có đặc điểm riêng cần quy định pháp lý khác biệt Do đó, việc bổ sung các quy phạm phân biệt rõ ràng các loại hình NQTM sẽ giúp xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật đầy đủ và hiệu quả hơn.

1.3.2 Căn cứ vào đối tƣợng của NQTM

Căn cứ trên tiêu chí này thì chúng ta có thể chia hoạt động NQTM thành: NQTM sản xuất, NQTM phân phối, NQTM dịch vụ 13 a) NQTM sản xuất

NQTM sản xuất là hình thức nhượng quyền cho phép BNhQ sản xuất và kinh doanh sản phẩm mang thương hiệu của BNQ, dưới sự hướng dẫn của BNQ Trong quá trình này, BNQ cũng cung cấp cho BNhQ những thông tin liên quan đến bí mật thương mại, đảm bảo sự tuân thủ và phát triển bền vững của thương hiệu.

Luận án tiến sĩ của Ths Vũ Đặng Hải Yến tập trung vào các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Nghiên cứu này phân tích các khía cạnh pháp lý cần thiết để phát triển và quản lý nhượng quyền thương mại, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu.

Bùi Ngọc Cường (2007) trong bài viết "Hoàn thiện khung pháp lý về nhượng quyền thương mại" trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp đã đề cập đến vai trò quan trọng của các công nghệ hiện đại và công nghệ đã được cấp bằng sáng chế trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại Bài viết cũng nhấn mạnh rằng bên nhượng quyền (BNQ) có thể hỗ trợ bên nhận nhượng quyền (BNHQ) thông qua các dịch vụ như đào tạo, tiếp thị, phân phối và dịch vụ hậu mãi, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình nhượng quyền dịch vụ.

Nhượng quyền dịch vụ là hình thức nhượng quyền thương mại (NQTM) trong đó bên nhượng quyền (BNQ) chuyển giao quyền kinh doanh các dịch vụ nhất định mà BNQ đã phát triển cho bên nhận nhượng quyền (BNHQ).

NQTM là dịch vụ phổ biến trong nhiều lĩnh vực như sửa chữa, bảo dưỡng ô tô, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và cung cấp thẻ tín dụng BNQ đã phát triển thành công một số mô hình dịch vụ mang thương hiệu riêng, cho phép BNHQ cung ứng các dịch vụ ra thị trường theo mô hình và thương hiệu của BNQ.

Nhượng quyền thương mại (NQTM) sản xuất và dịch vụ đều có điểm chung là không chỉ chuyển giao quyền sử dụng các yếu tố như nhãn hiệu, trang trí và khẩu hiệu, mà còn bao gồm cả công thức kinh doanh, cách thức quản lý và bí quyết thành công của bên nhượng quyền Điều này đòi hỏi mối quan hệ chặt chẽ giữa các bên để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống cửa hàng Trong số các loại hình NQTM, nhượng quyền phân phối là phổ biến nhất, trong đó bên nhượng quyền có trách nhiệm bán lại sản phẩm từ bên nhượng quyền mà không có quyền sản xuất hoặc gắn nhãn hiệu của bên nhượng quyền, chỉ được phép sử dụng một số dấu hiệu như tên thương mại và biển hiệu.

Loại hình NQTM đang trở nên phổ biến do tính dễ thực hiện và không yêu cầu quá nhiều điều kiện về tài chính hay pháp lý Mối quan hệ này tương tự như giữa nhà sản xuất và đại lý phân phối, vì vậy BNHQ không cần có tiềm lực tài chính hay đội ngũ nhân công để tiếp nhận công nghệ Hơn nữa, BNHQ cũng không cần chứng chỉ hành nghề hay kinh nghiệm để nhận quyền thương mại Mô hình này còn giúp BNQ giảm thiểu rủi ro trong việc tiết lộ bí mật kinh doanh, từ đó bảo vệ lợi thế cạnh tranh của họ.

15 Nguyễn Thanh Hương (2007) “nhượng quyền thương hiệu đôi điều suy nghĩ”, tạp chí phát triển kinh tế (202),

Theo Ts Nguyễn Thanh Tâm (2006) trong tác phẩm “Quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại” xuất bản bởi Nxb Tư Pháp, BNHQ chỉ có vai trò phân phối và do đó không tiếp cận được các bí quyết kinh doanh cũng như phương thức sản xuất Điều này dẫn đến việc BNHQ không có khả năng tiết lộ những thông tin này trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn.

Trên thực tế, nhiều trường hợp không phân biệt rõ ràng giữa ba loại hình nhượng quyền, vì mối quan hệ có thể bao gồm cả nhượng quyền sản xuất, nhượng quyền phân phối và nhượng quyền dịch vụ.

Phân biệt NQTM và các hoạt động khác

Giai đoạn mở cửa và hội nhập kinh tế của Việt Nam đã thúc đẩy sự phát triển đa dạng các mối quan hệ xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh thương mại Nhiều hoạt động trong lĩnh vực này tương tự như NQTM, khiến việc phân biệt trở nên khó khăn, bao gồm hoạt động đại lý, chuyển giao công nghệ và li-xăng Bài viết này sẽ phân tích sự khác biệt giữa NQTM và các hoạt động trên, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về hoạt động thương mại này.

1.4.1 Phân biệt NQTM với hoạt động đại lý

NQTM và hoạt động đại lý đều phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực phân phối sản phẩm, nhưng mối quan hệ pháp lý giữa các bên không phải là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về tổ chức và tư cách pháp lý Dù có nhiều điểm tương đồng, NQTM và hoạt động đại lý còn tồn tại nhiều khác biệt đáng chú ý.

Trong quan hệ đại lý, quyền sở hữu tài sản thuộc về bên giao đại lý, mặc dù bên đại lý chiếm hữu hàng hóa trong quá trình thực hiện hợp đồng Điều này phản ánh rõ ràng bản chất của hợp đồng đại lý và đảm bảo quyền lợi cho bên giao đại lý.

Pháp luật quy định một cách nghiêm ngặt về quan hệ đại lý, không phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên Ngược lại, trong quan hệ NQTM, các bên là những chủ thể độc lập, và hàng hóa do bên nào sản xuất, kinh doanh thì thuộc quyền sở hữu của bên đó, đồng thời bên sở hữu cũng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với hàng hóa của mình.

Trong hợp đồng đại lý, đối tượng chủ yếu là hàng hóa và dịch vụ, trong khi hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM) tập trung vào các quyền thương mại liên quan đến nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu và biểu tượng kinh doanh.

Mối quan hệ giữa bên nhượng quyền (BNQ) và bên nhận nhượng quyền (BNHQ) là mối quan hệ bền chặt và lâu dài BNQ có trách nhiệm hướng dẫn và hỗ trợ BNHQ trong suốt quá trình hoạt động, trong khi BNHQ cần tuân thủ các tiêu chuẩn và yêu cầu mà BNQ đề ra.

Trong mối quan hệ đại lý, bên nhận đại lý chỉ đảm nhận vai trò phân phối hàng hóa và không bị ràng buộc về cách thức phân phối, trang trí hay quảng cáo từ bên giao đại lý.

Trong quan hệ đại lý thương mại, bên nhận đại lý không phải trả phí cho bên giao đại lý và còn nhận thù lao từ hoạt động kinh doanh Ngược lại, trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận nhượng quyền phải trả phí nhượng quyền cho bên nhượng quyền.

1.4.2 Phân biệt NQTM với hoạt động chuyển giao công nghệ

Chuyển giao công nghệ là quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ từ bên chuyển giao sang bên nhận Bên bán có trách nhiệm cung cấp kiến thức, máy móc, thiết bị, dịch vụ và đào tạo cho bên mua, trong khi bên mua phải thanh toán theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.

Về cơ bản NQTM và chuyển giao công nghệ có những điểm khác nhau như sau:

Trong hoạt động chuyển giao công nghệ, đối tượng hợp đồng chủ yếu là kiến thức công nghệ, máy móc, thiết bị, dịch vụ và đào tạo liên quan, tập trung vào công nghệ sản xuất và quy trình sản xuất sản phẩm Ngược lại, NQTM không chỉ bao gồm quy trình sản xuất mà còn mở rộng đến các quy trình sau sản xuất để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, cùng với các quy trình quản lý như cơ cấu tổ chức, chính sách kinh doanh, kiểm toán, nhân sự, và tiêu chuẩn thiết kế, trang trí cửa hàng, nhà xưởng.

Trong quan hệ NQTM, sau khi chuyển nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền (BNQ) có quyền kiểm tra và giám sát hoạt động của bên nhận quyền (BNHQ) Đồng thời, BNQ cũng có nghĩa vụ hướng dẫn và hỗ trợ BNHQ để đảm bảo hệ thống NQTM hoạt động đồng nhất và hiệu quả.

18 Điều 3 Luật chuyển giao công nghệ

19 Khoản 1 Điều 2 Nghị định 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 của Chính phủ quy định chi tiết hoạt động chuyển giao công nghệ

Nhượng quyền thương mại (NQTM) và chuyển giao công nghệ có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó bên nhận chuyển giao không có nghĩa vụ hỗ trợ hay kiểm soát hoạt động của bên chuyển giao Điều này cho thấy rằng trong NQTM, các bên có sự gắn bó hơn so với hoạt động chuyển giao công nghệ Bên nhận chuyển giao có khả năng phát triển và cải tiến các đối tượng trong hợp đồng, trong khi bên nhượng quyền chỉ được sử dụng các quyền thương mại mà không có quyền cải tiến chúng.

Trong quan hệ NQTM, bên nhận quyền thương mại (BNHQ) phải sản xuất hàng hóa dưới nhãn hiệu và tên thương mại của bên nhượng quyền (BNQ) Ngược lại, trong quan hệ chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao có quyền ứng dụng công nghệ để sản xuất sản phẩm với bất kỳ nhãn hiệu, kiểu dáng hay tên thương mại nào mà họ lựa chọn, không bắt buộc phải sử dụng tên thương mại hay nhãn hiệu của bên chuyển giao.

Hợp đồng chuyển giao công nghệ có thời hạn tối đa là 7 năm, có thể kéo dài lên tới 10 năm trong một số trường hợp, nhằm giúp doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận công nghệ tiên tiến, đặc biệt là từ nước ngoài Trong khi đó, hợp đồng NQTM không có giới hạn thời gian, hoàn toàn dựa vào thỏa thuận giữa các bên, điều này phù hợp với tính bền vững và lâu dài của quan hệ thương mại.

1.4.3 Hoạt động NQTM và hoạt động li-xăng

Li-xăng là sự cho phép của bên nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp cho bên khác sử dụng đối tượng sở hữu đó Hợp đồng li-xăng thường liên quan đến các quyền như nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế và giải pháp hữu ích Mặc dù li-xăng và hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM) có điểm chung về đối tượng sở hữu công nghiệp, nhưng chúng cũng có những khác biệt quan trọng.

Vai trò của hoạt động NQTM đối với các bên trong hợp đồng

Sự phát triển mạnh mẽ của NQTM trong hơn một thập niên qua, đặc biệt là trong những năm gần đây, đã cho thấy mô hình này rất phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam và có tiềm năng lớn trong tương lai Tuy nhiên, bên cạnh những thành công của nhiều doanh nghiệp, không ít doanh nghiệp cũng đã gặp thất bại trong lĩnh vực này, cả với tư cách BNQ và BNHQ Vì vậy, trước khi tham gia thị trường với mô hình NQTM, các chủ thể cần tìm hiểu kỹ về những ưu điểm và nhược điểm mà mô hình này mang lại.

1.5.1 Những lợi thế của hoạt động NQTM có thể đem lại

Trong môi trường thương mại toàn cầu hiện nay, doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô và chiếm lĩnh thị phần nhưng thường gặp khó khăn về tài chính và nguồn lực Do đó, nhượng quyền thương mại (NQTM) trở thành lựa chọn lý tưởng, cho phép doanh nghiệp không cần đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng mà chỉ cần sử dụng tài sản vô hình như thương hiệu và bí quyết kinh doanh Mặc dù vẫn có một số chi phí liên quan đến đào tạo và giám sát, nhưng chúng vẫn thấp hơn nhiều so với việc tự mở rộng Các cơ sở mới hoạt động theo mô hình và chất lượng giống như doanh nghiệp mẹ, giúp duy trì hình ảnh và uy tín của thương hiệu trong mắt khách hàng, ngay cả khi sự hiện diện chỉ thông qua một đối tác nhượng quyền.

Thứ hai, đối với BNQ, khi bắt đầu NQTM họ không phải chi quá nhiều tiền

BNQ tận dụng việc nhượng quyền thương mại bằng cách cho phép sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu và bí quyết kinh doanh, từ đó thu về khoản phí chuyển nhượng ổn định bất chấp biến động thị trường Thay vì giữ lại tài sản vô hình, BNQ biến chúng thành hàng hóa để phát triển và tạo ra lợi nhuận Phí nhượng quyền thương mại bao gồm phí ban đầu, phí hàng tháng và các loại phí khác, phụ thuộc vào độ nổi tiếng của thương hiệu và thỏa thuận trong hợp đồng Đây là một trong những mục đích chính của BNQ khi tham gia vào quan hệ nhượng quyền thương mại.

NQTM giúp BNQ vượt qua những khó khăn khi tiếp xúc với thị trường mới, nơi mà phong tục tập quán và thói quen tiêu dùng có thể khác biệt Thời gian thích nghi với địa điểm mới thường là một thách thức lớn đối với chủ cơ sở kinh doanh, nhưng trong mối quan hệ NQTM, trách nhiệm này thuộc về BNHQ Với kiến thức kinh doanh sâu sắc về thị trường của mình, BNHQ có khả năng điều chỉnh hệ thống NQTM để phù hợp với đặc điểm kinh tế địa phương và nhu cầu riêng biệt của từng thị trường, từ đó nâng cao khả năng thành công cho hệ thống NQTM.

Quan hệ NQTM là một hình thức thương mại dựa trên sự bình đẳng và thỏa thuận tự nguyện, vì vậy mô hình này chỉ có thể phát triển khi mang lại lợi ích cho cả hai bên Đối với BNHQ, mô hình NQTM cũng mang đến nhiều lợi thế đáng kể.

BNHQ sẽ sở hữu quyền thương mại quan trọng, bao gồm quyền sử dụng các yếu tố thương hiệu đã được khẳng định trên thị trường Khách hàng thường ưu tiên lựa chọn sản phẩm nổi tiếng và lâu đời khi chất lượng và giá cả tương đương Do đó, các cơ sở sản xuất mới gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với những thương hiệu đã tồn tại, với tỷ lệ rủi ro cao Thực tế cho thấy, từ năm 1974 đến 2005, chỉ 5% doanh nghiệp theo mô hình nhượng quyền tại Mỹ thất bại, so với 30-65% đối với các doanh nghiệp không theo mô hình này Nhượng quyền thương mại tạo ra cơ hội lớn cho những người tham gia thị trường mới, giúp họ tiết kiệm thời gian, chi phí và công sức để xây dựng thương hiệu Họ chỉ cần trả một khoản phí để hoạt động dưới một thương hiệu lớn, đồng thời đảm bảo tương lai kinh doanh nhờ vào uy tín của thương nhân lớn hơn đã được khẳng định.

Thông qua quan hệ NQTM, BNHQ nhận được sự hỗ trợ và hướng dẫn từ BNQ theo hợp đồng, giúp BNHQ phát triển và cải thiện hoạt động của mình.

Lý Quí Trung (2006) trong cuốn "Franchise – Bí quyết thành công" đã chỉ ra rằng việc thu thập kiến thức kinh doanh và kinh nghiệm từ BNQ sẽ nâng cao khả năng thành công cho BNHQ Điều này giúp BNHQ nhận được những hỗ trợ quý giá từ BNQ mà không cần lo lắng về tính hiệu quả của chúng.

Thứ ba, về góc độ kinh tế, BNHQ còn có thể có được những lợi thế nhất định

BNQ sẽ đảm nhận việc xây dựng chiến lược tiếp thị, quảng cáo, quy trình vận hành và chiến lược kinh doanh, giúp BNHQ có thể tập trung vào các vấn đề khác Hơn nữa, BNQ thường cung cấp những ưu đãi đặc biệt cho BNHQ, như tỷ lệ chiết khấu cao, giá cả ổn định và ưu tiên phân phối sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho BNHQ trong hoạt động kinh doanh.

1.5.2 Những điểm bất lợi với các bên trong hợp đồng NQTM

Mỗi hình thức kinh doanh đều có những ưu và nhược điểm riêng, và NQTM cũng không phải là ngoại lệ Mặc dù NQTM mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng tồn tại không ít nhược điểm, góp phần lý giải sự thất bại của một số doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

Khi tham gia quan hệ NQTM, BNQ phải đối mặt với nguy cơ mất uy tín trước khách hàng và đối tác Hoạt động NQTM có tính đồng bộ cao, dẫn đến việc khách hàng thường nhầm lẫn giữa BNQ và BNHQ, mặc dù đây là hai chủ thể độc lập Nếu BNHQ có hành vi cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ kém chất lượng, khách hàng có thể quy trách nhiệm cho BNQ Mặc dù pháp luật cho phép BNQ giám sát hoạt động của BNHQ, nhưng không thể hoàn toàn loại trừ những rủi ro liên quan.

Nguy cơ lộ bí mật kinh doanh là một trong những rủi ro lớn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp thành công, vì họ thường sở hữu những bí quyết kinh doanh mang lại lợi thế cạnh tranh Việc tiết lộ bí mật này có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho thu nhập và sự tồn tại của doanh nghiệp Trong quan hệ NQTM, bên nhận quyền (BNQ) cần chia sẻ thông tin về bí quyết và phương thức kinh doanh với bên nhượng quyền (BNHQ) Khi mối quan hệ giữa các bên vẫn tốt đẹp, lợi ích của họ thường thống nhất Tuy nhiên, khi xảy ra mâu thuẫn, đặc biệt là khi chấm dứt hợp đồng NQTM, có khả năng BNHQ sẽ lợi dụng những thông tin này để trục lợi hoặc gây khó khăn cho BNQ.

Chi phí mở cửa hàng nhượng quyền thương mại (NQTM) thường cao hơn so với việc thành lập một cửa hàng kinh doanh độc lập Ngoài các khoản chi cho mặt bằng và cơ sở vật chất, chủ cửa hàng NQTM còn phải chi trả phí nhượng quyền, phí quảng cáo và các dịch vụ hỗ trợ khác.

Tính tự chủ của BNHQ trong quan hệ NQTM bị hạn chế do đặc trưng chia sẻ quyền thương mại, nhằm bảo vệ uy tín thương hiệu và tránh sụp đổ hệ thống NQTM BNHQ không có quyền tự quyết trong việc thay đổi hay cải tiến cửa hàng của mình, như trang trí nội thất, thực đơn, đồng phục và giờ hoạt động, phải đồng nhất với các cửa hàng khác trong hệ thống Điều này đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất cho chuỗi cửa hàng, nhưng cũng làm giảm khả năng sáng tạo của các chủ thể nhận quyền Hơn nữa, BNQ có quyền kiểm tra và giám sát, có thể can thiệp vào hoạt động của BNHQ trong một số trường hợp.

Mặc dù BNHQ sử dụng các quyền thương mại, họ không phải là chủ sở hữu Do đó, trong quá trình hoạt động, nếu giá trị của các quyền thương mại tăng lên, công sức và chi phí mà BNHQ bỏ ra để mở rộng hoạt động và quảng cáo có thể bị mất hoàn toàn khi hợp đồng kết thúc.

Pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM tại Việt Nam

Chủ thể tham gia hợp đồng NQTM

25 Điều 12 Luật chuyển giao công nghệ

Trong quan hệ hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM), các bên tham gia bao gồm bên nhượng quyền (BNQ) và bên nhận quyền (BNHQ) Khi BNHQ chuyển nhượng quyền thương mại cho bên thứ ba, sẽ xuất hiện bên BNHQ thứ cấp Lúc này, BNQ được gọi là BNQ sơ cấp, còn BNHQ nhận quyền trực tiếp từ BNQ được gọi là BNHQ sơ cấp hoặc BNQ thứ cấp Các khái niệm này đã được định nghĩa rõ ràng tại Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP Để đảm bảo an toàn pháp lý cho hoạt động NQTM, nhiều quốc gia quy định rằng cả BNQ và BNHQ đều phải có tư cách thương nhân theo luật thương mại.

Nghị định 35/2006/NĐ-CP không quy định rõ tư cách thương nhân trong quan hệ nhượng quyền thương mại (NQTM), mặc dù có đề cập đến thương nhân nhượng quyền và thương nhân nhận quyền Theo pháp luật Việt Nam, ngoài các thương nhân, còn có những cá nhân không phải thương nhân nhưng vẫn có thể tham gia hoạt động thương mại, như những người hoạt động thương mại độc lập theo Nghị định số 39/2007/NĐ-CP Các hoạt động thương mại này bao gồm buôn bán nhỏ lẻ, bán quà bánh, đồ ăn, dịch vụ như đánh giày, sửa chữa xe, và nhiều dịch vụ khác Những hoạt động này có tiềm năng phát triển theo mô hình NQTM, đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công và nghề tự do Do đó, theo quy định hiện hành, các bên tham gia quan hệ NQTM tại Việt Nam không nhất thiết phải là thương nhân, điều này không chỉ hợp lý mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy NQTM trong các lĩnh vực cụ thể.

Bởi NQTM là hoạt động thương mại đặc thù, pháp luật ở hầu hết các nước yêu cầu các chủ thể tham gia phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định Tương tự, pháp luật NQTM Việt Nam cũng quy định nhiều điều kiện cho các bên tham gia, với các tiêu chuẩn khác nhau tùy thuộc vào vai trò và vị trí của từng bên Khi so sánh điều kiện của các bên tham gia NQTM, dễ dàng nhận thấy rằng các yêu cầu đối với BNQ khắt khe hơn nhiều so với các điều kiện của BNHQ.

Điều 3 Nghị định 37/2007/NĐ-CP quy định về sự mất cân đối giữa vị thế và rủi ro của các bên tham gia vào NQTM.

Thứ nhất, về sự mất cân đối trong vị thế của các bên, trong quan hệ NQTM

BNQ thường là những thương nhân lớn, có uy tín trên thị trường, và họ chủ động chọn BNhQ thay vì ngược lại Do đó, khả năng nắm bắt thông tin về hệ thống NQTM và kỹ năng đàm phán của BNhQ bị hạn chế đáng kể Hệ quả là trong mối quan hệ NQTM, BNhQ luôn ở thế yếu hơn so với BNQ.

Về vấn đề rủi ro, BNHQ phải đầu tư một khoản tiền lớn vào cơ sở hạ tầng và các khoản phí, trong khi BNQ gần như không có bất kỳ đầu tư vật chất nào đáng kể Điều này cho thấy rủi ro của BNHQ cao hơn nhiều so với BNQ.

Pháp luật Việt Nam, giống như nhiều quốc gia khác, có xu hướng bảo vệ quyền lợi của BNHQ Quan điểm này được thể hiện rõ ràng qua các điều kiện cụ thể của các chủ thể liên quan.

2.2.1 Các điều kiện đối với BNQ

2.2.1.1 Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền phải hoạt động ít nhất 01 năm Trường hợp thương nhân Việt Nam là BNHQ sơ cấp từ BNQ nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức NQTM ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại

Cơ sở pháp lý cho vấn đề này là Điều 5 Nghị định 35/2005/NĐ-CP, quy định chi tiết luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại (NQTM) Thời gian thử thách được đặt ra nhằm đảm bảo giá trị và khả năng thích nghi của quyền thương mại chuyển nhượng với thị trường, từ đó bảo vệ lợi ích của bên nhượng quyền hợp pháp (BNHQ), đặc biệt trong các quan hệ NQTM có yếu tố nước ngoài Với vai trò là một nước đi sau trong lĩnh vực NQTM, quy định này giúp bảo vệ quyền lợi của các BNHQ, tránh cho họ những quyết định sai lầm khi mua quyền thương mại từ những thương nhân không hiệu quả nhưng lại có hệ thống quảng cáo và ưu đãi hấp dẫn.

Mặc dù có quy định về thời gian thử thách đối với doanh nghiệp trước khi tham gia NQTM, nhưng thực tế cho thấy quy định này chứa đựng nhiều vấn đề bất hợp lý.

Trước khi ký hợp đồng trong quan hệ NQTM, BNHQ cần tìm hiểu kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến quyền thương mại mà họ dự định tiếp nhận.

Không có lý do nào để họ chấp nhận quyền thương mại nếu không tin vào khả năng sinh lợi và thành công của nó Nói cách khác, khi tham gia vào hệ thống NQTM, BNHQ hoàn toàn là sự tự nguyện.

Mặc dù một năm hoạt động có thể không đảm bảo giá trị thương hiệu của BNQ, yếu tố quyết định cho sự thành công của hệ thống nhượng quyền là danh tiếng, không phải thời gian Danh tiếng có thể được hình thành trong thời gian dài hoặc ngắn, và các doanh nghiệp mới vẫn sở hữu tên thương mại, nhãn hiệu và bí quyết riêng, mang lại giá trị nhất định dù chưa khẳng định được uy tín Đặc biệt, những doanh nghiệp như Phở 24 thường đầu tư đáng kể cho thương hiệu ngay từ đầu Hơn nữa, quy định về thời gian thử thách một năm có thể cản trở cơ hội mở rộng thị trường cho các doanh nhân, cho thấy sự can thiệp quá mức của pháp luật vào quan hệ thương mại Do đó, quy định này đang trở nên không thực tế và không phù hợp với xu hướng phát triển nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.

Mặc dù thời gian thử thách một năm theo quy định của pháp luật Việt Nam ngắn hơn so với nhiều quốc gia khác, nhưng đây vẫn là một cách tiếp cận hợp lý Thời gian thử thách ngắn giúp các doanh nghiệp mới nhanh chóng gia nhập thị trường NQTM, từ đó thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này tại Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

Chủ thể NQTM cần thực hiện đăng ký hoạt động NQTM với cơ quan có thẩm quyền theo Điều 18 của Nghị định 35/2006/NĐ-CP Việc đăng ký này không chỉ tạo ra tính minh bạch trong quan hệ NQTM giữa các bên tham gia mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Hình thức hợp đồng NQTM

Quy định về hình thức hợp đồng NQTM khác nhau giữa các quốc gia, với một số nước không yêu cầu hợp đồng phải được lập thành văn bản, cho phép ghi nhận bằng lời nói tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên Sự khác biệt này phản ánh nhận thức về tầm quan trọng và tính phức tạp của hợp đồng NQTM, cũng như quan điểm lý luận về hình thức hợp đồng trong pháp luật.

Theo Điều 285 của Luật Thương mại 2005, hợp đồng NQTM cần được lập bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương Hiện nay, các hình thức tương đương với văn bản bao gồm telex, fax, điện báo và thông điệp dữ liệu.

Theo Khoản 1 Điều 10 Nghị định 35/2006/NĐ-CP, hợp đồng NQTM có thể bao gồm phần chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp được lập thành một phần riêng Điều này có nghĩa là hợp đồng NQTM có thể tồn tại dưới dạng một hợp đồng thống nhất hoặc có thể kèm theo hợp đồng riêng về các đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Tuy nhiên, nếu phần hợp đồng riêng được lập thành một phần riêng, nó vẫn phải được thể hiện bằng văn bản theo quy định tại Khoản 2 Điều 141 Luật sở hữu trí tuệ 2006.

Tại Việt Nam, NQTM vẫn là một hoạt động tương đối mới và pháp luật liên quan đến nó cũng mới được ban hành, dẫn đến nhiều rủi ro và khả năng tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng Hợp đồng NQTM thể hiện rõ ràng ý chí, quyền và nghĩa vụ của các bên, vì vậy nó có giá trị chứng cứ cao và đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và chính xác.

28 TS bùi Ngọc Cường (2007), “Hoàn thiện kung pháp lý về nhượng quyền thương mại”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp(103), Tr.32-38.

Đối tượng của hợp đồng NQTM

2.4 Đối tƣợng của hợp đồng NQTM

Hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM) chủ yếu liên quan đến lợi ích mà các bên tham gia nhắm tới, cụ thể là các quyền thương mại Mặc dù Luật thương mại 2005 không định nghĩa rõ ràng về quyền thương mại, nhưng theo Điều 284 của luật này, quyền thương mại có thể hiểu là quyền sử dụng các yếu tố như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh và quảng cáo của bên nhượng quyền trong việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ Nghị định 35/2006/NĐ-CP đã quy định chi tiết hơn về quyền thương mại trong hoạt động NQTM, xác định rằng "Quyền thương mại" bao gồm một số hoặc toàn bộ các quyền liên quan đến nhượng quyền.

Quyền được BNQ cho phép và yêu cầu BNHQ tự tiến hành kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo hệ thống của BNQ, cùng với việc sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại, khẩu hiệu, biểu tượng và quảng cáo của BNQ, là những quyền thương mại cơ bản, tạo thành phần thiết yếu trong mối quan hệ NQTM.

Quyền thương mại chung được BNQ cấp cho BNHQ sơ cấp là một khái niệm mới trong pháp luật NQTM của Việt Nam Quyền này cho phép BNHQ sơ cấp cấp lại quyền thương mại cho bên thứ ba trong thời hạn được thỏa thuận giữa các bên.

BNQ thứ cấp có quyền được cấp lại cho BNHQ thứ cấp theo hợp đồng NQTM chung Quyền này cho phép BNHQ thứ cấp sử dụng các đối tượng như nhãn hiệu, tên thương mại và bí quyết kinh doanh, tất cả đều thuộc sở hữu của BNQ sơ cấp.

Quyền phát triển quyền thương mại được BNQ cấp cho BNhQ theo hợp đồng, cho phép BNhQ mở rộng các cơ sở kinh doanh trong một khu vực địa lý cụ thể và trong một thời gian xác định.

Hợp đồng NQTM có hai loại đối tượng: một là những đối tượng được pháp luật sở hữu trí tuệ bảo vệ, và hai là những đối tượng không được bảo vệ.

2.4.1 Những yếu tố cấu thành quyền thương mại được pháp luật về sở hữu trí tuệ bảo hộ

Các yếu tố quan trọng trong quyền thương mại bao gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp và bí mật kinh doanh Đây không phải là quyền thương mại đơn lẻ mà là sự kết hợp của nhiều quyền thương mại liên quan đến từng đối tượng cụ thể Do đó, nội dung hợp đồng có thể bao gồm một số hoặc tất cả các yếu tố này, tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên.

Nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa và dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau Pháp luật sở hữu trí tuệ bảo vệ nhãn hiệu, tuy nhiên, việc bảo hộ không diễn ra tự động mà cần phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Do đó trước khi thực hiện NQTM, BNQ nên đăng ký bảo hộ nhãn hiệu nhằm tránh các trường hợp bị xâm phạm

Theo Luật sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu được phân thành nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu thông thường Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam, mang lại nhiều lợi thế cho chủ sở hữu Khác với nhãn hiệu thông thường chỉ được bảo hộ trong phạm vi sản phẩm cùng loại, nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ rộng hơn, bao trùm tất cả các loại sản phẩm, dịch vụ Mọi hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng đều bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Nhãn hiệu nổi tiếng có cơ chế bảo hộ đặc biệt, không cần đăng ký với cơ quan nhà nước, nhưng việc công nhận nhãn hiệu nổi tiếng chỉ diễn ra trong từng trường hợp cụ thể Hiện tại, số lượng nhãn hiệu Việt Nam được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng rất ít, với một số ví dụ như Miliket và Petro Vietnam Các tiêu chí để công nhận nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ 2006.

Số lượng người tiêu dùng nhận biết về thương hiệu chủ yếu đến từ việc mua sắm, sử dụng sản phẩm và dịch vụ mang thương hiệu, hoặc thông qua các hoạt động quảng cáo.

- Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành

29 http://dost.danang.gov.vn/default.php?Action=news_detail&idx7

Doanh số bán hàng là tổng giá trị từ việc tiêu thụ hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, bao gồm số lượng hàng hóa đã bán và dịch vụ đã thực hiện.

- Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu

- Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu

- Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu

- Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng

- Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu

Trong số các tiêu chí đánh giá thương hiệu, một số yếu tố như mức độ nhận biết của người tiêu dùng và uy tín của sản phẩm khá trừu tượng Các chỉ số định lượng như số lượng người biết đến, số quốc gia bảo hộ và công nhận nhãn hiệu nổi tiếng không phải là con số cụ thể, gây khó khăn trong việc xác định Hiện tại, chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết, dẫn đến khả năng tùy tiện trong việc đánh giá Do đó, các chủ sở hữu nhãn hiệu nên tập trung vào việc xây dựng thương hiệu của mình theo các tiêu chí này và theo dõi các đơn đăng ký nhãn hiệu tương tự để kịp thời yêu cầu cơ quan chức năng can thiệp.

Một điểm bất hợp lý trong pháp luật Việt Nam là Luật Thương mại 2005 và Nghị định 35 không quy định về nhãn hiệu dịch vụ, mặc dù tiềm năng trong lĩnh vực này rất lớn Điều này đồng nghĩa với việc quyền sử dụng nhãn hiệu dịch vụ không được coi là một phần của hợp đồng NQTM và không nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật NQTM Hệ quả là việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu dịch vụ phải tuân theo luật sở hữu trí tuệ về chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp, gây ra những rắc rối không cần thiết cho các bên liên quan trong quan hệ NQTM Đây có thể là một thiếu sót của các cơ quan lập pháp khi xây dựng Luật Thương mại 2005, và cần được khắc phục sớm.

Tên thương mại là danh xưng mà tổ chức hoặc cá nhân sử dụng trong hoạt động kinh doanh, nhằm phân biệt mình với các chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực.

Bài viết của Nguyễn Bá Bình (2008) trong Tạp chí luật học đề cập đến việc tìm hiểu hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài từ góc độ pháp luật Việt Nam Tác giả phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến nhượng quyền thương mại, làm rõ những quy định và điều kiện cần thiết để thực hiện hợp đồng này một cách hợp pháp Nghiên cứu cũng nêu bật những thách thức và cơ hội mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi tham gia vào hoạt động nhượng quyền thương mại quốc tế.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng là nội dung cốt lõi của mọi loại hợp đồng Đặc biệt, trong các hợp đồng song vụ như hợp đồng NQTM, quyền của một bên đồng nghĩa với nghĩa vụ của bên kia Bài khóa luận này sẽ tập trung vào việc phân tích một số vấn đề cơ bản liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.

2.5.1 Vấn đề cung cấp thông tin

Pháp luật Việt Nam, giống như nhiều quốc gia khác, rất coi trọng nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ nhượng quyền thương mại (NQTM) Nghĩa vụ này phát sinh từ sự mất cân bằng thông tin giữa bên nhượng quyền (BNQ) và bên nhận quyền (BNHQ), khi BNQ thường nắm giữ nhiều thông tin hơn về hệ thống NQTM BNHQ thường có khả năng thỏa thuận hạn chế trong việc thay đổi nội dung hợp đồng mẫu, do BNQ đã đạt được thành công trong lĩnh vực nhất định và giữ vị trí ưu thế hơn Hơn nữa, việc tạo ra sự khác biệt trong hợp đồng mới so với hợp đồng cũ có thể gây xáo trộn trong hệ thống NQTM, ảnh hưởng đến quyền yêu cầu sự bình đẳng giữa các thương nhân Theo Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, nghĩa vụ cung cấp thông tin trong NQTM được chia thành hai giai đoạn rõ ràng.

2.5.1.1 Giai đoạn trước khi ký kết hợp đồng NQTM a Nghĩa vụ cung cấp thông tin của BNQ

Theo Điều 8 Nghị định 35/2006/NĐ-CP nghĩa vụ của BNQ là phải cung cấp cho BNhQ những tài liệu sau:

Bản sao hợp đồng NQTM mẫu và bản giới thiệu về NQTM là hai tài liệu quan trọng Khi quyền thương mại được xác định là quyền thương mại chung, bên dự kiến nhận quyền cần được cung cấp thông tin chi tiết, bao gồm cả nội dung trên BNQ thứ cấp, dưới hình thức văn bản.

+ Thông tin về BNQ đã cấp quyền thương mại cho mình;

+ Nội dung của hợp đồng NQTM chung;

+ Cách xử lý các hợp đồng NQTM thứ cấp trong trường hợp chấm dứt hợp đồng NQTM chung

Nghĩa vụ cung cấp thông tin phát sinh trước khi hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM) có hiệu lực, theo quy định của nhà nước, không phải do các bên thỏa thuận Sau khi nhận và xem xét tài liệu, bên nhượng quyền (BNQ) có quyền quyết định việc ký kết hợp đồng Nghĩa vụ này giúp bên dự kiến nhận quyền đánh giá chính xác hệ thống nhượng quyền, bảo vệ quyền lợi của họ Mặc dù BNQ có nghĩa vụ cung cấp thông tin, nhưng nghĩa vụ này chỉ áp dụng đối với bên dự kiến nhận quyền mà BNQ xác định Do đó, BNQ không có trách nhiệm cung cấp tài liệu cho mọi yêu cầu.

Thời hạn cung cấp tài liệu trước khi ký kết hợp đồng NQTM tại Việt Nam là ít nhất 15 ngày làm việc, trừ khi có thỏa thuận khác So với các quốc gia khác, thời gian này nằm ở mức trung bình: Nga không yêu cầu, Hàn Quốc là 5 ngày, Mỹ và Malaysia 10 ngày, trong khi Trung Quốc, Pháp và Tây Ban Nha là 20 ngày, Mexico là 30 ngày Tuy nhiên, với thời hạn 15 ngày, các bên liên quan thường gặp khó khăn trong việc có cái nhìn toàn diện và đánh giá chính xác các vấn đề trong bản giới thiệu NQTM Do đó, việc điều chỉnh thời gian này lên khoảng 20 ngày sẽ hợp lý hơn.

Theo Điều 8 Nghị định 35/2006/NĐ-CP, nghĩa vụ cung cấp thông tin được quy định, tuy nhiên có ngoại lệ nếu các bên có thỏa thuận khác.

Theo ThS Nguyễn Bá Bình (2010), trong bài viết “Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam”, việc cung cấp bản giới thiệu nhượng quyền thương mại (NQTM) không phải lúc nào cũng bị xem là vi phạm pháp luật nếu các bên có thỏa thuận phù hợp Tuy nhiên, nghĩa vụ cung cấp thông tin phải được thực hiện trước khi ký kết hợp đồng, dẫn đến câu hỏi về cách ghi nhận các thỏa thuận khác giữa các bên Nếu chỉ là thỏa thuận lời nói, việc chứng minh khi xảy ra tranh chấp sẽ gặp khó khăn Hơn nữa, mặc dù pháp luật thương mại đã quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền (BNQ) đối với bên nhận nhượng quyền (BNHQ), nhưng chế tài cho việc vi phạm nghĩa vụ này vẫn chưa được đề cập, đây là một thiếu sót cần được bổ sung trong thời gian tới.

Trong mối quan hệ giữa các bên trước khi ký hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM), bên nhượng quyền (BNQ) là chủ sở hữu hệ thống NQTM và nắm giữ nhiều thông tin quan trọng như cơ cấu, tình hình tài chính và hoạt động của hệ thống Ngược lại, bên nhận quyền thường thiếu thông tin chính thức về mô hình NQTM mà họ quan tâm BNQ không có động lực để cung cấp thông tin đầy đủ, mà có thể chỉ che giấu khuyết điểm và phóng đại ưu điểm của mình Nếu cho phép các bên tự thỏa thuận, BNQ có thể lợi dụng điều này để không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và thiếu trung thực Do đó, cần có quy định bắt buộc về việc cung cấp thông tin để giảm thiểu rủi ro cho bên nhận quyền trong quá trình ra quyết định.

Nhà nước đóng vai trò quản lý hoạt động thương mại, do đó cần có cơ chế bảo vệ quyền lợi của bên nước ngoài (BNHQ) trong các giao dịch Việc quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin trước khi ký kết hợp đồng đã chứng minh tầm quan trọng và khả năng ứng dụng của nó Do đó, để giảm thiểu rủi ro cho BNHQ, việc cho phép các bên tự thỏa thuận về nghĩa vụ cung cấp thông tin là không hợp lý và cần được loại bỏ sớm.

Khi nói đến nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ NQTM, bản giới thiệu NQTM đóng vai trò quan trọng Hầu hết các quốc gia hiện nay đều thiết lập cơ chế nhằm tạo sự cân bằng thông tin cho các bên liên quan Thông thường, pháp luật các nước quy định hai hình thức chính: cung cấp bản giới thiệu NQTM hoặc yêu cầu đăng ký thông tin cần thiết với cơ quan có thẩm quyền Theo thống kê, gần 2/3 mô hình pháp luật NQTM trên thế giới áp dụng quy định về bản giới thiệu.

34 Hồ Vĩnh Long, “ Hoạt động nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ , Tr 68

NQTM, hay Nghị định Quy chế Thương mại, đã được áp dụng tại 26 trong số 33 quốc gia có pháp luật về NQTM, cho thấy vai trò quan trọng của bản giới thiệu NQTM như công cụ chính trong việc điều chỉnh hoạt động thương mại Điều này chứng minh tính hiệu quả của việc sử dụng bản giới thiệu NQTM trong việc quản lý và điều chỉnh pháp luật thương mại.

Nội dung chính của bản giới thiệu NQTM được quy định cụ thể trong Phụ lục III của Thông tư 09/2006/TT-BTMM, bao gồm các thông tin bắt buộc mà tổ chức, cá nhân cần tuân thủ.

- Thông tin chung về BNQ;

- Thông tin về quyền sở hữu trí tuệ;

- Thông tin cụ thể về BNQ;

- Chi phí ban đầu mà BNHQ phải trả;

- Các nghĩa vụ tài chính khác của BNHQ;

- Đầu tư ban đầu của BNHQ;

- Nghĩa vụ của BNHQ phải mua hoặc thuê những thiết bị để phù hợp với hệ thống kinh doanh do BNQ quy định;

- Mô tả thị trường của hàng hóa/dịch vụ được kinh doanh theo phương thức NQTM;

- Thông tin về hệ thống nhượng quyền;

- Báo cáo tài chính của BNQ;

- Phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc tổ chức cần tham gia

Bản giới thiệu NQTM chỉ yêu cầu những thông tin cơ bản, tuy nhiên, BNQ có thể bổ sung thêm nội dung khác nếu cần thiết Ngoài ra, BNHQ cũng có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác để đảm bảo sự minh bạch trong quá trình giao dịch.

Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền (BNHQ) được quy định tại Điều 9 Nghị định 35/2006/NĐ-CP, yêu cầu bên dự kiến nhận quyền phải cung cấp thông tin hợp lý theo yêu cầu của bên dự kiến nhượng quyền Đây là quy định đặc biệt của pháp luật Việt Nam, hiện chỉ còn tồn tại ở Việt Nam và Rumani Để thiết lập mối quan hệ nhượng quyền thương mại (NQTM), bên nhượng quyền (BNQ) không chỉ cần đáp ứng tiêu chuẩn pháp luật mà còn phải có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và tư cách pháp lý Nghĩa vụ này giúp BNQ có công cụ pháp lý để thu thập thông tin và hiểu biết về đối tác.

35 ThS Nguyễn Bá Bình (2010), “Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt

Nam” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 (163) tháng 1/2010, Tr 15-21

36 ThS Nguyễn Bá Bình (2010), “Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số (2), Tr 15-21

BNHQ cần đánh giá tiềm năng trước khi ra quyết định, thể hiện tính hợp tác có lợi trong quan hệ nhượng quyền thương mại (NQTM) Pháp luật hiện chưa quy định rõ yêu cầu hợp lý trong quá trình này Trong giai đoạn chưa ký kết hợp đồng NQTM, việc tiến tới ký kết hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí các bên Hợp đồng NQTM yêu cầu bên nhượng quyền (BNQ) chia sẻ những thông tin quan trọng như nhãn hiệu, tên thương mại và bí mật kinh doanh, do đó BNQ luôn chú trọng đến tình trạng của bên nhận quyền Nếu bên nhận quyền từ chối cung cấp thông tin, BNQ sẽ tự xem xét khả năng nhượng quyền Vì vậy, nghĩa vụ cung cấp thông tin trong trường hợp này không có nhiều giá trị thực tiễn, lý do mà nhiều quốc gia không quy định hoặc loại bỏ nghĩa vụ này.

2.5.1.2 Nghĩa vụ cung cấp thông tin sau khi hợp đồng đã đƣợc ký kết

Thời hạn và việc thay đổi chấm dứt hợp đồng NQTM

2.6.1 Thời hạn của hợp đồng NQTM

Thời hạn hiệu lực của hợp đồng là khoảng thời gian từ khi hợp đồng bắt đầu có hiệu lực cho đến khi chấm dứt Thời gian này có thể ngắn hoặc dài tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên, ngoại trừ các trường hợp chấm dứt hợp đồng đơn phương hoặc theo quy định của pháp luật.

Pháp luật về hợp đồng NQTM ở một số quốc gia như Mỹ và Trung Quốc quy định thời hạn tối thiểu lần lượt là ba và năm năm, nhằm đảm bảo thời gian cho BNHQ thu hồi vốn từ các khoản đầu tư lớn Trong khi đó, pháp luật Việt Nam không quy định thời gian tối thiểu cho hợp đồng NQTM, mà để các bên tự thỏa thuận Điều này phản ánh thực trạng hoạt động NQTM tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực dịch vụ và thực phẩm, nơi thời gian thu hồi vốn không cần kéo dài.

2.6.2 Chấm dứt hợp đồng NQTM

Chấm dứt hợp đồng NQTM là sự kiện pháp lý giúp các bên không còn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng Có hai loại chấm dứt hợp đồng NQTM: chấm dứt thông thường, xảy ra khi hết thời hạn hợp đồng mà không có thỏa thuận gia hạn, và chấm dứt bất thường Các sự kiện pháp lý dẫn đến chấm dứt hợp đồng bất thường được quy định tại Điều 16 Nghị định 35/2006/NĐ-CP.

- BNHQ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng NQTM trong trường hợp BNQ vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 287 của Luật Thương mại

- BNQ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng NQTM trong các trường hợp sau đây:

BNHQ đã mất giấy phép kinh doanh hoặc các giấy tờ tương đương cần thiết, điều này vi phạm quy định pháp luật yêu cầu BNHQ phải có để thực hiện hoạt động kinh doanh theo hình thức NQTM.

+ BNHQ bị giải thể hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam

+ BNHQ vi phạm pháp luật nghiêm trọng có khả năng gây thiệt hại lớn cho uy tín của hệ thống NQTM

BNHQ đã không thực hiện việc khắc phục các vi phạm không cơ bản trong hợp đồng NQTM trong khoảng thời gian hợp lý, mặc dù đã nhận được thông báo bằng văn bản yêu cầu khắc phục từ BNQ.

Trong pháp luật Việt Nam, quy định về chấm dứt hợp đồng NQTM vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, đặc biệt là trường hợp chấm dứt hợp đồng khi một bên là cá nhân qua đời Hiện tại, các chủ thể tham gia vào quan hệ NQTM không chỉ bao gồm tổ chức mà còn có cả cá nhân kinh doanh.

Theo Vũ Đặng Hải Yến (2008), luận án tiến sĩ của tác giả đã chỉ ra những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Đặc biệt, Điều 16 Nghị định 35/2006/NĐ-CP chỉ quy định về việc chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trong trường hợp các chủ thể bị phá sản hoặc giải thể.

Khi so sánh các điều kiện chấm dứt hợp đồng NQTM, điều kiện của BNHQ dễ hơn nhiều so với BNQ BNHQ có thể chấm dứt hợp đồng vì bất kỳ vi phạm nào từ phía BNQ, trong khi BNQ chỉ có thể chấm dứt khi có vi phạm nghiêm trọng hoặc vi phạm không cơ bản nhưng không khắc phục trong thời gian hợp lý Quy định lỏng lẻo này có thể dẫn đến việc BNHQ lợi dụng để chấm dứt hợp đồng, ảnh hưởng đến lợi ích của BNQ Do đó, cần phân chia các vi phạm của BNQ theo tính chất và mức độ để có biện pháp thích hợp, tránh việc mọi vi phạm đều dẫn đến chấm dứt hợp đồng như quy định tại Điều 16 Nghị định 35/2006/NĐ-CP Hơn nữa, các khái niệm như “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”, “gây thiệt hại lớn”, “vi phạm không cơ bản” và việc xử lý hậu quả chấm dứt hợp đồng NQTM vẫn chưa được pháp luật hướng dẫn cụ thể, cần có sự thống nhất trong áp dụng pháp luật.

Những vấn đề khác liên quan tới quan hệ NQTM

2.7.1 Vấn đề trách nhiệm sản phẩm của các bên trong quan hệ với người tiêu dùng

Pháp luật thương mại Việt Nam và luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa có quy định cụ thể cho trường hợp NQTM Tuy nhiên, dựa trên bản chất mối quan hệ giữa BNHQ và BNQ, các thương nhân trong quan hệ NQTM là những chủ thể độc lập về pháp lý và tài chính, tự chịu trách nhiệm cho sản phẩm của mình Do đó, không có mối liên hệ trách nhiệm giữa các bên với chủ thể thứ ba Tuy nhiên, từ góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cần lưu ý một số vấn đề quan trọng.

BNHQ sản xuất hàng hóa nhưng tiêu chuẩn kỹ thuật và thành phần do BNQ quyết định BNQ thường xuyên kiểm tra giám sát để đảm bảo BNHQ tuân thủ các quy định trong hợp đồng và sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng Do đó, những hướng dẫn và yêu cầu từ BNQ có thể là nguyên nhân gây thiệt hại cho khách hàng Khi sản phẩm của các cửa hàng NQTM xâm hại đến bên thứ ba, BNQ cũng phải chịu trách nhiệm.

Khi khách hàng chọn đến cửa hàng NQTM, họ thường không biết mình đang giao dịch với BNQ hay BNHQ Họ thường đến vì thương hiệu và nhãn hiệu sản phẩm của BNQ, chứ không phải vì chủ sở hữu thực sự của cửa hàng.

Việc quy định trách nhiệm sản phẩm thuộc về bên nào đã tạo ra khó khăn cho người tiêu dùng trong việc đòi quyền lợi hợp pháp, do bên cung cấp thường có khả năng tài chính tốt hơn và khả năng giải quyết yêu cầu nhanh chóng hơn Điều này dẫn đến sự cần thiết của trách nhiệm liên đới giữa các bên, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng hiệu quả hơn, đặc biệt trong trường hợp các cửa hàng nhỏ với nguồn lực hạn chế.

Trong quan hệ nhượng quyền thương mại (NQTM), có nhiều loại hình khác nhau, do đó, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm cần quy định mối liên hệ trách nhiệm phù hợp với từng loại hình NQTM Ví dụ, trong trường hợp NQTM sản xuất, trách nhiệm sản phẩm nên được đặt nặng lên bên nhượng quyền hợp pháp (BNHQ) Ngược lại, trong trường hợp nhượng quyền phân phối, cần xem xét kỹ lưỡng, bởi vì BNHQ chỉ tham gia vào công đoạn phân phối sản phẩm, trong khi việc sản xuất và chất lượng sản phẩm lại do bên nhượng quyền (BNQ) quyết định.

2.7.2 Mối quan hệ giữa BNQ sơ cấp và BNHQ thứ cấp

Trong trường hợp BNHQ thực hiện NQTM cho bên thứ ba, sẽ tồn tại hai hợp đồng NQTM: hợp đồng NQTM sơ cấp và hợp đồng NQTM thứ cấp BNHQ sơ cấp đóng vai trò là BNQ trong quan hệ NQTM thứ cấp, trong khi BNHQ thứ cấp có nghĩa vụ tương tự như BNHQ sơ cấp Mặc dù không có mối quan hệ hợp đồng trực tiếp giữa BNQ sơ cấp và BNHQ thứ cấp, nhưng việc BNHQ thứ cấp sử dụng quyền thương mại của BNQ sơ cấp tạo ra sự liên kết lợi ích giữa các bên Hành vi của bất kỳ BNHQ nào cũng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của BNQ sơ cấp Do không có hợp đồng ràng buộc và quy phạm chính thức điều chỉnh mối quan hệ này, BNQ sơ cấp chỉ có thể điều chỉnh hành vi của BNHQ thứ cấp một cách gián tiếp Cơ chế hai hợp đồng này gây khó khăn cho BNQ sơ cấp trong việc tự bảo vệ quyền lợi Nếu các BNHQ bao che cho nhau, BNQ sẽ khó phát hiện và xử lý Để bảo vệ quyền lợi, BNQ cần có các công cụ pháp lý phù hợp, và việc quy định độc lập các hợp đồng NQTM là cần thiết để đơn giản hóa các quan hệ NQTM.

Khoản 2 Điều 290 của Luật Thương mại 2005 mặc dù có nội dung phức tạp, nhưng việc không đề cập đến mối liên hệ giữa bên nguyên chủ (BNQ) sơ cấp và bên nguyên chủ (BNHQ) thứ cấp là điều chưa hợp lý.

Để bảo vệ quyền lợi của mình trong bối cảnh pháp luật chưa có công cụ điều chỉnh mối quan hệ nhượng quyền, BNQ sơ cấp cần chủ động thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng nhượng quyền sơ cấp Các vấn đề quan trọng cần được đưa vào hợp đồng bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên, điều kiện chấm dứt hợp đồng, và cơ chế giải quyết tranh chấp.

- Việc bảo lưu việc lựa chọn các BNHQ thứ cấp, tức là BNQ vẫn giữ lại quyền đồng ý hoặc không đồng ý đối với việc lụa chọn BNHQ thứ cấp

- Các quy định cụ thể về quản lý giám sát BNHQ thứ cấp

Các quy định về trách nhiệm đối với Bệnh nhân Quản lý (BNQ) sơ cấp rất quan trọng trong việc lựa chọn Bệnh nhân Quản lý thứ cấp (BNHQ) và điều hành hệ thống nhượng quyền Việc tuân thủ các quy định này giúp đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch trong quá trình quản lý, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan Hệ thống nhượng quyền cần được vận hành một cách chặt chẽ để tránh phát sinh vấn đề trong việc lựa chọn BNHQ thứ cấp, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của bệnh nhân.

2.8 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật NQTM của Việt Nam Được công nhận là đã có những tiến bộ trong thời gian qua nhưng không thể phủ nhận hệ thống pháp luật về NQTM của Việt Nam còn quá sơ sài, các quy định của pháp luật điều chỉnh khá đầy đủ các khía cạnh của NQTM nhưng nội dung lại rất chung chung chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế Với chỉ 8 điều trong Luật thương mại

Nghị định 35/2006/NĐ-CP và Thông tư 09 không thể giải quyết hết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực NQTM, đồng thời cũng tồn tại nhiều bất cập và mâu thuẫn trong quy định hiện hành Mặc dù hoạt động NQTM ở Việt Nam còn mới, việc nhận thức đúng về tầm quan trọng của nó là một bước tiến đáng ghi nhận trong pháp luật Việt Nam Để thúc đẩy sự phát triển của NQTM trong tương lai, cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, đặc biệt là bổ sung các quy phạm pháp luật thích hợp Dưới đây là một số hướng giải pháp nhằm cải thiện hệ thống pháp luật NQTM tại Việt Nam.

2.8.1 Hoàn thiện khái niệm về NQTM và đối tƣợng của hợp đồng NQTM theo pháp luật thương mại

Khái niệm NQTM trong pháp luật Việt Nam đã phản ánh đúng bản chất của nó, tuy nhiên vẫn tồn tại một số khuyết điểm Để hoàn thiện hơn, cần xây dựng một khái niệm NQTM cân bằng giữa các bên, đồng thời khắc phục những thiếu sót hiện có Việc quy định nghĩa vụ về phí sẽ góp phần tạo ra tác động tích cực đối với toàn bộ hệ thống pháp luật NQTM.

Khái niệm quyền thương mại, mặc dù đã được đề cập, nhưng chưa được giải thích một cách cụ thể Các thuật ngữ như "thương mại chung" cũng cần được làm rõ hơn để hiểu rõ hơn về nội dung này.

“Nhượng quyền phát triển quyền thương mại” là thuật ngữ mới, nhưng Luật thương mại và Nghị định 35/2006/NĐ-CP chỉ đưa ra khái niệm mà chưa phân tích rõ ràng Các quy định về yếu tố cấu thành quyền thương mại trong pháp luật Việt Nam còn thiếu sót, đặc biệt là cần bổ sung “nhãn hiệu dịch vụ” vào các đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM) Khoản 6 Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP không đề cập đến nhãn hiệu dịch vụ, mặc dù NQTM trong lĩnh vực này đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia Tại các nước có hoạt động NQTM phát triển, dịch vụ như kế toán và kiểm toán mang lại doanh thu cao cho các bên tham gia, trong khi tại Việt Nam, NQTM trong các lĩnh vực này vẫn chưa phát triển Việc bổ sung nhãn hiệu dịch vụ vào các đối tượng của hoạt động NQTM sẽ thúc đẩy sự phát triển của NQTM trong các lĩnh vực này.

2.8.2 Pháp luật dân sự, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ trong việc điều chỉnh hoạt động NQTM

Theo Mục 2.1, hiện nay, nguồn luật điều chỉnh hoạt động NQTM chưa thống nhất và thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, dẫn đến sự không đồng nhất và thậm chí mâu thuẫn trong các quy định về NQTM, như vấn đề bản chất NQTM giữa Luật thương mại 2005 và Bộ luật dân sự Để khắc phục tình trạng này, cần sớm loại bỏ sự không thống nhất giữa các văn bản luật, và tác giả đề xuất một số giải pháp trong luận văn.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
9. Andrew J. Sherman (2008), “Nhượng quyền thương mại và cấp Li-xăng hai phương thức tăng trưởng hiệu quả bất chấp những biến động của nền kinh tế”, Nxb Lao động xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Nhượng quyền thương mại và cấp Li-xăng hai phương thức tăng trưởng hiệu quả bất chấp những biến động của nền kinh tế
Tác giả: Andrew J. Sherman
Nhà XB: Nxb Lao động xã hội
Năm: 2008
10. ThS Nguyễn Bá Bình (2008), “Bước đầu tìm hiểu hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dưới giác độ pháp luật Việt Nam “ - Tạp chí luật học (5), tr 9-15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bước đầu tìm hiểu hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài dưới giác độ pháp luật Việt Nam “ - "Tạp chí luật học
Tác giả: ThS Nguyễn Bá Bình
Năm: 2008
11. ThS Nguyễn Bá Bình (2010), “Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2), tr 15-21 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản giới thiệu nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: ThS Nguyễn Bá Bình
Năm: 2010
12. ThS Nguyễn Bá Bình (2006), “Nhượng quyền thương mại - Bản chất và mối quan hệ với hoạt động chuyển giao công nghệ, hoạt động li-xăng!”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (02), tr. 21-26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhượng quyền thương mại - Bản chất và mối quan hệ với hoạt động chuyển giao công nghệ, hoạt động li-xăng!”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: ThS Nguyễn Bá Bình
Năm: 2006
13. TS bùi Ngọc Cường (2007), “Hoàn thiện kung pháp lý về nhượng quyền thương mại”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp(103), tr.32-38 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện kung pháp lý về nhượng quyền thương mại
Tác giả: TS bùi Ngọc Cường
Năm: 2007
14. TS Nguyễn Thị Dung (2008) – “pháp luật hợp đồng trong thương mại và đầu tư”, Nxb Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: pháp luật hợp đồng trong thương mại và đầu tư
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
15. Nguyễn Thanh Hương (2007) “nhượng quyền thương hiệu đôi điều suy nghĩ”, tạp chí phát triển kinh tế (202), tr.6-8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: nhượng quyền thương hiệu đôi điều suy nghĩ”
16. Hồ Vĩnh Long(2006), “Hoạt động nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ, Đại Học Luật TpHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hoạt động nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam”
Tác giả: Hồ Vĩnh Long
Năm: 2006
17. PGS–TS Nguyễn Văn Luyện – TS. Lê Thị Bích Thọ – TS. Dương Anh Sơn (2006), ”Giáo Trình Luật Hợp đồng Thương Mại Quốc Tế”, Nxb Đại Học Quốc Gia TpHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo Trình Luật Hợp đồng Thương Mại Quốc Tế”
Tác giả: PGS–TS Nguyễn Văn Luyện – TS. Lê Thị Bích Thọ – TS. Dương Anh Sơn
Nhà XB: Nxb Đại Học Quốc Gia TpHCM
Năm: 2006
19. Lý Quý Trung (2005), “Franchise – bí quyết thành công bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh”, NXB Trẻ, Hà Nội, năm 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Franchise – bí quyết thành công bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh”
Tác giả: Lý Quý Trung
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2005
20. TS Lý Quý Trung (2006), “francise bí quyết thành công bằng mô hình NQTM”, Nxb Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: “francise bí quyết thành công bằng mô hình NQTM”
Tác giả: TS Lý Quý Trung
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2006
21. Nguyễn Khánh Trung, “Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam – giải pháp nào cho sự phát triển bền vững”, thời báo kinh tế Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam – giải pháp nào cho sự phát triển bền vững”
22. ThS Vũ Đăng Hải Yến (2005), “Nhượng quyền thương mại – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí luật học (3), tr. 46 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhượng quyền thương mại – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, "Tạp chí luật học
Tác giả: ThS Vũ Đăng Hải Yến
Năm: 2005
23. ThS. Vũ Đặng Hải Yến (2008), “Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của hợp đồng NQTM”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (4), tr. 41-45 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của hợp đồng NQTM”, "Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Tác giả: ThS. Vũ Đặng Hải Yến
Năm: 2008
24. ThS Vũ Đặng Hải Yến (2008) – “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”
1. Luật thương mại 2005 2. Bộ luật dân sự 2005 3. Luật sở hữu trí tuệ 2006 Khác
5. Nghị định 35/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại Khác
6. Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại Khác
8. Thông tư số 1254/1999/TT – BKHCNMT của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn chi tiết thi hành nghị định của Chính phủ số 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ Khác
18. TS Nguyễn Thanh Tâm (2006) – Quyền sở hữu công nghiêp trong hoạt động thương mại – Nxb Tư Pháp Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w