1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường suy thoát môi trường sự cố môi trường gây ra thực trạng và hướng hoàn thiện

65 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bồi Thường Thiệt Hại Do Ô Nhiễm Môi Trường, Suy Thoái Môi Trường, Sự Cố Môi Trường Gây Ra – Thực Trạng Và Hướng Hoàn Thiện
Tác giả Đỗ Thị Sương
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Thương mại
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân Luật
Năm xuất bản 2009
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 65
Dung lượng 694,79 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM, SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG, SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG GÂY RA (9)
    • 1.1. Khái niệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường (9)
      • 1.1.1. Khái niệm về ô nhiêm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường (9)
        • 1.1.1.1. Ô nhiễm môi trường (9)
        • 1.1.1.2. Suy thoái môi trường (10)
        • 1.1.1.3. Sự cố môi trường (10)
      • 1.1.2. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra (13)
        • 1.1.2.1. Định nghĩa (13)
        • 1.1.2.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường (16)
    • 1.2. Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại (27)
      • 1.2.1. Nguyên tắc nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường trong lành (27)
      • 1.2.2. Nguyên tắc khuyến khích các bên tranh chấp thương lượng và hòa giải ngay tại cấp cơ sở (28)
      • 1.2.3. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng môi trường bị thiệt hại (29)
      • 1.2.4. Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (29)
  • CHƯƠNG 2: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG, SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG GÂY RA QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM (32)
    • 2.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra (0)
      • 2.1.1. Chủ thể bị thiệt hại (0)
      • 2.1.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường gây ra (0)
        • 2.1.2.1. Hòa giải tại cơ sở và tự thương lượng (0)
        • 2.1.2.2. Giải quyết bằng hình thức trọng tài (0)
        • 2.2.2.3. Giải quyết bằng hình thức khởi kiện ra Tòa án (36)
      • 2.1.3. Cơ chế đảm bảo bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra (0)
        • 2.1.3.1. Căn cứ vào khả năng tài chính của các chủ thể gây thiệt hại (0)
        • 2.1.3.2. Vấn đề giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây ra (0)
    • 2.2. Thực trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường hiện nay (41)
      • 2.2.1. Thực trạng (41)
      • 2.2.2. Trách nhiệm của các chủ thể gây ô nhiễm đối với tình trạng ô nhiễm môi trường, (44)
      • 2.2.3. Tầm quan trọng của việc bồi thường thiệt hai do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra (45)
    • 2.3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt do ô nhiễm suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra ở Việt Nam (47)
    • 2.4. Một số giải pháp làm tăng tính hiệu quả cho vấn đề bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra (59)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM, SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG, SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG GÂY RA

Khái niệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường

1.1.1 Khái niệm về ô nhiêm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường 1.1.1.1 Ô nhiễm môi trường

Môi trường đang đối mặt với ô nhiễm nghiêm trọng và biến đổi khí hậu, đặt loài người trước những thách thức khó lường Do đó, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường Ô nhiễm môi trường được hiểu là sự hiện diện của các chất có thể làm gián đoạn các quá trình tự nhiên, gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người và sự tồn tại của các loài sinh vật khác.

Ô nhiễm môi trường được định nghĩa là sự thay đổi các thành phần của môi trường không đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, dẫn đến những tác động tiêu cực đối với con người và sinh vật.

Theo Khoản 6 Điều 3 Luật Bảo vệ Môi trường 2005, khái niệm ô nhiễm môi trường (ONMT) bao gồm cả yếu tố định tính và định lượng, giúp xác định liệu một hành vi có gây ô nhiễm hay không Không phải mọi hành vi tác động đến môi trường đều được coi là gây ô nhiễm Một hành vi được xem là gây ô nhiễm khi làm biến đổi thành phần môi trường, ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật Các thành phần môi trường như nước, không khí và đất có thể bị ảnh hưởng tiêu cực do sự xuất hiện của các chất gây ô nhiễm, bao gồm chất rắn (rác thải), chất lỏng (dung dịch hóa học, chất thải công nghiệp) và chất khí (SO2, CO, NO2) Những chất này làm cho các chỉ số môi trường vượt quá tiêu chuẩn, trở nên độc hại và gây hại cho sức khỏe con người và sinh vật Ví dụ, sự thay đổi chất lượng không khí đã dẫn đến những tác động tiêu cực rõ rệt.

1 Từ điển Bách Khoa Việt Nam (2003), NXB Bách Khoa Hà Nội, tr.340

5 ảnh hưởng đến sức khỏe, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của con người và sự sinh tồn của sinh vật

Suy thoái môi trường (STMT) là trạng thái môi trường bị thay đổi về số lượng và chất lượng các thành phần tự nhiên Nguyên nhân chính dẫn đến STMT là hành vi khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, gây hủy hoại môi trường Việc sử dụng các phương tiện và phương pháp hủy diệt trong khai thác và đánh bắt tài nguyên sinh vật cũng góp phần làm suy giảm chất lượng môi trường.

Theo Khoản 7 Điều 3 Luật BVMT 2005, suy thoái môi trường được định nghĩa là sự suy giảm về chất lượng và số lượng các thành phần môi trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến con người và sinh vật Một thành phần môi trường được coi là suy thoái khi có sự giảm sút đồng thời về số lượng và chất lượng, hoặc khi thay đổi về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng Ví dụ, sự giảm số lượng động vật hoang dã do săn bắt quá mức hay sự thu hẹp diện tích rừng đều ảnh hưởng đến đa dạng sinh học Suy thoái môi trường cũng cần gây ảnh hưởng xấu lâu dài đến sức khỏe con người và hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như dẫn đến các hiện tượng như hạn hán, lũ lụt, xói mòn đất và sụt lở đất.

Sự cố môi trường là hiện tượng biến đổi tự nhiên và tai biến rủi ro do hoạt động của con người gây ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và môi trường Những sự cố này không phản ánh đúng trạng thái môi trường hiện tại, mà là những tác động tiêu cực làm biến đổi thành phần môi trường, dẫn đến hệ quả xấu cho cả con người và hệ sinh thái.

Theo quy định pháp lý, "sự cố môi trường" được định nghĩa là những tai biến hoặc rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động của con người hoặc do biến đổi bất thường của thiên nhiên, dẫn đến ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi nghiêm trọng của môi trường (Khoản 8 Điều 3 Luật Bảo vệ Môi trường 2005).

Như vậy, để được coi là một SCMT thì tất yếu phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây:

Sự cố môi trường là những tai biến rủi ro xảy ra do hoạt động của con người hoặc biến đổi tự nhiên bất thường Trong các hoạt động như sản xuất và sinh hoạt, con người thường sử dụng nguyên liệu và tài nguyên môi trường, nhưng lại áp dụng công nghệ kém hiệu quả, dẫn đến những tác động tiêu cực đến môi trường.

Trong công tác phòng ngừa và khai thác tài nguyên, việc quản lý không hiệu quả có thể dẫn đến các tai biến rủi ro nghiêm trọng như nổ nhà máy điện nguyên tử và nổ kho chứa chất phóng xạ, được xem là sự cố môi trường do yếu tố con người gây ra Những tai biến này phản ánh rõ ràng rằng rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động của con người là một phần quan trọng trong quản lý môi trường Bên cạnh đó, thiên nhiên cũng có những biến đổi thất thường, bao gồm các hiện tượng mang tính quy luật như động đất, hoạt động núi lửa và biến động khí hậu, mà không phụ thuộc vào con người Những biện pháp phòng chống chỉ có thể hạn chế hoặc khắc phục hậu quả do các sự cố môi trường gây ra, mà không thể loại trừ nguyên nhân phát sinh Ngoài ra, còn tồn tại những biến đổi không theo quy luật nào của thiên nhiên, gây thêm thách thức cho công tác bảo vệ môi trường.

Hiện tượng El Niño là một sự biến đổi khí hậu bất thường, tương tự như hiện tượng băng tuyết xuất hiện vào mùa hè Tuy nhiên, để được công nhận là sự kiện khí hậu cực đoan (SCMT), hiện tượng này cần phải đáp ứng thêm một số điều kiện khác ngoài điều kiện cơ bản.

Tai biến rủi ro gây ra sự cố môi trường nghiêm trọng (SCMT) có thể xuất phát từ hành vi gây ô nhiễm hoặc từ môi trường suy thoái, với đủ dấu hiệu theo mục 1.1.1.2 Khi một sự cố đáp ứng hai điều kiện này và xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc do biến đổi bất thường của thiên nhiên, dẫn đến sự cố môi trường nghiêm trọng, thì sẽ được xem là SCMT.

Ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và sự cố môi trường là những yếu tố chính gây hại cho sức khỏe và đời sống con người Việc bồi thường thiệt hại do những vấn đề này là cần thiết để khắc phục tổn thất và phục hồi môi trường về trạng thái ban đầu Để hiểu rõ hơn, cần xem xét mối quan hệ giữa ba thuật ngữ này trong bối cảnh bồi thường thiệt hại.

Ba thuật ngữ ONMT, STMT và ô nhiễm môi trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bởi cả hai đều gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người Cả ONMT và STMT đều làm thay đổi thành phần môi trường, khiến chúng không còn phù hợp với tiêu chuẩn môi trường Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường thường là kết quả của việc thải các chất độc hại vào môi trường, trong khi STMT là hệ quả của việc khai thác quá mức tài nguyên, dẫn đến suy giảm và cạn kiệt nguồn tài nguyên.

Ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ Ô nhiễm môi trường thường xảy ra đột ngột và có mức độ cấp tính cao, trong khi suy thoái môi trường diễn ra từ từ, dẫn đến sự cạn kiệt giá trị sinh thái Ô nhiễm có thể là kết quả của các sự cố môi trường, như tràn dầu từ tàu chở dầu, gây thiệt hại cho hệ sinh thái biển Tuy nhiên, không phải lúc nào suy thoái môi trường cũng do ô nhiễm, mà có thể do hành vi khai thác tài nguyên không bền vững của con người Các sự cố môi trường có thể do thiên nhiên hoặc con người gây ra, và trách nhiệm bồi thường thường được đặt ra trong trường hợp con người gây ra ô nhiễm Để giải quyết vấn đề này, cần kết hợp các biện pháp ngăn chặn khai thác quá mức và xử lý chất thải nhằm bảo vệ môi trường.

Ba thuật ngữ ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường và suy thoái môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau Ô nhiễm môi trường có thể dẫn đến sự cố môi trường và suy thoái môi trường, trong khi sự cố môi trường lại có thể gây ra ô nhiễm môi trường lâu dài Chúng hỗ trợ và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra những tác động tiêu cực đến môi trường sống của chúng ta Do đó, việc tìm hiểu mối liên hệ giữa các hiện tượng này là cần thiết để loại trừ nguyên nhân gây ra chúng.

8 chúng trong một thể thống nhất Để tìm hiểu đầy đủ khái niệm của đề tài ta tìm hiểu khái niệm sau

1.1.2 Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường, sự cố môi trường gây ra

Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại

1.2.1 Nguyên tắc nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường trong lành

Quyền được sống trong môi trường trong lành là một trong những quyền cơ bản của con người, đảm bảo cuộc sống hài hòa với tự nhiên Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quyền sống đang bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm môi trường Một bầu không khí ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tuổi thọ của con người Sự suy thoái của môi trường đã dẫn đến việc xâm phạm quyền tự nhiên Tuyên bố của Liên Hiệp Quốc khẳng định quyền con người được sống trong môi trường trong lành, coi đây là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia Nguyên tắc trong Tuyên bố Stockholm nhấn mạnh rằng con người có quyền sống trong một môi trường chất lượng, trong khi Tuyên bố Rio De Janeiro xác định con người là trung tâm của sự phát triển bền vững Hai tuyên bố này đã góp phần biến quyền sống trong môi trường trong lành thành nguyên tắc pháp lý, và đã trở thành một phần của luật môi trường Việt Nam, yêu cầu mọi quy định pháp luật về môi trường phải ưu tiên đảm bảo điều kiện sống cho con người.

Nhà nước cần thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, đảm bảo người dân sống trong môi trường trong lành Điều này không chỉ là nguyên tắc mà còn là mục đích của luật môi trường, bởi quyền sống trong môi trường sạch đang bị xâm phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và chất lượng cuộc sống Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự gia tăng dân số tại các thành phố, dẫn đến mật độ dân số dày đặc, khiến chính quyền khó kiểm soát, cùng với thói quen “vứt rác ra đường” vẫn tồn tại, cho thấy người dân chưa có ý thức bảo vệ môi trường.

Người dân ngày càng nhận thức được tác hại của chất thải đối với môi trường và coi bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mình Tuy nhiên, giữa người dân và cơ quan chức năng vẫn tồn tại tình trạng đổ lỗi cho nhau, dẫn đến việc vi phạm môi trường không được xử lý triệt để Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ và phục hồi môi trường, nhưng hiệu quả vẫn chưa đạt được như mong muốn Do đó, việc bảo vệ quyền sống trong môi trường trong lành của công dân là rất quan trọng, được quy định trong Điều 50 của Hiến pháp 1992, bao gồm các quyền như khiếu nại, tố cáo, tự do cư trú, quyền được bảo vệ môi trường và quyền tiếp cận thông tin.

1.2.2 Nguyên tắc khuyến khích các bên tranh chấp thương lượng và hòa giải ngay tại cấp cơ sở

Việc bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc hòa hảo giữa các bên giúp các bên tự thương lượng và lựa chọn phương án giải quyết tối ưu Điều này được quy định tại Khoản 1 Điều 605 Bộ luật Dân sự 2005 và Khoản 1 Điều 133 Luật Bảo vệ Môi trường 2005.

Thiệt hại cần được bồi thường đầy đủ và kịp thời, với các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường và hình thức bồi thường, bao gồm tiền, hiện vật hoặc công việc, theo phương thức một lần hoặc nhiều lần, trừ khi pháp luật quy định khác Trong luật bảo vệ môi trường, bồi thường bằng tiền thường được áp dụng, nhưng đối với cộng đồng dân cư, việc này có thể không chính xác và việc phân chia tiền bồi thường không đảm bảo Nguyên tắc bồi thường dựa trên sự tôn trọng ý kiến và lợi ích của các bên, khuyến khích thương lượng để đạt được sự đồng thuận Hình thức này đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử giải quyết tranh chấp, mang lại ưu điểm về tính đơn giản, nhanh chóng và tiết kiệm thời gian Hơn nữa, việc giải quyết tranh chấp qua thương lượng hòa giải giúp giảm thiểu tình trạng ùn tắc khiếu nại tại các cơ quan nhà nước và tòa án.

Thương lượng và hòa giải là những phương pháp phổ biến giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách tự nguyện, giảm thiểu chi phí và gánh nặng cho Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền Nguyên tắc này không chỉ đảm bảo hiệu quả thực thi mà còn mang lại tính khả thi cao, cần được phát huy trong cuộc sống.

Trong bối cảnh môi trường bị thiệt hại, hai bên cần thực hiện triệt để nguyên tắc đạt được sự thống nhất về ý chí, mặc dù không phải lúc nào cũng dễ dàng.

1.2.3 Nguyên tắc ưu tiên áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng môi trường bị thiệt hại

Khi môi trường bị tổn hại, không chỉ các bên tranh chấp chịu ảnh hưởng mà còn tác động nghiêm trọng đến lợi ích của cộng đồng Hậu quả từ thiệt hại môi trường nặng nề hơn khi tình trạng này trở nên nghiêm trọng Do đó, nguyên tắc bảo vệ môi trường (BVMT) được xây dựng nhằm ưu tiên lợi ích chung của cộng đồng Điều này có nghĩa là trong trường hợp ô nhiễm môi trường, nguyên tắc BVMT sẽ được áp dụng trước khi xem xét thiệt hại của cá nhân hay tổ chức.

Vấn đề bồi thường thiệt hại (BTTH) do ô nhiễm môi trường (ONMT), sự cố môi trường (STMT), và sự cố môi trường nghiêm trọng (SCMT) cần phải trải qua một quá trình dài do tính chất lây lan và ảnh hưởng rộng lớn của môi trường Nếu chỉ chờ đến khi BTTH hoàn tất mới tiến hành khắc phục hậu quả thì sẽ quá muộn cho các chủ thể gây ra ô nhiễm Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp, cần ưu tiên áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả, vì đây là cách ngăn chặn những tác động xấu nhất có thể xảy ra Chủ thể gây ô nhiễm phải thực hiện các biện pháp khắc phục trước, như trường hợp VeDan Việt Nam đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải và tháo dỡ hệ thống xả thải trái phép, giúp sông Thị Vải được “hồi sinh” Nếu không có những biện pháp này, việc chờ đợi BTTH có thể dẫn đến nhiều “dòng sông chết” khác.

Nguyên tắc này đặt bảo vệ môi trường (BVMT) lên hàng đầu, vượt qua lợi ích của tổ chức và cá nhân, xuất phát từ tầm quan trọng thiết yếu của môi trường đối với sự sống Sự ô nhiễm môi trường không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn đe dọa sự tồn tại và phát triển của chúng ta Ý thức được điều này, nguyên tắc bảo vệ môi trường đã được thiết lập không phải là ngẫu nhiên.

“Người gây ô nhiễm phải trả tiền” được xem là “linh hồn” của bồi thường thiệt hại

1.2.4 Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp môi trường đã được quốc tế công nhận và áp dụng rộng rãi Trong giai đoạn 2006-2010, kế hoạch bảo vệ môi trường cần phải đồng hành với các dự án kinh tế trọng điểm Cục trưởng BVMT Trần Hồng Hà nhấn mạnh rằng nguyên tắc hàng đầu này là bắt buộc phải thực hiện.

25 mọi thành phần kinh tế hiện nay là “ Người sử dụng tài nguyên phải trả tiền, trả phí thải và phí gây ô nhiễm”

Người thực hiện hành vi hợp pháp phải trả tiền theo quy định pháp luật, bao gồm thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, tiền mua giấy phép phát thải, và chi phí phục hồi môi trường Tiền phải trả tương ứng với mức độ gây ô nhiễm và tác động xấu đến môi trường, đồng thời ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ thể gây ô nhiễm Mục đích của nguyên tắc này là đảm bảo sự bình đẳng trong khai thác và bảo vệ môi trường, khuyến khích hành vi có lợi cho môi trường bằng cách tác động vào lợi ích kinh tế của họ Điều này nhằm buộc các nhà sản xuất phải có ý thức bảo vệ môi trường ngay từ đầu, thay vì phải chi trả một khoản tiền lớn sau khi gây ra thiệt hại.

Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được xây dựng trên cơ sở Khoản 5 Điều

Theo Luật Bảo vệ Môi trường 2005, tổ chức và cá nhân gây ô nhiễm và suy thoái môi trường phải chịu trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định pháp luật Hành vi gây tác động xấu đến môi trường, dù chưa vượt tiêu chuẩn, vẫn phải bồi thường và là nguồn thu cho ngân sách nhà nước Tuy nhiên, không phải tất cả các chủ thể khai thác tài nguyên đều phải trả tiền, đặc biệt khi sử dụng cho mục đích thiết yếu như nước sinh hoạt và không khí Cụ thể, những người gây ô nhiễm phải trả hai khoản: i) Tiền đền bù thiệt hại về môi trường theo quyết định của cơ quan nhà nước đại diện cho lợi ích cộng đồng; ii) Tiền bồi thường thiệt hại về người và tài sản cho các cá nhân, tổ chức bị ảnh hưởng, dựa trên thỏa thuận giữa các bên.

Nguyên tắc "Người gây ô nhiễm phải trả tiền" là cơ sở quan trọng cho việc bồi thường thiệt hại môi trường Nguyên tắc này yêu cầu các cá nhân và tổ chức gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm tài chính nhằm bảo vệ môi trường, đảm bảo sự công bằng xã hội, và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước Đồng thời, nguyên tắc cũng góp phần vào việc tái tạo môi trường một cách thực tế.

26 thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường không chỉ dừng lại ở một vài nguyên tắc mà nó còn nhiều nguyên tắc khác

Bài viết này trình bày những vấn đề cơ bản liên quan đến bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, cung cấp cái nhìn tổng quan về quy trình xác định thiệt hại Nó giải thích khái niệm và đặc điểm của bồi thường thiệt hại, giúp phân biệt với các loại trách nhiệm bồi thường khác Bên cạnh đó, một số nguyên tắc hướng dẫn cho việc bồi thường cũng được đề cập Để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ phân tích một số vụ việc cụ thể trong chương 2, từ đó đưa ra bình luận và phương hướng giải quyết những vấn đề còn tồn đọng.

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM SUY THOÁI MÔI TRƯỜNG, SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG GÂY RA QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:03

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. GS.TSKH. Lê Huy Bá, KS. Văn Thị Thanh Tuyền (2008), “Hiện trạng ô nhiễm môi trường và những giải pháp thích hợp đối với các khu công nghiệp trọng điểm phía Nam”, Tạp chí bảo vệ môi trường, (12), tr.29 – 33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiện trạng ô nhiễm môi trường và những giải pháp thích hợp đối với các khu công nghiệp trọng điểm phía Nam
Tác giả: GS.TSKH. Lê Huy Bá, KS. Văn Thị Thanh Tuyền
Năm: 2008
2. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ tư pháp(2004), “Trách nhiệm dân sự do hành vi gây thiệt hại về môi trường”, Bản tin luật so sánh,(01) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm dân sự do hành vi gây thiệt hại về môi trường
Tác giả: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ tư pháp
Năm: 2004
3. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Dung (2008), “Quản lý tài nguyên và môi trường”, NXB Xây dựng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý tài nguyên và môi trường
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Dung
Nhà XB: NXB Xây dựng
Năm: 2008
4. Th.S Trần Ngọc Dương (2009), “Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong pháp Luật dân sự của cộng hòa Pháp”, Tạp chí Luật học, (01), tr.64-65 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong pháp Luật dân sự của cộng hòa Pháp"”
Tác giả: Th.S Trần Ngọc Dương
Năm: 2009
5. TS. Luật học Vũ Thu Hạnh (2007), “Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm suy thoái môi trường ”, Tạp chí khoa học pháp lý, (03) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm suy thoái môi trường
Tác giả: TS. Luật học Vũ Thu Hạnh
Năm: 2007
6. Vũ Thu Hạnh (2000), “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp”, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp
Tác giả: Vũ Thu Hạnh
Năm: 2000
7. Trường đại học Luật Hà Nội (2006), “Giáo trình Luật môi trường”, NXB Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật môi trường
Tác giả: Trường đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2006
8. Đại tá.TS. Nguyễn Xuân Lý (2008), “Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý về bảo vệ môi trường qua vụ vi phạm của Vedan Việt Nam”, Tạp chí tài nguyên và môi trường, (11), tr.15-16 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý về bảo vệ môi trường qua vụ vi phạm của Vedan Việt Nam
Tác giả: Đại tá.TS. Nguyễn Xuân Lý
Năm: 2008
10. Nguyễn Thị Minh Phượng (2002), “Những vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường với việc giải quyết các sự cố tràn dầu ở Việt Nam”, Luận văn cử nhân, Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường với việc giải quyết các sự cố tràn dầu ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Phượng
Năm: 2002
11. Đỗ Văn Sen (2008), “Ô nhiễm môi trường biển và vấn đề thực thi các Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp Luật, (09), tr.75-76 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ô nhiễm môi trường biển và vấn đề thực thi các Điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam
Tác giả: Đỗ Văn Sen
Năm: 2008
13. TS. Nguyễn Hồng Thao (2003), “Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam Luật pháp và thực tiễn”, NXB Thống kê Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam Luật pháp và thực tiễn
Tác giả: TS. Nguyễn Hồng Thao
Nhà XB: NXB Thống kê Hà Nội
Năm: 2003
14. Mai Thị Anh Thư (2002), “Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra”, Luận văn cử nhân Luật, Tp.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra
Tác giả: Mai Thị Anh Thư
Năm: 2002
1. Bộ tài nguyên môi trường: http://www.nea.gov.vn 2. UBNDTPHCM: http://www.hochiminhcity.gov.vn Link
6. Báo thanh niên: http://www.thanhnien.com.vn 7. Báo đất Việt: http://www.baodatviet.vn Link
8. Sài gòn tiếp thị: http://www.sgtt.com.vn 9. Website tìm kiếm: http://www.google.com.vn Link
9. Từ điển Luật học (bộ Tư pháp – viện khoa học pháp lý)(2006) – NXB Từ điển Bách khoa – NXB Tư pháp Khác
12. Sở tài nguyên môi trường(2008), Báo cáo hiện trạng môi trường Khác
15. Từ điển Bách Khoa Việt Nam(2003), Nxb Bách Khoa Hà Nội, tr.340 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w