KHÁI QUÁT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG, SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG
Khái niệm về ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường
1.1.1 Ô nhiễm môi trường Ô nhiễm, theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, đó là
Ô nhiễm môi trường (ONMT) được định nghĩa theo Khoản 8, Điều 3 của Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật Các quy chuẩn và tiêu chuẩn này bao gồm mức giới hạn về chất lượng môi trường và hàm lượng chất ô nhiễm trong chất thải, được ban hành bởi cơ quan nhà nước hoặc tổ chức có thẩm quyền Môi trường được coi là ô nhiễm khi có sự biến đổi các thành phần môi trường, sự thay đổi này không đáp ứng các quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường, và nó tác động tiêu cực đến cuộc sống của con người cũng như các loài sinh vật khác.
Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường tự nhiên (ONMT) khác nhau tùy thuộc vào loại hình ô nhiễm, nhưng chủ yếu là do các chất ô nhiễm mà con người thải ra trong nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt ONMT thường xảy ra đột ngột và dễ nhận biết hơn so với ô nhiễm môi trường sống (STMT), khi chỉ cần sự biến đổi của các thành phần môi trường không đạt tiêu chuẩn là có thể xác định được ô nhiễm, mà không cần chờ đến sự suy giảm chất lượng môi trường như trong trường hợp STMT.
Về vấn đề này, pháp luật Nhật Bản đã có định nghĩa về ô nhiễm ở khoản 3 Điều
Hai Luật Môi trường cơ bản quy định rằng những hành vi gây hại cho môi trường có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và đời sống của con người Việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của cơ quan chức năng mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong xã hội.
5 Ngôn ngữ Việt Nam (2013), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, tr 726
6 Khoản 5, 6 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường
Pháp luật Nhật Bản định nghĩa "Công hại" là những vụ ONMT lớn, gây thiệt hại cho nhiều người và thường là những vụ án phức tạp Những vụ án này đòi hỏi trình độ khoa học – kỹ thuật nhất định để có thể đưa ra phán xét chính xác Tác giả nhận thấy đây là thuật ngữ gần gũi nhất với khái niệm ONMT ở Việt Nam.
Ô nhiễm không khí, nước, đất, tiếng ồn, độ rung, lún đất và mùi hôi là những vấn đề nghiêm trọng do hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác của con người gây ra, ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường sống của con người.
So sánh giữa các định nghĩa về ô nhiễm môi trường (ONMT) ở Việt Nam và Nhật Bản cho thấy, Việt Nam tập trung vào khái niệm tổng quát, nhấn mạnh sự thay đổi tiêu cực của môi trường và tác động xấu đến đời sống con người Ngược lại, pháp luật Nhật Bản liệt kê rõ ràng các loại ô nhiễm chủ yếu, được coi là ô nhiễm điển hình, trong đó có những loại còn mới mẻ ở Việt Nam Mặc dù việc liệt kê có thể dẫn đến thiếu sót, nhưng định nghĩa của luật Nhật Bản được đánh giá là trực diện và dễ áp dụng hơn so với định nghĩa trong luật Việt Nam.
Khái niệm Suy thoái môi trường (STMT) được quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường, mô tả sự suy giảm chất lượng và số lượng của các thành phần môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến con người và sinh vật Nguyên nhân chính của STMT là do khai thác quá mức và sử dụng các công cụ hủy diệt, như đánh bắt cá bằng kích điện, dẫn đến việc phá hủy tài nguyên thiên nhiên vượt quá khả năng tái tạo của môi trường Biểu hiện của STMT bao gồm: chất lượng các yếu tố môi trường giảm so với tiêu chuẩn, lượng tài nguyên khai thác vượt quá khả năng phục hồi, và lượng chất thải thải ra nhiều hơn khả năng tự làm sạch của môi trường.
8 環境基本法 (Luật Môi trường cơ bản), http://law.e-gov.go.jp/htmldata/H05/H05HO091.html, truy cập ngày
9 Nguyên văn “典型公害”
Otsuka Tadashi (2010), 環境法 (Luật Môi trường), NXB 有斐閣 , tr 28
10 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật môi trường, NXB Công An Nhân Dân, tr.66
Đỗ Thị Sương (2009) trong khóa luận tốt nghiệp tại Trường Đại học Luật Tp HCM đã nghiên cứu về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và các sự cố môi trường Bài viết phân tích thực trạng hiện nay và đề xuất hướng hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả bồi thường trong lĩnh vực này.
Theo Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam, sự suy giảm tính năng và tính hữu ích của môi trường được phân loại thành ba mức độ: có suy giảm, suy giảm nghiêm trọng và suy giảm rất nghiêm trọng Việc xác định mức độ này phụ thuộc vào độ khan hiếm của các thành phần môi trường và số lượng các thành phần bị khai thác, phá hủy so với trữ lượng còn lại Để một hành vi được coi là gây Suy thoái Môi trường (STMT), ngoài việc có sự suy giảm, còn cần phải có ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật Do đó, một thành phần môi trường phải thỏa mãn cả hai điều kiện: có sự suy giảm và sự suy giảm đó gây ảnh hưởng tiêu cực mới được xem là STMT.
1.1.3 Mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường
Hai khái niệm này có mối quan hệ mật thiết với nhau
STMT là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến ONMT, khi sự suy giảm số lượng và chất lượng các thành phần môi trường vượt quá tiêu chuẩn, gây ảnh hưởng tiêu cực đến con người và sinh vật Tình trạng chặt cây, phá rừng hiện nay đang làm suy thoái rừng, trong khi rừng có khả năng giảm thiểu các chất khí độc hại như CO, CO2, SO2 và làm sạch không khí Cụ thể, 1ha rừng có thể hấp thụ khoảng 8kg H2CO3 trong 1 giờ, tương đương với lượng CO2 mà 200 người thải ra trong 1 ngày Nếu số lượng cây xanh giảm và rừng bị suy thoái, môi trường không khí sẽ bị ô nhiễm, gây tác hại lớn đến sức khỏe và cuộc sống con người.
Sự biến đổi các thành phần môi trường do ONMT có thể dẫn đến STMT, gây suy giảm số lượng và chất lượng môi trường Ví dụ, việc xả thải chất chưa qua xử lý từ một số doanh nghiệp đã làm ô nhiễm nguồn nước, dẫn đến cái chết hàng loạt của các loài sinh vật Cụ thể, nước thải chứa xyanua, thường dùng trong ngành công nghiệp gang thép, với nồng độ từ 5 đến 7,2 μg/l có thể làm giảm khả năng bơi lội và ức chế quá trình sinh sản của nhiều loài cá.
12 Điều 165 Xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
1 Sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gồm các mức độ sau: a) Có suy giảm; b) Suy giảm nghiêm trọng; c) Suy giảm đặc biệt nghiêm trọng
13 Nguyễn Văn Thêm (2008), Bài giảng Rừng và môi trường, Trường Đại học Bình Dương, tr 43
Nồng độ 76 μg/l có thể gây chết cho một số loài sinh vật biển, trong khi mức tăng lên 200 μg/l sẽ tạo ra độc tố mạnh, có khả năng tiêu diệt hầu hết các loại cá Điều này dẫn đến suy thoái diện rộng và giảm thiểu sự đa dạng sinh học trong môi trường nước ở khu vực đó.
Theo tác giả, STMT (suy thoái môi trường) nguy hiểm hơn ONMT (ô nhiễm môi trường) vì STMT diễn ra từ từ và khó nhận thức hơn, dẫn đến mức độ nghiêm trọng cao hơn và khả năng phục hồi khó khăn hơn Ví dụ, nếu doanh nghiệp phát hiện và xử lý ô nhiễm xyanua ngay từ giai đoạn đầu, chất độc sẽ chưa tích tụ nhiều và sinh vật biển chưa bị ảnh hưởng nghiêm trọng Ngược lại, khi đã đến giai đoạn STMT, việc loại bỏ chất độc hại và phục hồi hệ sinh thái sẽ tốn rất nhiều năm.
Môi trường được định nghĩa là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo, đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật Theo Luật Bảo vệ Môi trường 2014, các yếu tố tự nhiên như không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, và các hệ sinh thái đều tác động đến đời sống Những yếu tố này hình thành khách quan và chịu ảnh hưởng từ hoạt động của con người Ngược lại, các yếu tố nhân tạo như khu công nghiệp, khu dân cư, và phương tiện giao thông cũng ảnh hưởng đến môi trường sống Tất cả các yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ và ảnh hưởng lẫn nhau trong việc duy trì sự sống.
Khái niệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, bồi thường thiệt hại được định nghĩa là trách nhiệm dân sự, yêu cầu bên gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng việc đền bù tổn thất vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại Điều này cho thấy bồi thường thiệt hại là hệ quả tiêu cực của hành vi gây thiệt hại.
Chất thải từ các nhà máy luyện gang thép là một vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người Việc quản lý và xử lý chất thải này cần được chú trọng để giảm thiểu tác động tiêu cực Các biện pháp hiệu quả có thể bao gồm tái chế và xử lý chất thải một cách an toàn Cần có sự hợp tác giữa các cơ quan chức năng và doanh nghiệp để đảm bảo rằng quy trình sản xuất không gây hại cho môi trường.
15 Bộ Tư pháp – Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp – NXB Từ điển Bách Khoa, tr
Các hành vi gây thiệt hại xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác sẽ dẫn đến trách nhiệm bồi thường cho bên bị thiệt hại, theo các mức độ và tiêu chí được quy định trong pháp luật.
Theo khoản 3 Điều 161 Luật Bảo vệ Môi trường 2014, tranh chấp môi trường sẽ được giải quyết theo hình thức tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng Điều 602 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường gây ra được xem là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của môi trường và ảnh hưởng lâu dài của thiệt hại môi trường, bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực này có những đặc trưng riêng biệt so với các loại bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác Tác giả sẽ phân tích bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường thông qua bốn yếu tố của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.2.1 Hành vi gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường là hành vi trái pháp luật
Quyền bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và tài sản là quyền lợi hợp pháp của công dân, được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ Mọi cá nhân và tổ chức đều có trách nhiệm tôn trọng các quyền này, và nếu có hành vi xâm phạm gây thiệt hại, họ sẽ phải bồi thường Hành vi xâm phạm pháp luật có thể là hành động hoặc sự không hành động, bao gồm cả việc vi phạm các quy định cấm của pháp luật Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, các hành vi trái pháp luật thường liên quan đến việc phá hoại và khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên, vận chuyển và chôn lấp chất độc hại không đúng quy trình, cũng như thải chất thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường vào đất, nước và không khí, theo quy định tại Điều 7 Luật Bảo vệ môi trường 2014.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường là một hình thức trách nhiệm ngoài hợp đồng, liên quan đến việc vi phạm các nghĩa vụ pháp lý Hành vi trái pháp luật trong trường hợp này không chỉ đơn thuần là vi phạm hợp đồng, mà còn là sự vi phạm các nghĩa vụ xã hội và đạo đức thông thường.
1.2.2 Thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường
Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, thiệt hại được định nghĩa là
“tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” 16
Thiệt hại trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về môi trường được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP Thiệt hại bao gồm cả thiệt hại vật chất và tinh thần Thiệt hại vật chất là tổn thất thực tế có thể xác định, bao gồm tổn thất tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại, cùng với thu nhập thực tế bị mất Người bị thiệt hại cần chứng minh thiệt hại của mình bằng hóa đơn hoặc giấy tờ liên quan Thiệt hại tinh thần liên quan đến đau thương và mất mát do hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự của cá nhân hoặc tổ chức Mức bồi thường cho thiệt hại tinh thần sẽ dựa vào mức độ tổn thất, không vượt quá mức quy định của Nhà nước, tối đa là 60 tháng lương tối thiểu.
Ngoài pháp luật dân sự, thiệt hại do ô nhiễm môi trường (ONMT) và sự thay đổi môi trường tự nhiên (STMT) còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật môi trường Theo Điều 162 Luật Bảo vệ Môi trường 2014, thiệt hại do ONMT và STMT được phân thành hai loại Thứ nhất, thiệt hại liên quan đến sự suy giảm tính năng và tính hữu ích của môi trường, được hiểu là sự không nguyên vẹn của môi trường sau khi bị tác động từ bên ngoài Nguyên nhân chủ yếu là do hành vi con người vượt quá khả năng tái sinh của môi trường, dẫn đến sự suy giảm các tính năng của môi trường Ví dụ, một vụ xả thải ra biển có thể gây chết hàng loạt cá và san hô, làm ảnh hưởng đến chức năng của môi trường như không gian sống của sinh vật, dẫn đến tình trạng suy giảm tính năng và tính hữu ích của môi trường.
Sự suy giảm môi trường có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng con người, tài sản và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân Chẳng hạn, ô nhiễm nước biển dẫn đến cái chết hàng loạt của cá và san hô, làm gia tăng nguy cơ về sức khỏe và tính mạng cho con người do sự hiện diện của các chất độc trong nước.
16 Bộ Tư pháp – Viện Khoa học Pháp lý (2006), tlđd(15), tr 713
17 Bùi Kim Hiếu (2016), tlđd (4), tr 26
Vụ ô nhiễm Kumamoto Minamata ở Nhật Bản do công ty Chisso thải thủy ngân hữu cơ đã gây ra bệnh Minamata, với triệu chứng co giật, khó ăn, khó nói, và có thể dẫn đến tử vong, đặc biệt nguy hiểm cho thai nhi Thiệt hại không chỉ về sức khỏe mà còn về tài chính, bao gồm mất thu nhập, chi phí chăm sóc và mai táng Ngành thủy sản bị ảnh hưởng nặng nề do cá nhiễm độc, dẫn đến giảm năng suất đánh bắt và mất thu nhập cho ngư dân Hơn nữa, ô nhiễm môi trường có thể dẫn đến những thiệt hại tiềm tàng trong nhiều năm sau, cũng như gây ra các sự cố môi trường nghiêm trọng khác Hành vi gây ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng đến một khu vực mà còn có thể lan rộng ra nhiều tỉnh, như vụ Formosa đã chứng minh Cuối cùng, thiệt hại do ô nhiễm môi trường tác động trực tiếp đến sức khỏe con người và các loài sinh vật khác, khác với thiệt hại ngoài hợp đồng, khi mà hành vi gây hại tác động trực tiếp đến môi trường trước tiên.
18 “Căn bệnh Minamata – Nỗi đau dai dẳng 60 năm”, http://phunuonline.com.vn/the-gioi/can-benh-minamata noi-dau-dai-dang-60-nam-73737/ , truy cập ngày 19/5/2017
1.2.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và thiệt hại
Để xác định trách nhiệm bồi thường trong trường hợp ô nhiễm, cần chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm và thiệt hại xảy ra Điều này có nghĩa là thiệt hại phải là kết quả trực tiếp của hành vi trái pháp luật Nguyên nhân là yếu tố xảy ra trước và dẫn đến kết quả, trong khi thiệt hại có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau Do đó, việc chỉ chứng minh hành vi gây ô nhiễm mà không chỉ ra được mối liên hệ với thiệt hại là chưa đủ.
Để yêu cầu bồi thường "đúng người đúng tội", cần xác định mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây ô nhiễm Nếu hành vi ô nhiễm là nguyên nhân chính của thiệt hại, thì có thể khẳng định rằng chúng có mối liên hệ nhân quả Đây là yếu tố quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường; nếu không chứng minh được mối quan hệ này, các chủ thể bị thiệt hại sẽ không thể yêu cầu bồi thường Pháp luật Việt Nam đã quy định vấn đề này, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn trong việc xác định nguyên nhân và hậu quả, đòi hỏi phải xem xét một cách khoa học và logic, đặc biệt trong các vụ án ô nhiễm môi trường, nơi cần trình độ khoa học – kỹ thuật cao Những vướng mắc này sẽ được làm rõ hơn ở phần 2.
1.2.4 Lỗi của chủ thể gây ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường
Lỗi là yếu tố chủ quan phản ánh trạng thái tâm lý của người gây thiệt hại, liên quan đến nhận thức về hành vi của họ và mức độ chống đối xã hội Theo pháp luật dân sự Việt Nam, lỗi được phân loại thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý Lỗi cố ý xảy ra khi người gây thiệt hại nhận thức rõ về hành vi và các hậu quả đi kèm.
Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cung cấp hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Nội dung nghị quyết tập trung vào các nguyên tắc và điều kiện để xác định trách nhiệm bồi thường, nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Việc áp dụng nghị quyết này giúp thống nhất cách hiểu và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
21 Điều 364 Lỗi trong trách nhiệm dân sự
Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý
Lỗi vô ý được chia thành hai loại chính Thứ nhất, đó là trường hợp một người không nhận thức được hậu quả từ hành vi của mình, mặc dù họ có nghĩa vụ hoặc khả năng để biết Thứ hai, là khi một người nhận thấy khả năng gây thiệt hại từ hành vi của mình nhưng lại cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra, hoặc nếu có, họ vẫn có thể ngăn chặn được, nhưng thực tế thiệt hại đã xảy ra và họ không thể ngăn chặn được.
Các nguyên tắc tiến hành yêu cầu bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra
1.3.1 Nguyên tắc con người được quyền sống trong môi trường trong lành
Quyền được sống trong môi trường trong lành được công nhận trong Tuyên bố Stockholm và Tuyên bố Rio De Janeiro, nhấn mạnh rằng con người là trung tâm của sự phát triển bền vững và có quyền hưởng cuộc sống khỏe mạnh hòa hợp với thiên nhiên Mọi hoạt động đe dọa sự sống còn của con người đều trái với pháp luật quốc tế Tại Việt Nam, mặc dù quyền này chưa được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trước đây, nhưng quá trình công nghiệp hóa đã gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường, dẫn đến nhu cầu cấp thiết về bảo vệ môi trường Luật Bảo vệ Môi trường 1993 đã ghi nhận quyền này nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, và Hiến pháp 2013 đã xác định quyền sống trong môi trường trong lành là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Tuyên bố của Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển bền vững Tài liệu này khuyến khích các quốc gia hợp tác để giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu, đồng thời khẳng định rằng phát triển kinh tế không thể tách rời khỏi việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên Để đạt được mục tiêu này, các chính sách cần được xây dựng dựa trên sự công bằng xã hội và phát huy vai trò của cộng đồng trong việc quản lý và bảo vệ môi trường Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy tại trang web của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam.
Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường
15 Ở Việt Nam, nội dung của quyền được sống trong môi trường trong lành bao gồm các nội dung sau 25 :
Quyền được sống trong môi trường trong lành, không ô nhiễm là một yếu tố thiết yếu cho sức khỏe và chất lượng cuộc sống của con người Môi trường trong lành không chỉ bao gồm không khí sạch mà còn liên quan đến thực phẩm an toàn và vệ sinh Để đảm bảo điều này, Nhà nước cần có trách nhiệm giám sát và bảo vệ môi trường thông qua pháp luật, cũng như áp dụng các biện pháp xử lý đối với những hành vi vi phạm.
Quyền trợ giúp trong trường hợp thảm hoạ tự nhiên và thảm hoạ do con người gây ra là rất quan trọng, vì cả hai loại thảm hoạ này đều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và đời sống của người dân Hằng năm, chúng ta chứng kiến những thiệt hại từ bão lũ miền Trung, đòi hỏi sự can thiệp kịp thời từ các tổ chức, cá nhân và cơ quan Nhà nước Những biện pháp trợ giúp thích hợp sẽ giúp nạn nhân vượt qua khó khăn, tái thiết cuộc sống và đảm bảo môi trường trong lành cho cộng đồng.
Quyền tiếp cận thông tin liên quan đến môi trường, được ghi nhận trong Nguyên tắc 10 của Tuyên bố Rio de Janeiro, khẳng định rằng công dân có quyền nhận thông tin môi trường từ các cơ quan chức năng Quyền này bao gồm thông tin về nguyên liệu và hoạt động nguy hiểm trong cộng đồng, cũng như cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định Việc đảm bảo quyền này giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin môi trường một cách minh bạch, từ đó nâng cao khả năng giám sát các chủ thể liên quan và thúc đẩy hành động bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm.
Bài viết "Quyền được sống trong môi trường trong lành theo Hiến pháp" của tác giả Nguyễn Đức Long, đăng trên Tạp chí Luật học số 2/2014, phân tích tầm quan trọng của quyền môi trường trong việc hoàn thiện và thực thi pháp luật Tác giả nhấn mạnh rằng việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là quyền cơ bản của mỗi công dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững Bài viết cũng đề cập đến những thách thức trong việc thực thi các quy định pháp luật liên quan đến môi trường và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để đảm bảo quyền này được thực hiện hiệu quả.
26 Tuyên bố của Liên hiệp quốc về môi trường và phát triển, tlđd (23)
Theo quy định, một số thông tin cần được công khai bao gồm báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi trường, các khu vực bị ô nhiễm, thông tin về nguồn thải và xử lý chất thải Việc công khai thông tin này giúp người dân dễ dàng tiếp cận và bảo vệ quyền sống trong môi trường trong lành.
Quyền khiếu nại, tố cáo và yêu cầu bồi thường thiệt hại (BTTH) theo quy định của pháp luật là rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường Khi bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm môi trường (ONMT) do hành vi của chủ thể khác, người bị thiệt hại có thể tự bảo vệ mình bằng cách thực hiện quyền này Cụ thể, họ có thể khiếu nại, tố cáo các cá nhân hoặc tổ chức gây ONMT và dựa vào các quy định của Luật Bảo vệ môi trường và Luật Dân sự để yêu cầu BTTH nếu có thiệt hại xảy ra Việc bảo đảm quyền này được thực hiện hiệu quả sẽ giúp người dân sống trong môi trường trong lành hơn.
Phòng ngừa là việc chủ động thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn thiệt hại trước khi nó xảy ra Nguyên tắc này được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường, được quy định tại khoản 6 Điều 4 của Luật Bảo vệ môi trường.
Hoạt động bảo vệ môi trường cần được thực hiện thường xuyên, ưu tiên phòng ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường Nguyên tắc cốt lõi là cần thận trọng trong quyết định khi chưa rõ về ảnh hưởng đến môi trường Các chủ thể phải cân nhắc giữa lợi ích và thiệt hại, cố gắng hạn chế tác động xấu đến môi trường Mục đích chính là ngăn ngừa ảnh hưởng tiêu cực và tiết kiệm chi phí khắc phục thiệt hại "Phòng bệnh hơn chữa bệnh" là nguyên tắc quan trọng, vì sự thay đổi của một yếu tố có thể ảnh hưởng lớn đến các yếu tố khác và cuộc sống con người Ví dụ, chặt phá cây rừng phòng hộ có thể dẫn đến lũ quét và xói mòn đất, gây ra thiệt hại lớn hơn Một số thiệt hại không thể khắc phục mà chỉ có thể phòng ngừa, như việc chặt cây ở rừng nguyên sinh dẫn đến sự biến mất của loài động thực vật quý hiếm.
27 Võ Trung Tín, Các nguyên tắc cơ bản của Luật Môi trường, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2009, tr 57
28 Trường Đại học Luật Hà Nội(2015), Giáo trình Luật Môi trường, NXB Công An Nhân Dân, tr 410
17 thiệt hại như vậy, không một biện pháp nào có thể khắc phục được mà chỉ có cách tốt nhất đó chính là phòng ngừa
Cần phân biệt rõ giữa phòng ngừa và thận trọng, mặc dù cả hai đều dựa trên các rủi ro đã được lường trước Phòng ngừa liên quan đến những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra, được chứng minh bằng khoa học và thực tiễn Trong khi đó, thận trọng là biện pháp dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra, chỉ dừng lại ở mức độ khả năng Nguyên tắc thận trọng thường được áp dụng trong các lĩnh vực liên quan đến sức khoẻ con người, như khuyến cáo về mỹ phẩm chứa chì và các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với thực phẩm biến đổi gen.
Một trong những biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ môi trường là lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) ĐTM giúp làm rõ “cái được” và “cái mất” của dự án thông qua việc đánh giá và dự báo đầy đủ các tác động nguy hại đến môi trường Đồng thời, các cơ quan liên quan và cộng đồng dân cư cũng nhận thức được những nguy cơ mà dự án có thể gây ra Từ đó, việc cân nhắc giữa lợi ích và thiệt hại được thực hiện, đảm bảo phát triển kinh tế song song với việc giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
1.3.3 Nguyên tắc khuyến khích các bên hòa giải
Trong văn hóa Việt Nam, tinh thần "Dĩ hoà vi quý" và "Vô phúc đáo tụng đình" thể hiện sự tôn trọng hòa hợp, khuyến khích giải quyết tranh cãi thông qua thương lượng và hòa giải, thay vì sử dụng biện pháp tòa án Nhà nước đã xây dựng nguyên tắc "Khuyến khích các bên hòa giải", trong đó hòa giải được thực hiện với sự tham gia của bên thứ ba trung gian, không có lợi ích liên quan, nhằm giúp các bên hiểu rõ quyền lợi của mình và khuyến khích họ đạt được thỏa thuận Quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên tranh chấp, trong khi cơ quan hòa giải không có quyền áp đặt.
So với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như trọng tài hay Tòa án, hoà giải có tính chất ôn hòa hơn, vì các bên không coi nhau là đối thủ mà tham gia vào một cuộc điều đình dưới sự hỗ trợ của bên thứ ba Lợi ích lớn nhất của hoà giải là duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các bên Thêm vào đó, hoà giải còn giúp giải quyết các vụ việc liên quan đến môi trường một cách hiệu quả hơn.
29 Võ Trung Tín, tlđd (27), tr 57
Trong các trường hợp phức tạp liên quan đến lợi ích của nhiều bên, sự hỗ trợ từ bên thứ ba có chuyên môn sẽ giúp quá trình hòa giải diễn ra một cách khách quan và toàn diện hơn Hiện nay, hòa giải được coi là một phương pháp giải quyết tranh chấp linh hoạt, vì quy trình và thủ tục của nó không được quy định trong các văn bản pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia.
Tầm quan trọng của pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra
1.4.1 Vai trò của bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra
Chế định BTTH trong lĩnh vực môi trường có 3 vai trò lớn sau đây
Bồi thường thiệt hại đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục tổn thất cho người bị thiệt hại Đối với thiệt hại về môi trường, số tiền bồi thường có thể hỗ trợ phục hồi chức năng của môi trường về trạng thái ban đầu Trong trường hợp thiệt hại về tính mạng và sức khỏe, bồi thường chi phí y tế, thu nhập bị mất, chi phí mai táng và cấp dưỡng cho người phụ thuộc giúp giảm bớt những tác động tiêu cực do hành vi gây thiệt hại gây ra.
Chế định BTTH về môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc răn đe và ngăn chặn hành vi gây thiệt hại trong tương lai Hiện nay, sự gia tăng các vụ ONMT, STMT không chỉ do biện pháp chế tài lỏng lẻo mà còn do khó khăn trong việc chứng minh quan hệ nhân quả và xác định thiệt hại Điều này khiến các chủ thể gây hại không nhận thức được mức độ nghiêm trọng của hành vi của mình Nếu BTTH được áp dụng đúng đắn, các doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng về hành vi của mình và những hậu quả có thể xảy ra, từ đó giảm thiểu các vụ ONMT, STMT trong tương lai.
Chế định bồi thường thiệt hại (BTTH) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công bằng giữa bên bị thiệt hại và bên gây thiệt hại, với nguyên tắc bồi thường dựa trên mức độ mất mát của bên bị thiệt hại, đồng thời xem xét lỗi và hoàn cảnh của bên gây thiệt hại Ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, nguyên đơn có thể yêu cầu bồi thường gấp nhiều lần thiệt hại thực tế nhằm ngăn chặn hành vi tương tự trong tương lai Tuy nhiên, việc áp dụng cơ chế này tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng đến khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nếu mức bồi thường quá cao, doanh nghiệp có thể không thể tiếp tục hoạt động hoặc đổi mới sáng tạo Do đó, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, việc áp dụng chế tài này không được khuyến khích.
1.4.2 Sơ lược quá trình hình thành pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra ở Việt Nam
Trước Luật Bảo vệ Môi trường 1993, Việt Nam chưa có quy định cụ thể về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường Hiến pháp 1980 lần đầu tiên ghi nhận quyền được bồi thường khi quyền và lợi ích của công dân bị xâm hại, cụ thể tại Điều 73 Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định rằng mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của công dân đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 12) Điều 74 cũng nhấn mạnh quyền bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự cho người bị thiệt hại.
Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 1993 đã đánh dấu sự hình thành rõ nét của khái niệm bảo tồn tài nguyên thiên nhiên (BTTH) về môi trường Luật này quy định các nguyên tắc BVMT, biện pháp phòng chống và khắc phục sự cố môi trường (STMT) cũng như ô nhiễm môi trường (ONMT) Nó cũng xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác BVMT, đặc biệt là các quy định liên quan đến BTTH về môi trường Cụ thể, Điều 30 của luật nêu rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm bảo vệ môi trường.
Vụ án ly cà phê nóng của McDonald's vào năm 1992 đã thu hút sự chú ý lớn khi một khách hàng bị bỏng ở đùi do ly cà phê mua tại đây Người này đã kiện McDonald's và được bồi thẩm đoàn đồng ý bồi thường 2.700.000 đô la Tuy nhiên, trong phán quyết cuối cùng, thẩm phán đã giảm số tiền bồi thường xuống còn 160.000 đô la.
Daryl S Weiman, The McDonald’s Coffee case, http://www.huffingtonpost.com/darryl-s-weiman-md-jd/the- mcdonalds-coffee-case_b_14002362.html , truy cập ngày 12/6/2017
Theo quy định của Uỷ ban nhân dân địa phương và cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp và hoạt động gây ô nhiễm môi trường phải thực hiện biện pháp khắc phục và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo pháp luật Đây là lần đầu tiên vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường được đặt ra, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sự phát triển bền vững giữa kinh tế và môi trường Các Bộ luật Dân sự (BLDS) từ năm 1995 đến 2015 đã quy định về bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường, trong đó BLDS 2005 và 2015 đã mở rộng phạm vi bồi thường, không xét đến yếu tố lỗi của chủ thể khi yêu cầu bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra.
Ngoài các căn cứ pháp lý đã đề cập, vấn đề BTTH do ô nhiễm môi trường và sự thay đổi môi trường còn được quy định trong các văn bản pháp luật khác như Luật Tài nguyên nước 2012 và Luật Khoáng sản 2010 Tuy nhiên, trong khuôn khổ khóa luận, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu chủ yếu về pháp luật dân sự, luật bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan.
Con người có quyền sống trong môi trường trong lành, một quyền cơ bản được bảo vệ bởi Hiến pháp và pháp luật Chế định bồi thường thiệt hại (BTTH) trong lĩnh vực môi trường được thiết lập để bảo vệ quyền này, nhưng hiện nay, trách nhiệm BTTH về môi trường chỉ được ghi nhận như một loại trách nhiệm ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự và pháp luật bảo vệ môi trường Mặc dù nhiều hành vi gây ô nhiễm môi trường (ONMT) đã được phát hiện, số vụ kiện yêu cầu BTTH lại rất ít và mức bồi thường thường không thỏa đáng Việc áp dụng chế định BTTH do ONMT và sự cố môi trường (STMT) gây ra còn tồn tại nhiều bất cập, gây khó khăn cho người bị thiệt hại Trong Chương 2, tác giả sẽ phân tích các vụ việc thực tế để làm rõ những vấn đề này và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BTTH đối với hành vi gây ONMT và STMT.
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG, SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG GÂY RA - THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây ra
2.1.1 Về việc xác định thiệt hại
Về việc xác định thiệt hại trong lĩnh vực môi trường, căn cứ vào luật môi trường, tác giả nhận thấy có 2 vấn đề cần lưu ý như sau:
Theo Điều 165 Luật Bảo vệ Môi trường, để xác định thiệt hại do suy giảm chức năng và tính hữu ích của môi trường, cần xác định các thành phần môi trường như đất, nước, không khí, ánh sáng, sinh vật và các hình thái vật chất khác Tuy nhiên, theo Điều 11 Nghị định 03/2015/NĐ-CP, tổng thiệt hại do ô nhiễm môi trường (ONMT) và sự suy thoái môi trường (STMT) chỉ bao gồm các thành phần như ô nhiễm nước, ô nhiễm đất, và thiệt hại đối với hệ sinh thái và các loài ưu tiên bảo vệ Điều này dẫn đến việc một số thành phần như không khí, âm thanh và ánh sáng không được đề cập, gây khó khăn trong việc xác định thiệt hại Việc không liệt kê không khí, một trong những thành phần môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, ngầm khẳng định rằng thiệt hại từ ô nhiễm không khí và âm thanh không được xem xét Do đó, cần quy định rõ ràng các thành phần môi trường để xác định và tính toán thiệt hại, bao gồm cả không khí và âm thanh, nhằm đảm bảo việc đánh giá thiệt hại diễn ra một cách chính xác và khoa học.
Theo khoản 4 Điều 165 Luật Bảo vệ Môi trường, chi phí thiệt hại về môi trường được xác định dựa trên hai yếu tố chính: (i) chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, và (ii) các yếu tố khác liên quan đến tác động tiêu cực đến môi trường.
Bài viết đề cập đến các căn cứ xác định thiệt hại môi trường, bao gồm (i) chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài, (ii) chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường, (iii) chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây hại, và (iv) thăm dò ý kiến các đối tượng liên quan Thiệt hại trước mắt có thể đo đếm dễ dàng, như diện tích rừng bị chặt phá và số lượng sinh vật chết, trong khi thiệt hại lâu dài lại khó xác định và cần dựa vào cơ sở khoa học vững chắc Việc quy định thiệt hại lâu dài là cần thiết để có cơ sở pháp lý yêu cầu bồi thường Chi phí xử lý môi trường bao gồm việc xây dựng hệ thống khí thải, nước thải để đạt tiêu chuẩn Chi phí giảm thiểu nguồn gây hại cũng quan trọng, vì nếu không xử lý triệt để, ô nhiễm sẽ tiếp tục xảy ra Cuối cùng, thăm dò ý kiến các bên liên quan là một phương pháp dân chủ, nhưng có thể gặp khó khăn do mâu thuẫn lợi ích giữa bên bị thiệt hại và bên gây hại, như trong vụ Vedan xả thải ra sông Thị Vải.
Theo tác giả, cách tính thiệt hại dựa trên các căn cứ (i), (ii), (iii) là phù hợp và ứng dụng cao, cho phép xác định đầy đủ các loại thiệt hại có thể xảy ra Đặc biệt, căn cứ (ii) và (iii) được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia nhờ vào hiệu quả trong việc tính toán mức độ thiệt hại thực tế.
34 Bùi Kim Hiếu, tlđd (4), tr 120
2.1.2 Về quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
2.1.2.1 Quyền khởi kiện của công dân
Quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (BTTH) của công dân là quyền lợi hợp pháp được pháp luật bảo vệ Tuy nhiên, hiện nay, một số quy định về thủ tục tố tụng đang gây khó khăn cho người dân trong việc thực hiện quyền lợi này.
Vấn đề quyền khởi kiện tập thể của công dân hiện nay chưa được pháp luật công nhận, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc giải quyết các vụ việc gây ô nhiễm môi trường (ONMT) và sức khỏe cộng đồng (STMT) Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, Tòa án chỉ tiếp nhận và giải quyết các vụ việc dân sự dựa trên đơn khởi kiện riêng lẻ, khiến cho những người bị thiệt hại phải nộp hàng trăm, thậm chí hàng ngàn đơn kiện cho cùng một vụ việc Chẳng hạn, vụ ô nhiễm sông Thị Vải do Vedan gây ra đã có tới 6,973 hộ dân khởi kiện, trong khi vụ ô nhiễm biển do Formosa gây ra cũng ghi nhận hơn 500 đơn kiện Tình trạng này không chỉ làm tăng khối lượng công việc cho Tòa án mà còn gây lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc cho các bên liên quan, đồng thời ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của công dân.
Pháp luật Nhật Bản công nhận quyền khởi kiện tập thể, được quy định tại Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự Điều này cho phép nhiều người có chung quyền lợi và nghĩa vụ có thể cùng nhau khởi kiện, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.
35 Hồng Tú, “Vụ Vedan: Kiện tập thể, được không?”http://plo.vn/thoi-su/vu-vedan-kien-tap-the-duoc-khong- 340833.html , truy cập ngày 8/7/2017
36 “Người dân nộp đơn khởi kiện Formosa”, http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/09/160925_formosa_compensation_legal_action, truy cập ngày 3/7/2017
Khởi kiện tập thể có thể xảy ra trong hai trường hợp: (i) khi nhiều người có chung quyền lợi và nghĩa vụ, hoặc (ii) khi họ cùng dựa trên những nguyên nhân pháp luật và thực tiễn giống nhau Những vụ việc này thường liên quan đến các thiệt hại do cùng một nguyên nhân gây ra, với số lượng nạn nhân lớn, như trách nhiệm sản phẩm, sa thải lao động, hay các vụ án liên quan đến thuốc Hiện nay, việc các nạn nhân tập hợp thành "Đoàn nguyên đơn" để khởi kiện đang trở nên phổ biến, đặc biệt là tại Nhật Bản, nơi họ cũng có thể ủy quyền cho một luật sư đại diện cho mình trong quá trình khởi kiện.
Theo Điều 187 BLTTDS 2015, các cơ quan và tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước Tuy nhiên, những tổ chức này chủ yếu chỉ bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng và Nhà nước, mà không đại diện cho quyền lợi của từng cá nhân cụ thể Các vụ án gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thường chỉ ảnh hưởng cục bộ đến một hoặc vài địa phương, chưa đủ để xác định là lợi ích cộng đồng Do đó, câu hỏi đặt ra là ai sẽ là đại diện cho người dân trong các vụ kiện này Hiện tại, quyền hạn và nhiệm vụ của các tổ chức như Hội Nông dân hay Hội Luật gia trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân trong các vụ án môi trường chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của những người bị thiệt hại.
37 集団訴訟の現状 (Thực trạng của khởi kiện tập thể), http://www.mikiya.gr.jp/Class_action.html, truy cập ngày 3/7/2017
Cuốn sách "Pháp luật về giải quyết tranh chấp với hàng xóm: thủ tục và cấu trúc" của Yujiro Takahashi (2007) cung cấp cái nhìn sâu sắc về các phương pháp và quy trình pháp lý để giải quyết các tranh chấp giữa hàng xóm Tác giả nêu rõ cách thức hoạt động của hệ thống pháp luật trong việc xử lý những vấn đề này, nhằm giúp độc giả hiểu rõ hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan Thông qua các ví dụ cụ thể, cuốn sách hướng dẫn người đọc cách tiếp cận và giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả, góp phần xây dựng mối quan hệ cộng đồng hòa bình và bền vững.
2.1.2.2 Quyền khởi kiện của Nhà nước
Theo Điều 53 Hiến pháp 2013 và Điều 197, 198 BLDS 2015, đất đai, nguồn nước, rừng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện quản lý Nhà nước thực hiện quyền sở hữu đối với các tài sản này, do đó, hành vi ô nhiễm môi trường (ONMT) có thể được coi là xâm phạm tài sản do Nhà nước quản lý Nhà nước có quyền yêu cầu các cá nhân, tổ chức gây hại phải bồi thường thiệt hại.
Theo Điều 187 BLDS 2015, các cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước Uỷ ban nhân dân các cấp có quyền khởi kiện trong các lĩnh vực mà họ quản lý, nhưng hiện nay chưa có trường hợp nào mà cơ quan nhà nước đứng ra khởi kiện chống lại các đối tượng gây ô nhiễm môi trường (ONMT) và sự cố môi trường (STMT), ngay cả trong các vụ án lớn như Vedan hay Formosa Phương thức xử lý chủ yếu của Nhà nước là xử phạt vi phạm hành chính, thường với mức phạt thấp hơn nhiều so với thiệt hại thực tế Nếu Nhà nước khởi kiện, việc xác định thiệt hại và mối quan hệ nhân quả sẽ dễ dàng hơn so với người dân Tuy nhiên, Nhà nước chưa thực hiện hiệu quả chức trách của mình do thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm yêu cầu bồi thường, thủ tục khởi kiện và nguồn kinh phí Ngoài ra, sự thiếu hụt nhân lực chuyên môn cao và cơ chế vướng mắc cũng cản trở Hơn nữa, để bảo vệ môi trường đầu tư hấp dẫn và tập trung phát triển kinh tế, cơ quan nhà nước có thể không muốn đứng lên khởi kiện.
Theo Điều 53, tài sản công thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, nguồn lợi vùng biển và vùng trời, cùng với các tài sản khác do Nhà nước đầu tư và quản lý Nhà nước đại diện cho quyền sở hữu và thực hiện việc quản lý thống nhất các tài sản này.
Theo Điều 197, tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, nguồn lợi biển, vùng trời, và các tài nguyên thiên nhiên khác, cùng với những tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý Những tài sản này được coi là tài sản công, với Nhà nước đại diện cho quyền sở hữu và quản lý thống nhất Điều 198 quy định việc thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
1 Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện, thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân
2 Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân
Cần thiết phải có quy định hướng dẫn cụ thể để cơ quan nhà nước phát huy vai trò trong bảo vệ môi trường, đặc biệt trong việc khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường và sức khỏe.
2.1.2.3 Nghĩa vụ chứng minh khi khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại