1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

74 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bảo Vệ Quyền Lợi Của Con Khi Cha Mẹ Ly Hôn Theo Pháp Luật Hôn Nhân Gia Đình Việt Nam
Tác giả Đặng Thị Thanh Nhàn
Người hướng dẫn Th.S. Trần Thị Hương
Trường học Trường Đại Học Luật TP HCM
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố TP HCM
Định dạng
Số trang 74
Dung lượng 1,27 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 (11)
    • 1.1. Ly hôn và ảnh hưởng của ly hôn đối với sự phát triển của con (11)
      • 1.1.1. Khái niệm ly hôn (11)
      • 1.1.2. Ảnh hưởng của ly hôn đối với sự phát triển của con và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn (13)
    • 1.2. Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam trước 1 - 1 - 2001 (16)
      • 1.2.1. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 (16)
        • 1.2.1.1. Thời kì quân chủ phong kiến (939 - 1858) (16)
        • 1.2.1.2. Thời kì Pháp thuộc (1858 - 1945) (17)
      • 1.2.2. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước 1 - 1 - 2001 (19)
        • 1.2.2.1. Thời kì từ 1945 - 1959 (19)
        • 1.2.2.2. Thời kì 1959 - 1986 (20)
        • 1.2.2.3. Thời kì 1986 - 2000 (21)
  • CHƯƠNG 2 (22)
    • 2.1. Nhóm con là đối tƣợng đƣợc bảo vệ quyền lợi khi cha mẹ ly hôn (22)
    • 2.2. Xác định người trực tiếp nuôi con khi cha mẹ ly hôn (28)
      • 2.2.1. Xác định người trực tiếp nuôi con khi có sự thỏa thuận của vợ chồng . 18 2.2.2. Xác định người trực tiếp nuôi con dựa vào quyết định của tòa án (28)
    • 2.3. Nghĩa vụ và quyền của cha (mẹ) không trực tiếp nuôi con (32)
      • 2.3.1. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (32)
        • 2.3.1.1. Khái niệm nghĩa vụ cấp dưỡng (32)
        • 2.3.1.2. Đặc điểm nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn (33)
        • 2.3.1.3. Mức cấp dưỡng (35)
        • 2.3.1.4. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (36)
        • 2.3.1.5. Thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (39)
        • 2.3.1.6. Tạm ngừng cấp dưỡng (39)
        • 2.3.1.7. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng (40)
        • 2.3.1.8. Các biện pháp chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (41)
      • 2.3.2. Quyền thăm nom con (43)
    • 2.4. Thay đổi người (cha hoặc mẹ) trực tiếp nuôi con (44)
      • 2.4.1. Điều kiện để thay đổi người (cha hoặc mẹ) trực tiếp nuôi con (45)
      • 2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con (45)
  • CHƯƠNG 3 (47)
    • 3.1. Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn (48)
      • 3.1.1. Vấn đề nuôi con chung sau khi ly hôn (48)
        • 3.1.1.1. Thực trạng vấn đề giao con (48)
        • 3.1.1.2. Thực trạng việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con (49)
        • 3.1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên (52)
      • 3.1.2. Vấn đề thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con (54)
        • 3.1.2.1. Thực trạng vấn đề thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con . 44 3.1.2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên (54)
      • 3.1.3. Vấn đề thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn (57)
        • 3.1.3.1. Thực trạng việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn (57)
        • 3.1.3.2. Nguyên nhân của dẫn đến những thực trạng trên (62)
    • 3.2. Giải pháp hoàn thiện (65)
      • 3.2.1. Nhóm giải pháp tâm lí - xã hội (65)
      • 3.2.2. Nhóm giải pháp pháp lí (66)
  • KẾT LUẬN (70)

Nội dung

Ly hôn và ảnh hưởng của ly hôn đối với sự phát triển của con

Khi thiết lập hôn nhân, vợ chồng thường hướng đến việc xây dựng một gia đình hạnh phúc và bền vững Tuy nhiên, không phải hôn nhân nào cũng đạt được mục đích này, dẫn đến việc pháp luật quy định chế định ly hôn Ly hôn không chỉ gây tan vỡ gia đình mà còn để lại nhiều hậu quả tiêu cực, đặc biệt là đối với trẻ em Do đó, việc pháp luật quan tâm và điều chỉnh để bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong trường hợp cha mẹ ly hôn là vô cùng cần thiết.

Ly hôn là quá trình chấm dứt quan hệ hôn nhân, được công nhận hoặc quyết định bởi tòa án theo yêu cầu của một trong hai vợ chồng hoặc cả hai.

2000) Theo khái niệm trên thì ly hôn là việc chấm dứt hôn nhân khi cả hai vợ chồng còn sống theo quyết định hoặc bản án của tòa án

Hôn nhân chấm dứt bằng ly hôn chỉ áp dụng cho các cuộc hôn nhân hợp pháp được nhà nước công nhận và bảo vệ Nếu vợ hoặc chồng chưa đăng ký kết hôn nhưng muốn ly hôn, chỉ một số trường hợp cụ thể theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình mới được xem xét.

Vào năm 2000, tòa án đã thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 Nếu có yêu cầu liên quan đến con cái và tài sản, sẽ áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 để giải quyết.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, chỉ có tòa án mới có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn Nếu các bên muốn chấm dứt hôn nhân, họ phải nộp đơn yêu cầu tòa án Tòa án sẽ căn cứ vào các lý do ly hôn để ra quyết định hoặc bản án Khi quyết định này có hiệu lực, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt, và họ không còn nghĩa vụ, quyền lợi với nhau, đồng thời có quyền kết hôn với người khác Hôn nhân cần được hiểu dưới hai góc độ: kết hôn và ly hôn, đều là quyền nhân thân của mỗi cá nhân Pháp luật không thể ép buộc tình yêu hay sự chung sống khi cuộc hôn nhân đã không còn thực chất.

Pháp luật công nhận quyền tự do kết hôn và ly hôn, với quyền ly hôn được đảm bảo theo Điều 42 Bộ luật Dân sự 2005, cho phép vợ, chồng hoặc cả hai có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn Quyền ly hôn là quyền nhân thân gắn liền với từng cá nhân và không thể chuyển nhượng Đây là một sự kiện tự nguyện, phản ánh ý chí của vợ, chồng Chỉ có vợ hoặc chồng mới có quyền nộp đơn xin ly hôn, vì chính họ là những người hiểu rõ nhất về hạnh phúc và tình trạng hôn nhân của mình.

Ly hôn là một khía cạnh không thể thiếu trong quan hệ hôn nhân, mặc dù nó thường được coi là mặt trái và bất bình thường Đây là biện pháp cuối cùng để giải thoát cho cả hai vợ chồng khi hôn nhân trở thành rào cản cho cuộc sống của họ Ly hôn không chỉ giúp khôi phục quyền tự do cá nhân mà còn củng cố chế độ hôn nhân bằng cách tạo ra cơ hội cho những mối quan hệ tốt đẹp hơn.

2 Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình 2000

Theo C.Mác (1978), trong bối cảnh hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, pháp luật hiện hành của nhà nước ta thừa nhận quyền ly hôn, khác với các quy định của nhà nước phong kiến và tư sản Nguyên tắc này được ghi nhận tại khoản 1 điều 2 LHNGĐ 2000 Tuy nhiên, ly hôn cũng mang lại nhiều hệ lụy tiêu cực, như gia đình li tán và tổn thương tâm lý, đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên Do đó, việc nhà nước bảo đảm quyền tự do ly hôn không đồng nghĩa với việc khuyến khích ly hôn một cách tùy tiện Thay vào đó, nhà nước quy định các căn cứ và điều kiện hạn chế ly hôn tại điều 89 và khoản 2 điều 85 LHNGĐ 2000, cùng với hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, nhằm kiểm soát việc ly hôn ở một mức độ nhất định.

Ly hôn là lựa chọn cuối cùng khi cuộc sống hôn nhân trở nên không thể chịu đựng, phản ánh quyền hợp pháp của vợ hoặc chồng yêu cầu tòa án chấm dứt hôn nhân khi không còn đạt được mục đích.

1.1.2 Ảnh hưởng của ly hôn đối với sự phát triển của con và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn

Khi tình cảm giữa vợ chồng không còn, ly hôn trở thành giải pháp cần thiết để giải quyết mâu thuẫn gia đình Tuy ly hôn có những mặt tích cực, nhưng nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cho gia đình và xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em chưa đến tuổi vị thành niên Những trẻ em này, với sự phát triển chưa hoàn thiện về thể chất và tinh thần, dễ bị tác động tiêu cực từ sự đổ vỡ trong hôn nhân của cha mẹ.

Nghiên cứu tâm lý cho thấy rằng phản ứng của trẻ đối với sự ly hôn của cha mẹ phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính, cách thức tiếp nhận thông tin về ly hôn, cũng như hoàn cảnh sống trước và sau sự kiện này Dù có sự khác biệt trong phản ứng, nhưng nhìn chung, cuộc hôn nhân thất bại của cha mẹ luôn để lại những sang chấn tâm lý nhất định cho trẻ.

Tâm lý sợ thay đổi là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến trẻ em khi cha mẹ ly hôn Việc phải chuyển chỗ ở và thích nghi với môi trường sống mới trong khi đang phải đối mặt với sự xáo trộn do cuộc hôn nhân đổ vỡ gây ra nhiều khó khăn và áp lực Không phải trẻ nào cũng có khả năng thích nghi với những thay đổi này, dẫn đến tâm lý tự ti, ngại giao tiếp và thậm chí có những trường hợp nghiêm trọng như tìm đến cái chết Theo nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2004, 16/20 ca tự tử ở trẻ em từ 14-17 tuổi có nguyên nhân từ gia đình, trong đó có sự xung đột và ly hôn của cha mẹ, khiến trẻ cảm thấy tuyệt vọng và đau khổ.

Khi cha mẹ ly hôn, trẻ em thường phải đối mặt với nỗi ám ảnh bị bỏ rơi, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý hiện tại và cảm xúc tương lai của chúng Sự ám ảnh này có thể dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc về hạnh phúc gia đình và gây khó khăn trong các mối quan hệ với người khác giới khi trưởng thành Thanh niên từ các gia đình ly hôn thường lo sợ bị phản bội, ruồng bỏ, hoặc tổn thương, điều này khiến họ có xu hướng yêu nhiều người cùng lúc để tránh cảm giác cô đơn và mất mát.

Ly hôn là nỗi đau không chỉ của một người mà còn ảnh hưởng đến nhiều người xung quanh Nhiều cô gái trẻ thường tìm kiếm tình yêu bên ngoài hôn nhân, đặc biệt là với những người đàn ông lớn tuổi hơn, vì họ tin rằng những người này ít có khả năng phản bội Sự lựa chọn này phản ánh những khó khăn và áp lực trong mối quan hệ hiện đại.

Cha mẹ ly hôn và gia đình tan vỡ không chỉ khiến trẻ không nhận được sự quan tâm đồng thời từ cả cha và mẹ, mà còn có thể làm mất đi các mối quan hệ gắn bó với những thành viên khác trong gia đình như ông bà, cô dì, chú bác Những mối quan hệ này, tưởng chừng đơn giản, nhưng khi bị tước mất có thể dẫn đến những phản ứng tiêu cực và thái độ bất mãn ở trẻ.

Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam trước 1 - 1 - 2001

Sau khi cha mẹ ly hôn, quyền lợi của trẻ em cần được pháp luật bảo vệ một cách tối đa Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền lợi này phụ thuộc vào từng thời kỳ và hoàn cảnh lịch sử, xã hội khác nhau, dẫn đến những cách thức ghi nhận và thực thi quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn cũng có sự khác biệt.

1.2.1 Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945

1.2.1.1 Thời kì quân chủ phong kiến (939 - 1858)

Trong thời kỳ quân chủ phong kiến, không tồn tại một văn bản pháp luật riêng biệt nào điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình; thay vào đó, các vấn đề này thường được quy định trong các bộ luật tổng quát điều chỉnh mối quan hệ xã hội Pháp luật giai đoạn này chủ yếu được thể hiện qua ba bộ luật tiêu biểu: Quốc triều hình luật (QTHL), Hồng Đức thiện chính thư (HĐTCT) và Hoàng Việt luật lệ (HVLL).

6 http://www.hvcsnd.edu.vn/vn/Acedemy/Trung-tam-NC-TPH-va/80/2079/75-toi-pham-hinh-su-la- nguoi-tre.aspx

Ly hôn đã được pháp luật Việt Nam công nhận từ rất sớm, với các quy định cụ thể trong Bộ luật Hôn nhân và Gia đình (QTHL) và Luật Hôn nhân và Gia đình (HVLL) Theo đó, vợ chồng có thể tiến hành ly hôn khi một trong hai bên có lỗi, cụ thể là người vợ (theo điều 310 QTHL và điều 332 HVLL) hoặc người chồng.

Theo Điều 308 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, cũng như Điều 108 của Luật Hôn nhân và Gia đình, ly hôn dẫn đến việc chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ chồng, cho phép cả hai bên kết hôn với người khác mà không bị pháp luật ngăn cấm Tuy nhiên, vấn đề phân chia quyền nuôi con và bảo đảm quyền lợi cho trẻ em vẫn chưa được quy định rõ ràng và thường được giải quyết theo phong tục tập quán, trong đó thông thường trẻ em sẽ sống với cha.

Trong thời kỳ quân chủ phong kiến, quan niệm về gia đình chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Nho giáo, được xây dựng trên ba nguyên tắc chính: củng cố chế độ đại gia đình, đề cao quyền gia trưởng và thực hành nguyên tắc trọng nam, trọng trưởng Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái được xem như mối quan hệ giữa người bề trên và kẻ bề dưới, với cha mẹ ra lệnh và con cái phục tùng, thể hiện tư tưởng cốt lõi của đạo hiếu Pháp luật nghiêm khắc trừng phạt những hành vi không tuân lệnh cha mẹ, coi đó là một trong những tội ác nghiêm trọng Cha mẹ có toàn quyền trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và quyết định hôn nhân của con cái, đồng thời có quyền thưa kiện con bất hiếu Đặc biệt, pháp luật nhà Lê còn cho phép cha mẹ có quyền bán con và quyền từ con, thể hiện sự kiểm soát tuyệt đối của cha mẹ trong gia đình.

Dưới chế độ quân chủ phong kiến, vị trí của con cái trong gia đình thường bị xem nhẹ, khiến quyền lợi của chúng không được đảm bảo và phụ thuộc vào ý chí của cha mẹ Điều này dẫn đến việc quyền lợi của con cái không được quan tâm đúng mức, đặc biệt trong trường hợp cha mẹ ly hôn.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, dẫn đến việc triều đình nhà Nguyễn ký các hòa ước vào các năm 1862, 1874, 1883 và 1884, khiến đất nước hoàn toàn lệ thuộc vào Pháp Việt Nam bị chia thành ba miền: miền Bắc và miền Trung là đất bảo hộ, miền Nam là thuộc địa Tại Trung kỳ và Bắc kỳ, tồn tại hai hệ thống chính quyền song song: chính quyền Pháp và chính quyền nhà Nguyễn Để thực hiện chính sách cai trị, Pháp đã ban hành ba bộ luật dân sự cho mỗi miền, trong đó chế định ly hôn được xây dựng theo khuôn mẫu pháp luật Pháp, ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người chồng Quyền ly hôn được thừa nhận cho cả vợ và chồng, nhưng vợ không có quyền xin ly hôn vì lý do chồng ngoại tình Hậu quả pháp lý của ly hôn là chấm dứt hoàn toàn quan hệ nhân thân giữa vợ chồng, và quyền nuôi dưỡng con cái sau ly hôn do tòa án quyết định, thường ưu tiên giao cho người cha Mặc dù các bộ luật có xem xét ý kiến của con cái, việc chăm sóc và nuôi dưỡng thường khó khăn cho người mẹ, ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ em khi thiếu sự yêu thương từ cả cha và mẹ.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật đã có những tiến bộ so với thời kỳ quân chủ phong kiến, đặc biệt trong việc quy định người nuôi dưỡng con sau khi ly hôn Tuy nhiên, do những nguyên tắc như trọng nam khinh nữ và củng cố quyền lợi của con trưởng, việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em sau ly hôn vẫn gặp nhiều hạn chế.

1.2.2 Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước 1-1-2001

Sau Cách mạng tháng 8, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, dẫn đến sự thay đổi lớn về hoàn cảnh lịch sử và xã hội Điều này khiến các quy định trong bộ dân luật cũ về hôn nhân và gia đình trở nên không còn phù hợp Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, vào năm 1950, nhà nước đã ban hành hai sắc lệnh quan trọng: Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy định trong dân luật và Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về ly hôn.

Sắc lệnh 97/SL đã thiết lập nhiều quy định quan trọng bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong gia đình, bao gồm việc cho phép con cái đã thành niên kết hôn mà không cần sự đồng ý của cha mẹ (điều 2) và xóa bỏ quyền "trừng giới" của cha mẹ, ngăn cấm việc cha mẹ có quyền giam cầm con cái (điều 8).

Sắc lệnh 159/SL đã mang lại nhiều tiến bộ trong việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn, đặc biệt là việc tòa án căn cứ vào quyền lợi của con để quyết định người nuôi dưỡng, thay vì ưu tiên giao con cho cha như trước đây Điều 6 của Sắc lệnh này quy định rõ ràng nghĩa vụ cấp dưỡng của cả cha và mẹ, yêu cầu họ cùng chia sẻ chi phí nuôi dạy con dựa trên khả năng tài chính của mỗi người Quy định này thể hiện rõ trách nhiệm chung của cha mẹ trong việc nuôi nấng và giáo dục con cái.

Sắc lệnh 159/SL mang đến những quy định tiến bộ và mới mẻ, tạo điều kiện cho việc phát triển các quy định bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi vào năm 1954 đã dẫn đến sự chia cắt tạm thời đất nước thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau: miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa và miền Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp Trong bối cảnh đó, Luật Hôn nhân gia đình 1959 (LHNGĐ 1959) ra đời, ghi nhận quyền ly hôn dựa trên ý chí của cả hai vợ chồng Đặc biệt, luật này quy định chi tiết về quyền lợi của con cái sau khi ly hôn, nhấn mạnh rằng “vợ chồng đã ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con cái” (điều 31 LHNGĐ).

Theo LHNGĐ 1959, việc quyết định người trực tiếp nuôi con dựa trên quyền lợi của trẻ, với cả hai vợ chồng cùng chịu trách nhiệm về phí tổn nuôi dưỡng và giáo dục Đặc biệt, điều 32 quy định rằng "con còn bú phải giao cho mẹ phụ trách", nhằm đảm bảo sự chăm sóc tốt nhất từ người mẹ trong giai đoạn này Để bảo vệ quyền lợi của con, luật cũng cho phép thay đổi việc nuôi dưỡng và đóng góp phí tổn Cả hai vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong việc chăm sóc con Khi ly hôn, nguyên tắc tự thỏa thuận giữa hai bên được ưu tiên để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái, nhằm giảm xung đột và tổn thương, đặc biệt là cho trẻ em.

Chương V LHNGĐ 1959 đã quy định chi tiết về quyền lợi của con sau khi cha mẹ ly hôn, đáp ứng cơ bản nhu cầu thực tiễn trong vấn đề này.

Nhóm con là đối tƣợng đƣợc bảo vệ quyền lợi khi cha mẹ ly hôn

Sự tan vỡ của gia đình gây ra nhiều hệ lụy cho các thành viên, đặc biệt là trẻ em, những người phải chịu thiệt thòi lớn nhất Do đó, việc pháp luật bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong các vụ ly hôn là vô cùng cần thiết Tuy nhiên, không phải tất cả trẻ em đều được bảo vệ; pháp luật chỉ tập trung vào những nhóm dễ bị tổn thương như trẻ vị thành niên hoặc người đã trưởng thành nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, con chung của vợ chồng được xác định dựa trên hai yếu tố chính: sự kiện sinh đẻ và sự kiện nuôi dưỡng Sự kiện sinh đẻ là cơ sở tự nhiên để xác lập quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con cái Trong trường hợp vợ chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp, việc xác định con chung sẽ tuân theo nguyên tắc suy đoán pháp lý, nghĩa là "con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ mang thai trong thời kỳ đó được coi là con chung của vợ chồng" (khoản 1 Điều 63).

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, việc xác định con chung của vợ chồng dựa vào thời kỳ hôn nhân của cha mẹ Thời kỳ hôn nhân được định nghĩa là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, bắt đầu từ ngày đăng ký kết hôn cho đến ngày chấm dứt hôn nhân, như quy định tại khoản 7 điều 8 của luật này.

Con chung của vợ chồng được xác định theo nguyên tắc suy đoán pháp lý, bao gồm hai trường hợp: thứ nhất, con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; thứ hai, con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân Trong trường hợp đầu tiên, nếu đứa trẻ được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, nó sẽ tự động được coi là con chung của hai vợ chồng, trừ khi người cha không thừa nhận và phải có chứng cứ xác thực theo khoản 2 điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Khả năng thứ hai về việc xác định con chung là khi người vợ mang thai trước hôn nhân nhưng sinh con trong thời gian hôn nhân Hiện nay, việc sống chung và thử thách trước hôn nhân ngày càng trở nên phổ biến Nhiều cặp đôi sống chung cho đến khi người phụ nữ mang thai, sau đó mới tiến hành đăng ký kết hôn Trong trường hợp này, con sinh ra vẫn được coi là con chung của vợ chồng, theo quy định tại khoản 1 điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân được coi là con chung của vợ chồng Trong trường hợp vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng sinh con sau khi quan hệ hôn nhân chấm dứt, con vẫn được xác định là con chung nếu sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ ngày bản án ly hôn có hiệu lực hoặc kể từ ngày người chồng qua đời.

Theo khoản 1 điều 63 LHNGĐ 2000, "con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng" Đối với trường hợp sinh con bằng phương pháp khoa học, quan hệ cha mẹ - con được quy định tại Chương V Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003, trong đó con chung của vợ chồng là con được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh (khoản 1 điều 20 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP).

Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con không chỉ dựa vào huyết thống mà còn phát sinh từ việc nuôi dưỡng Chế định nuôi con nuôi đã tồn tại lâu đời trong lịch sử pháp luật Việt Nam, với nguồn gốc từ lợi ích của người nhận nuôi trong thời kỳ phong kiến Thời đó, việc nuôi con nuôi thường nhằm mục đích thờ tự, lao động không công hoặc "gánh vạ" cho gia đình, dẫn đến sự phân biệt giữa con đẻ và con nuôi, cũng như trọng nam khinh nữ Hiện nay, chế định nuôi con nuôi đã có nhiều thay đổi, tập trung vào việc xác lập quan hệ cha mẹ và con bền vững, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ được nhận làm con nuôi, cũng như cung cấp cho trẻ một môi trường gia đình đầy đủ sự nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục.

Mục đích chính của luật nuôi con nuôi là mang lại cho trẻ em một gia đình, thay vì chỉ đơn thuần cung cấp cho gia đình một đứa trẻ.

Quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được hình thành thông qua quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khác với quan hệ tự nhiên giữa cha mẹ đẻ và con đẻ Việc nuôi con nuôi chỉ được thiết lập khi tuân thủ các điều kiện pháp luật quy định Nếu cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi, con nuôi sẽ trở thành con chung của họ Quan hệ nuôi con nuôi phát sinh mọi quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, tương tự như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ Từ ngày giao nhận con nuôi, con nuôi sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ như con đẻ theo quy định tại Điều 24 Luật Nuôi con nuôi.

Pháp luật không phân biệt giữa con đẻ và con nuôi, mà nghĩa vụ nuôi dưỡng và chăm sóc giữa cha mẹ và con dựa vào quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi con, không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ Do đó, khi hôn nhân của cha mẹ tan vỡ, nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con không chấm dứt mà vẫn tồn tại, nhằm đảm bảo điều kiện cần thiết cho sự phát triển của con.

Sự kiện sống chung giữa cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng nhằm tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình mới có thể chăm sóc và hỗ trợ lẫn nhau Điều này không chỉ giúp xóa bỏ khoảng cách giữa họ mà còn thể hiện truyền thống nhân đạo, tương thân tương ái và tinh thần đoàn kết trong gia đình.

Khi vợ chồng ly hôn, mối quan hệ sống chung không còn tồn tại, dẫn đến việc mất đi sợi dây liên kết giữa cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng Do đó, các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ cũng chấm dứt, và cha dượng, mẹ kế không còn nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho con riêng của vợ hoặc chồng.

Khi cha mẹ ly hôn, đối tượng được bảo vệ quyền lợi là con chung của vợ chồng Tuy nhiên, không phải tất cả các con chung đều cần sự nuôi dưỡng của cha mẹ; pháp luật chỉ quy định nghĩa vụ đối với những nhóm con dễ bị tổn thương, bao gồm trẻ chưa thành niên và người đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống Những nhóm con này không thể tự chăm sóc bản thân, và việc xác định họ phụ thuộc vào độ tuổi, năng lực hành vi, khả năng lao động và tài sản hiện có.

 Đối với nhóm con chƣa thành niên:

Theo quy định tại điều 18 BLDS 2005 thì con chƣa thành niên là con chƣa đủ

18 tuổi Nhóm con chưa thành niên được chia ra thành: nhóm con chưa thành niên dưới

6 tuổi, nhóm con chƣa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chƣa đủ 15 tuổi và nhóm con chƣa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chƣa đủ 18 tuổi

Trẻ em dưới 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự, do đó, mọi giao dịch của các em đều phải được thực hiện bởi người đại diện theo pháp luật, bao gồm cha, mẹ hoặc người giám hộ.

Xác định người trực tiếp nuôi con khi cha mẹ ly hôn

Khi hôn nhân kết thúc bằng ly hôn, một trong những vấn đề quan trọng mà pháp luật cần giải quyết là quyền nuôi dưỡng con chung của vợ chồng Việc giao con cho một trong hai bên cha mẹ nuôi dưỡng được thực hiện theo các phương thức cụ thể nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ.

Thứ nhất, là các bên vợ chồng tự thỏa thuận

Thứ hai, nếu các bên vợ chồng không tự thỏa thuận đƣợc thì có yêu cầu tòa án giải quyết

2.2.1 Xác định người trực tiếp nuôi con khi có sự thỏa thuận của vợ chồng

Vợ chồng có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 điều 92 LHNGĐ 2000, giúp giảm xung đột và bảo vệ tâm lý trẻ Sự thỏa thuận này không chỉ tạo điều kiện cho cha mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ mà còn đảm bảo quyền lợi toàn diện cho con Khi hai bên cùng thỏa thuận, họ sẽ tôn trọng ý kiến của nhau và tự nguyện thực hiện, từ đó tạo ra môi trường sống thuận lợi cho trẻ, không ảnh hưởng đến học tập và phát triển Trẻ em là niềm hạnh phúc của cha mẹ, không phải là tài sản để tranh giành.

Để được chấp nhận, các thỏa thuận giữa vợ chồng cần đảm bảo tính hợp pháp và tự nguyện, tránh tình trạng một bên bị đe dọa, lừa dối hoặc ép buộc Hơn nữa, thỏa thuận này phải xuất phát từ quyền lợi toàn diện của con cái, nhằm ngăn chặn việc một trong hai bên lợi dụng thỏa thuận để trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm của bậc cha mẹ.

2.2.2 Xác định người trực tiếp nuôi con dựa vào quyết định của tòa án

Pháp luật tôn trọng thỏa thuận của vợ chồng về việc nuôi con khi ly hôn, vì phương pháp này mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển của trẻ Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên cũng đạt được thỏa thuận Trong trường hợp này, tòa án sẽ can thiệp để quyết định việc giao con cho một trong hai bên cha mẹ nuôi dưỡng, dựa trên yêu cầu của một hoặc cả hai bên.

Theo quy định tại khoản 2 điều 92 LHNGĐ 2000 tòa án sẽ giải quyết việc giao con cho một bên cha mẹ nuôi dƣỡng trên cơ sở các nguyên tắc sau:

Để đảm bảo quyền lợi toàn diện cho con chưa thành niên, cần chú trọng đến các điều kiện phát triển thể chất, học hành và tinh thần Tòa án sẽ xem xét hoàn cảnh thực tế của vợ hoặc chồng, bao gồm điều kiện kinh tế, sức khỏe, đạo đức, và thời gian dành cho việc chăm sóc và giáo dục con.

Sau khi ly hôn, vợ chồng không còn chung sống và không còn cùng nhau tạo lập tài sản, dẫn đến mỗi người có cuộc sống và thu nhập riêng biệt Dù vật chất không phải là tất cả, việc giao con cho một bên cha mẹ có điều kiện kinh tế tốt hơn sẽ giúp trẻ sống trong môi trường thuận lợi, tránh ảnh hưởng tiêu cực từ hoàn cảnh kinh tế khó khăn của một bên cha mẹ, từ đó đảm bảo đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho trẻ.

Khi cha mẹ ly hôn, trẻ cần sự quan tâm và sẻ chia từ cả hai bên Những cử chỉ ân cần và cuộc trò chuyện giúp cha mẹ hiểu tâm lý của con, đồng thời hỗ trợ trẻ vượt qua cú sốc tinh thần Điều này cần thiết để trẻ có thể hòa nhập vào cuộc sống như bao đứa trẻ khác trong gia đình bình thường Nếu cha mẹ chỉ chú trọng kiếm tiền để đáp ứng nhu cầu vật chất mà không dành thời gian cho đời sống tinh thần của con, họ vẫn chưa hoàn thành trách nhiệm của mình.

Tư cách của cha mẹ là yếu tố quyết định đến sự phát triển của trẻ Nếu cha mẹ có lối sống không lành mạnh và thiếu quan tâm đến nhu cầu của con, quyền lợi của trẻ sẽ không được đảm bảo, bất chấp điều kiện kinh tế Trẻ em như tờ giấy trắng, dễ bị ảnh hưởng bởi sự nuôi dưỡng từ cha mẹ có đạo đức kém, dẫn đến sự phát triển lệch lạc Làm sao trẻ có thể trở thành công dân tốt khi phải sống trong môi trường có cha say xỉn, nghiện ngập, hay mẹ chỉ biết cờ bạc, không quan tâm đến con cái?

Khi tòa án giải quyết việc giao con cho một bên cha mẹ nuôi dưỡng, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, nguyện vọng của con cần được xem xét Quyết định giao con cho ai nuôi dưỡng phải dựa trên quyền lợi của con và điều kiện thực tế của cha mẹ Ở độ tuổi này, trẻ đã có khả năng nhận thức về tình cảm và sự quan tâm của cha mẹ, từ đó có thể bày tỏ ý kiến về người nuôi dưỡng mình Việc lắng nghe ý kiến của trẻ không chỉ giúp các em thể hiện tâm tư, nguyện vọng mà còn đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho chúng, bởi trẻ là trung tâm trong quyết định này và chỉ có các em mới hiểu rõ nhất tình cảm của cha mẹ dành cho mình.

Theo Công văn số 61/2002/KHXX ngày 20/5/2002, việc lắng nghe ý kiến của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên là thủ tục bắt buộc trong trường hợp thuận tình ly hôn, ngay cả khi đã đạt được thỏa thuận về tài sản và việc nuôi dưỡng Nếu không hỏi ý kiến của trẻ mà vẫn ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, sẽ coi như điều tra chưa đầy đủ Tuy nhiên, ý kiến của trẻ chỉ mang tính tham khảo và không bắt buộc tòa án phải tuân theo, vì ở độ tuổi này, trẻ chưa thể nhận thức đầy đủ về lợi ích của mình, và hầu hết ý kiến đều dựa trên cảm tính.

Theo nguyên tắc, trẻ dưới ba tuổi sẽ được giao cho mẹ nuôi dưỡng, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên Nguyên tắc này dựa trên điều 45 của Luật Hôn nhân và Gia đình 1986, nhưng Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 đã thay đổi thành "con dưới ba tuổi" Trẻ em trong độ tuổi này cần sự chăm sóc của mẹ, vì mẹ với thiên chức và sự kiên nhẫn sẽ nuôi dưỡng trẻ tốt hơn Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt như mẹ có vấn đề về sức khỏe, nghiện ngập hoặc lối sống không lành mạnh, tòa án có thể xem xét giao con cho cha hoặc người khác nuôi dưỡng nếu có thỏa thuận Do đó, không phải lúc nào trẻ dưới ba tuổi cũng được giao cho mẹ.

Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định rằng trẻ em dưới 3 tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, tạo ra một ngoại lệ cho nguyên tắc này Mục đích chính của nguyên tắc và ngoại lệ này là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em một cách tốt nhất.

Tòa án khi giải quyết vấn đề nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật cần tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản Trong đó, nguyên tắc căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con được xem là then chốt, giúp tòa án xác định ai sẽ là người có quyền trực tiếp nuôi dưỡng con trong trường hợp ly hôn.

Nghĩa vụ và quyền của cha (mẹ) không trực tiếp nuôi con

Khi cha mẹ ly hôn, việc xác định người nuôi con là rất quan trọng, nhưng nghĩa vụ và quyền của cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con cũng cần được xem xét Người không nuôi con vẫn có trách nhiệm cấp dưỡng và quyền thăm nom con, mặc dù không sống chung.

2.3.1 Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con

2.3.1.1 Khái niệm nghĩa vụ cấp dưỡng

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái không bị ảnh hưởng bởi tình trạng hôn nhân của cha mẹ Sau khi ly hôn, người không nuôi con vẫn có trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng con Khi cha mẹ không thể sống chung, nghĩa vụ nuôi dưỡng sẽ được thực hiện thông qua việc cấp dưỡng.

Theo Điều 8, Khoản 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, cấp dưỡng là nghĩa vụ của một người trong việc đóng góp tài chính hoặc tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của những người không sống chung, bao gồm cả người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng Điều này áp dụng cho người chưa thành niên, người trưởng thành không có khả năng lao động, không có tài sản tự nuôi sống, và những người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của pháp luật.

Cấp dưỡng được hiểu là một nghĩa vụ tài sản, trong đó có sự chuyển giao lợi ích vật chất từ người có nghĩa vụ sang người được cấp dưỡng Người có nghĩa vụ phải cung cấp tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nhưng nghĩa vụ này không mang tính đền bù ngang giá và không diễn ra đồng thời Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi các thành viên trong gia đình không sống chung, không thể trực tiếp chăm sóc nhau, và luôn gắn liền với nhân thân của cả hai bên Theo quy định, nghĩa vụ này không thể thay thế hoặc chuyển giao cho người khác, chỉ những người có mối quan hệ gần gũi như cha, mẹ, con mới phải thực hiện nghĩa vụ này Điều này được ghi nhận trong các quy định pháp luật như khoản 1 điều 50 LHNGĐ 2000 và khoản 1 điều 315 BLDS 2005, nhấn mạnh rằng nghĩa vụ cấp dưỡng không thể được thay thế bằng nghĩa vụ khác.

2.3.1.2 Đặc điểm nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn

Việc cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn mang những đặc điểm riêng biệt, dựa trên những đặc điểm chung của nghĩa vụ cấp dưỡng.

Trong quan hệ cấp dưỡng, cha mẹ và con là những chủ thể riêng biệt, theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 Cụ thể, khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ áp dụng đối với cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con Việc chấm dứt hôn nhân của cha mẹ không làm thay đổi quan hệ pháp luật với con cái Dù cha mẹ không thể sống chung sau ly hôn, họ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với con Nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ không sống chung sẽ chuyển thành nghĩa vụ cấp dưỡng Đối tượng được cấp dưỡng là con chung của vợ chồng, bao gồm cả con đẻ và con nuôi Tuy nhiên, không phải tất cả con cái đều được cấp dưỡng; cha mẹ chỉ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống.

Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con cái không phụ thuộc vào khả năng kinh tế của người nuôi con Dù không trực tiếp nuôi dưỡng, cha mẹ vẫn phải đảm bảo cấp dưỡng để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con, nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ Điều này đặc biệt quan trọng đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân Trách nhiệm này thể hiện vai trò của cha mẹ trong việc chăm sóc và bảo đảm cuộc sống cho con cái sau khi ly hôn.

Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con là rất cần thiết để bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ Nếu người không nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng, tòa án sẽ giải thích cho họ hiểu tầm quan trọng của việc này Trong trường hợp họ tự nguyện từ chối yêu cầu cấp dưỡng và có đủ khả năng nuôi dưỡng con, tòa án sẽ không buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Theo điểm a mục 11 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000, quan hệ hôn nhân và gia đình được xác định là quan hệ dân sự, được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên Do đó, pháp luật không có quyền cưỡng ép các bên thực hiện trái với thỏa thuận hợp pháp của họ.

Mức cấp dưỡng là số tiền hoặc tài sản mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải cung cấp cho người được cấp dưỡng, nhằm đảm bảo họ có khả năng đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống.

Khi giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau ly hôn, pháp luật ưu tiên sự thỏa thuận giữa cha mẹ Mức cấp dưỡng sẽ được xác định dựa trên sự đồng thuận của cả hai bên, theo quy định tại khoản 1 điều 53 và điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.

Khi cha mẹ không thể thỏa thuận về mức cấp dưỡng nuôi con, tòa án sẽ can thiệp để giải quyết vấn đề này Quyết định của tòa án về mức cấp dưỡng sẽ dựa trên hai yếu tố chính: thu nhập và khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, cùng với nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.

Theo quy định tại khoản 1 điều 16 NĐ 70/2001/NĐ-CP, người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải có thu nhập thường xuyên hoặc tài sản sau khi trừ chi phí sinh hoạt cần thiết Để được xem là có khả năng thực tế thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, tổng thu nhập của người đó trừ đi chi phí phải cho ra một số dương Khả năng kinh tế của mỗi cá nhân phụ thuộc vào thu nhập thực tế, không chỉ từ lao động mà còn từ các nguồn thu nhập hợp pháp khác như trúng xổ số, thừa kế, hoặc tặng cho.

Khi xác định mức cấp dưỡng, không chỉ dựa vào khả năng kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà còn cần xem xét đến nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng Mức cấp dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con cái, bao gồm các chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành Nhu cầu thiết yếu này khác nhau giữa các đối tượng con được cấp dưỡng do sự khác biệt về độ tuổi, tâm sinh lý và chế độ sinh hoạt Nhu cầu này được xác định dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú.

Thay đổi người (cha hoặc mẹ) trực tiếp nuôi con

Việc thỏa thuận giữa vợ chồng hoặc quyết định của tòa án về việc giao con cho một bên nuôi dưỡng không phải là quyết định cuối cùng Trong những trường hợp cụ thể, nếu một trong hai bên cha hoặc mẹ không thể đảm bảo cuộc sống cho con, việc thay đổi người nuôi dưỡng là cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho trẻ.

2.4.1 Điều kiện để thay đổi người (cha hoặc mẹ) trực tiếp nuôi con

Sau khi cha mẹ ly hôn, trẻ em thường phải chịu nhiều tổn thương và cần một môi trường sống ổn định Việc tạo điều kiện cho các em có cuộc sống mới thuận lợi là rất quan trọng Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều trường hợp quyền lợi của trẻ không được đảm bảo khi sống chung với cha hoặc mẹ Do đó, pháp luật đã quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn để bảo vệ quyền lợi của trẻ.

Căn cứ quan trọng nhất để thay đổi người trực tiếp nuôi con là khi người nuôi không đảm bảo quyền lợi toàn diện cho con, theo điều 93 LHNGĐ 2000 Mục đích của việc thay đổi này là nhằm mang lại cho con một điều kiện sống tốt hơn Khi quyền lợi của con không được đảm bảo, nghĩa là cha mẹ nuôi không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thần, học hành, vui chơi và giải trí, cũng như không quan tâm và chăm sóc cho con.

Căn cứ thứ hai để yêu cầu thay đổi người nuôi con là đơn yêu cầu của một hoặc cả hai bên vợ chồng gửi đến tòa án Theo điều 93 LHNGĐ 2000, cha mẹ trẻ có quyền yêu cầu này Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều cha mẹ sau khi ly hôn không quan tâm đến cuộc sống của con cái và không biết rằng quyền lợi của trẻ không được đảm bảo, dẫn đến việc không có đơn yêu cầu thay đổi người nuôi con Trong những trường hợp này, ai sẽ đứng ra bảo vệ quyền lợi của con chung?

Khi con từ đủ chín tuổi trở lên, nguyện vọng của trẻ cần được xem xét trong quyết định nuôi dưỡng sau ly hôn Việc thay đổi người nuôi cũng phải dựa trên ý kiến của trẻ, giúp thẩm phán có cái nhìn toàn diện hơn về quyền lợi của con Những cảm nhận và ý kiến của trẻ sẽ hỗ trợ trong việc đảm bảo quyền lợi của trẻ được bảo vệ một cách tốt nhất.

2.4.2 Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi con

Sau khi tòa án phán quyết chấp thuận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, cha hoặc mẹ đang nuôi con sẽ phải bàn giao con cho người còn lại.

Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng, tòa án sẽ giải quyết theo các điều 53, 54, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 Bên cạnh nghĩa vụ cấp dưỡng, cả hai bên đều có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con Khi một bên không trực tiếp nuôi con, họ sẽ bắt đầu có quyền nuôi dưỡng con và nghĩa vụ cấp dưỡng của họ sẽ chấm dứt, chuyển thành nghĩa vụ nuôi dưỡng theo khoản 4 điều 61 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:02

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. C.Mác (1978), Bản dự luật về ly hôn - C.Mác- Ph.Ăngghen - tập 1, Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản dự luật về ly hôn - C.Mác- Ph.Ăngghen
Tác giả: C.Mác
Nhà XB: Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội
Năm: 1978
3. Đinh Duy Bằng (2011), “Thi hành án cấp dƣỡng nuôi con một số vấn đề từ thực tiễn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (11), tr.57 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi hành án cấp dƣỡng nuôi con một số vấn đề từ thực tiễn”, "Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
Tác giả: Đinh Duy Bằng
Năm: 2011
4. Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam
Tác giả: Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm: 2004
5. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, nhà xuất bản Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình
Tác giả: Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: nhà xuất bản Công an nhân dân
Năm: 2009
8. Nguyễn Ngọc Điện (2000), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đìnhViệt Nam, tập 1- Gia đình, Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đìnhViệt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Điện
Nhà XB: Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2000
9. Nguyễn Thị Minh Hằng (2003), “Một số đặc điểm tâm lí của trẻ em có cha mẹ ly hôn”, Tạp chí tâm lí học, (2), tr.27 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số đặc điểm tâm lí của trẻ em có cha mẹ ly hôn”, "Tạp chí tâm lí học
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Hằng
Năm: 2003
10. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (2000), Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, Nhà xuất bản Trẻ.III. KHÓA LUẬN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay
Tác giả: Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa
Nhà XB: Nhà xuất bản Trẻ. III. KHÓA LUẬN
Năm: 2000
2. Nguyễn Thị Hoài Trâm (2008), Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.V.TRANG WEB Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Tác giả: Nguyễn Thị Hoài Trâm
Năm: 2008
2. Bộ luật dân sự Bắc kì 1931 Khác
3. Bộ luật dân sự Nam kì 1884 Khác
4. Bộ luật dân sự Trung kì 1936 Khác
6. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 Khác
7. Hồng Đức thiện chính thƣ Khác
9. Luật Hôn nhân và gia đình 1959 Khác
10. Luật Hôn nhân và gia đình 1986 Khác
11. Luật Hôn nhân và gia đình 2000 Khác
12. Luật Người khuyết tật 2010 Khác
13. Luật Thi hành án dân sự 2008 Khác
14. Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Hôn nhân và gia đình 2000 Khác
15. Nghị định 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w