XÁC ĐỊNH TRƯỜNG HỢP BẢO LÃNH BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN ĐẢM BẢO CHO KHOẢN VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Thế chấp bằng tài sản của người thứ ba
Thế chấp tài sản là hành động mà một bên sử dụng tài sản của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ mà không phải chuyển giao tài sản đó cho bên kia Theo quy định tại khoản 1 Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015, thế chấp tài sản mang ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm nghĩa vụ.
Thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba là hình thức bảo đảm nghĩa vụ nợ, trong đó chủ nợ là bên nhận bảo đảm, còn bên thứ ba là bên bảo đảm Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của bên nợ, tùy thuộc vào thỏa thuận hoặc quy định pháp luật Nếu bên nợ vi phạm nghĩa vụ, chủ nợ có quyền xử lý tài sản bảo đảm mà bên thứ ba đã sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ.
X vay tiền từ Ngân hàng Y, trong khi M đã có thỏa thuận với Ngân hàng Y về việc sử dụng tài sản của mình làm tài sản thế chấp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
X Trường hợp này s phát sinh ba quan hệ, quan hệ X – Y (theo quy định về quan hệ nghĩa vụ), quan hệ M – Y (theo quy định về biện pháp thế chấp) và quan hệ X –
M (quan hệ có đền bù hoặc không có đền bù) Khi X vi phạm nghĩa vụ trả tiền cho
Y thì Y có quyền ử lý tài sản thế chấp mà M dùng để bảo đảm thanh toán nợ của
X Trong trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp uật có quy định thì X phải hoàn trả ại giá trị tài sản của M đã bị ử lý để thanh toán nợ của X, ngoài ra có thể bao gồm cả phí dịch vụ, tiền thù lao
Theo quy định pháp luật hiện hành, có nhiều quan điểm khác nhau về việc bên thế chấp có bắt buộc phải là bên có nghĩa vụ hay có thể là bên thứ ba sử dụng tài sản của mình để thế chấp cho khoản vay của người khác tại tổ chức tín dụng Sự khác biệt này đã tồn tại từ Bộ luật Dân sự năm 2005 đến Bộ luật Dân sự năm 2015, cho thấy sự phức tạp trong việc áp dụng quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thế chấp.
Khoản 1 Ðiều 342 BLDS năm 2005 quy định về thế chấp như sau: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc s hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp Có quan điểm cho rằng, các quy định của BLDS năm 2005 đã bỏ quy định bên thế chấp bắt
Giáo trình "Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" do Đỗ Văn Đại làm chủ biên, được xuất bản lần thứ nhất và có chỉnh sửa, bổ sung bởi Trường Đại học Luật Tp.HCM vào năm 2019 Sách do Nxb Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam phát hành, cung cấp kiến thức quan trọng về pháp luật liên quan đến hợp đồng và bồi thường thiệt hại, là tài liệu hữu ích cho sinh viên và những người làm trong lĩnh vực pháp lý.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, bên có nghĩa vụ phải đồng thời là bên thực hiện nghĩa vụ trong các giao dịch thế chấp Điều này được nêu rõ trong tài liệu của Nguyễn Hồng Hải (2019) và có thể tham khảo thêm tại trang thông tin pháp luật dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, nghĩa vụ bảo đảm bằng thế chấp tài sản có thể thuộc về bên thế chấp (chủ sở hữu tài sản) hoặc một bên khác không phải là bên thế chấp Do đó, quan hệ thế chấp được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 xảy ra trong hai trường hợp.
Thế chấp là hành động sử dụng tài sản của cá nhân để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền.
Thế chấp là hình thức sử dụng tài sản của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ dân sự của người khác đối với bên có quyền.
Theo quan điểm nêu trên, việc thế chấp trực tiếp của bên thứ ba được ghi nhận, trong đó bên thứ ba sử dụng tài sản của mình để đảm bảo cho khoản vay của người khác tại tổ chức tín dụng.
Theo tác giả Đỗ Hồng Thái, khoản 1 Điều 342 BLDS năm 2005 quy định rằng thế chấp tài sản là việc bên thế chấp sử dụng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ dân sự với bên nhận thế chấp Điều này cho thấy bên thế chấp không chỉ là bên có nghĩa vụ mà còn có thể là bên thứ ba, khác với quy định về bên bảo lãnh phải là "người thứ ba" theo Điều 361 BLDS năm 2005 Do đó, hợp đồng thế chấp giữa bên thứ ba và bên nhận thế chấp hoàn toàn hợp pháp và không thể bị coi là vô hiệu chỉ vì bên thứ ba ký kết hợp đồng.
Quan điểm của các tác giả đã được xác nhận trong Nghị định số 11/2012/NĐ-CP, liên quan đến việc sửa đổi và bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP.
Bảo lãnh có sử dụng thế chấp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh 16 1.3 Phân biệt thế chấp bằng tài sản của người thứ ba và bảo lãnh bằng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng
Bảo lãnh theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 là một biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân, trong đó bên bảo lãnh cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến thời hạn.
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là hình thức bảo đảm nghĩa vụ tài chính, trong đó bên bảo lãnh cam kết sử dụng tài sản của mình để trả nợ thay cho bên được bảo lãnh nếu bên này không thực hiện nghĩa vụ đúng hạn Tổ chức hoặc cá nhân bảo lãnh có trách nhiệm đảm bảo nghĩa vụ được thực hiện, đặc biệt khi bên có nghĩa vụ không đáp ứng yêu cầu hoặc thực hiện không đầy đủ.
12 Trường Đại học Luật Tp HCM, Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2019), t đd (3), tr.313
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là hình thức bảo đảm khi người có nghĩa vụ cần sự hỗ trợ tài chính từ bên ngoài Trong mối quan hệ này, có hai hợp đồng chính: một giữa bên bảo lãnh (bên thứ ba) và bên có quyền (bên nhận bảo lãnh), và một giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) Phương thức bảo lãnh thường được thực hiện qua cầm cố hoặc thế chấp tài sản, theo quy định của pháp luật Hợp đồng bảo lãnh, ghi nhận sự thỏa thuận giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh, có thể được lập thành văn bản riêng biệt hoặc được bao gồm trong hợp đồng chính.
Trong trường hợp này, nghĩa vụ được bảo đảm không thuộc về bên nợ mà là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của bên bảo lãnh Nếu bên nợ vi phạm nghĩa vụ đã cam kết, chủ nợ phải yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên nợ Chỉ khi bên bảo lãnh cũng vi phạm nghĩa vụ của mình, chủ nợ mới có quyền xử lý tài sản mà bên bảo lãnh đã dùng để bảo đảm nghĩa vụ.
Trong trường hợp A bảo lãnh cho B vay tiền từ Ngân hàng C, A sử dụng tài sản của mình để thế chấp nhằm đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh Từ đó, phát sinh ba mối quan hệ: giữa B và Ngân hàng C theo quy định về bảo lãnh, giữa A và Ngân hàng C theo quy định về thế chấp, và giữa A và B, có thể là quan hệ có đền bù hoặc không có đền bù.
Ngân hàng C không có quyền xử lý tài sản thế chấp của B khi B vi phạm nghĩa vụ trả tiền mà trước tiên phải yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thay cho B Chỉ khi A vi phạm nghĩa vụ bảo lãnh của mình, Ngân hàng C mới có quyền xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận hoặc quy định pháp luật Nếu có thỏa thuận hoặc quy định pháp luật, B phải hoàn trả giá trị tài sản của A đã bị xử lý để thanh toán nợ, bao gồm cả phí dịch vụ và tiền thù lao.
Việc sử dụng tài sản của người khác để đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh là hoàn toàn hợp pháp Chẳng hạn, khi M bảo lãnh cho N vay tiền từ Ngân hàng P, Y có thể dùng tài sản của mình để thế chấp nhằm bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh của M đối với N Tình huống này tạo ra bốn mối quan hệ pháp lý: N – Ngân hàng P, M – Ngân hàng P, M – N, và Y – M.
Theo quy định về biện pháp thế chấp, quan hệ giữa P và Y, N và M, cũng như Y và M có thể là quan hệ có đền bù hoặc không có đền bù Khi N vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng P, Ngân hàng P chưa có quyền xử lý tài sản thế chấp mà phải yêu cầu M thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho N.
N, nếu M vi phạm nghĩa vụ của mình thì Ngân hàng P mới có quyền ử lý tài sản thế chấp mà Y dùng để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng P Trong trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp uật quy định thì N, M phải hoàn trả ại giá trị tài sản của người bảo đảm nghĩa vụ cho mình (M đối N, Y đối với M) đã bị ử lý để thanh toán nghĩa vụ của N và M, ngoài ra có thể còn bao gồm cả phí dịch vụ, tiền thù lao
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã đưa ra những sửa đổi quan trọng, đặc biệt là quy định về phạm vi bảo lãnh tại Điều 336 Cụ thể, khoản 3 Điều 336 cho phép các bên thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, như thế chấp hoặc cầm cố tài sản Quy định này mang tính phổ quát cao, cho phép các bên linh hoạt lựa chọn biện pháp bảo đảm phù hợp với từng trường hợp cụ thể, đồng thời áp dụng các quy định tương ứng về xử lý tài sản theo BLDS năm 2015.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 336 BLDS năm 2015, việc thế chấp tài sản của bên bảo lãnh nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của người bảo lãnh, không phải để đảm bảo nghĩa vụ trả tiền của người được bảo lãnh (người vay) Điều 44 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định rằng các bên có thể thỏa thuận về việc xác lập giao dịch bảo đảm để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh, phù hợp với quy định của BLDS và các văn bản pháp luật liên quan.
Khoản 13 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi Điều 47 Nghị định 163/2006/NĐ-CP như sau: “Việc xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo quy định tại Điều 369 BLDS được thực hiện như sau: Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì tài sản cầm cố, thế chấp được xử lý theo quy định tại Chương IV của Nghị định này”
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn liên quan, bảo lãnh bằng thế chấp tài sản là hình thức bên thứ ba đứng ra bảo lãnh cho người vay tại tổ chức tín dụng, sử dụng tài sản của bên thứ ba để đảm bảo cho quan hệ bảo lãnh này.
1.3 Phân biệt thế chấp bằng tài sản của người thứ ba và bảo lãnh bằng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay tại các tổ chức tín dụng
Việc nhận diện bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh bằng thế chấp trong các khoản vay tại các TCTD và quan hệ thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau Theo pháp luật hiện hành, nếu bên thứ ba sử dụng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay mà không chuyển giao tài sản cho bên nhận bảo đảm, thì các bên cần xác lập hợp đồng bảo lãnh hay thế chấp? Đây là vấn đề đang được tranh cãi và cần làm rõ.
Theo Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015, thế chấp tài sản là hành vi mà một bên (gọi là bên thế chấp) sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ mà không chuyển giao tài sản đó cho bên kia (gọi là bên nhận thế chấp).
MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢO LÃNH VÀ THẾ CHẤP TRONG TRƯỜNG HỢP BẢO LÃNH BẰNG THẾ CHẤP TÀI SẢN ĐẢM BẢO CHO KHOẢN VAY TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Hợp đồng thế chấp vô hiệu (Hợp đồng phụ vô hiệu)
Mối quan hệ giữa các giao dịch cho thấy rằng nghĩa vụ chính được bảo đảm bởi bảo lãnh, trong khi nghĩa vụ bảo lãnh lại được bảo đảm bởi thế chấp Do đó, bảo lãnh là phụ thuộc vào nghĩa vụ chính và thế chấp là phụ thuộc vào bảo lãnh Khi một trong các giao dịch này vô hiệu, quy định về hợp đồng chính và phụ sẽ được áp dụng, theo đó sự vô hiệu của hợp đồng phụ không ảnh hưởng đến hợp đồng chính Cụ thể, "sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính" (khoản 3 Điều 410 BLDS năm 2005, khoản 2 Điều 407).
BLDS năm 2015) và “Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm (khoản 2 Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP) 21
Theo Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, giao dịch bảo đảm sẽ không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ khi có thỏa thuận khác.
Trong mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ, hiệu lực của hợp đồng chính là độc lập và không bị ảnh hưởng bởi hợp đồng phụ Hợp đồng chính chỉ bị vô hiệu khi vi phạm các quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực Tuy nhiên, pháp luật cũng công nhận sự thỏa thuận của các bên về việc hợp đồng chính có thể phụ thuộc vào hợp đồng phụ Nếu các bên thỏa thuận rằng hợp đồng phụ là phần không thể tách rời của hợp đồng chính, thì khi hợp đồng phụ vô hiệu, hợp đồng chính cũng sẽ chấm dứt.
Giao dịch bảo đảm sẽ trở nên vô hiệu nếu vi phạm các điều kiện có hiệu lực theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 Trong trường hợp này, các bên có quyền tự quyết định về việc yêu cầu hoặc không yêu cầu tuyên bố giao dịch bảo đảm vô hiệu Thẩm quyền tuyên bố giao dịch bảo đảm vô hiệu thuộc về Tòa án, và thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch bảo đảm vô hiệu được quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, sau 02 năm kể từ ngày hợp đồng được xác lập, thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch bảo đảm vô hiệu không bị hạn chế đối với các hợp đồng quy định tại Điều 123 và 124 Điều 131 của Bộ luật này cũng quy định rõ về vấn đề này.
Theo Đỗ Văn Đại (2017), giao dịch bảo đảm vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm hợp đồng bị vô hiệu Các bên có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những giá trị đã nhận Nếu không thể hoàn trả bằng hiện vật, phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi hoặc lợi tức bị tịch thu theo quy định pháp luật Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Khi giao dịch bảo đảm vô hiệu, điều này có thể ảnh hưởng đến hợp đồng tín dụng và vi phạm quy định về bảo đảm tiền vay theo khoản 1 Điều 94 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, làm giảm khả năng thu hồi tiền cho vay Các bên có thể thỏa thuận biện pháp bảo đảm thay thế cho giao dịch vô hiệu, tuân thủ quy định pháp luật Nếu giao dịch bảo đảm vô hiệu do vi phạm hình thức, các bên cần hoàn tất thủ tục cần thiết để tuân thủ quy định về hình thức giao dịch dân sự Trong trường hợp bảo lãnh bằng thế chấp tài sản, bên bảo lãnh sử dụng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh, trong đó bảo lãnh là hợp đồng chính và thế chấp là hợp đồng phụ Theo quy định tại khoản 2 Điều 407 BLDS năm 2015 và khoản 2 Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, nghĩa vụ bảo lãnh không bị vô hiệu mặc dù biện pháp thế chấp vô hiệu, do đó hợp đồng bảo lãnh vẫn còn giá trị pháp lý và ràng buộc người bảo lãnh.
Vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị
2.2.1 Vướng mắc trong thực tiễn
Ngày 13/4/2012, Công ty TNHH B do ông Ngô Quang M là giám đốc Công ty đại diện có trụ sở tại Xóm C, xã D, huyện X, tỉnh Thái Nguyên đã ký Hợp đồng
Rất tiếc, không tìm thấy trang này.
23 Đỗ Văn Đại (2017), t đd (16), tr.738
Vào ngày 06/6/2017, TAND tỉnh Thái Nguyên đã ra bản án số 03/2017/KDTM-PT liên quan đến vụ vay vốn giữa Ngân hàng TMCP A - Chi nhánh Thái Nguyên và vợ chồng anh Nông Quang N, chị Nguyễn Thị Phương T Họ đã vay số tiền 750.000.000 đồng để bổ sung vốn lưu động và trả lương cho nhân viên Để đảm bảo khoản vay, vợ chồng anh N đã ký Hợp đồng thế chấp số 0033DN 01/HĐTC-A/34/11/BĐ vào ngày 30/3/2011, với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng 74m² đất thổ cư, và đã thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định.
TAND huyện Đồng Hỷ đã tiến hành xét xử vụ án liên quan đến hợp đồng thế chấp số 0033DN 01/HĐTC-A/34/11/BĐ ngày 30/3/2011 giữa Ngân hàng TMCP A và ông Nông Quang N cùng bà Nguyễn Thị Phương T, tuyên bố hợp đồng này bị vô hiệu do có tranh chấp.
Bản án phúc thẩm số 03/2017/KDTM-PT ngày 06/6/2017 của TAND tỉnh Thái Nguyên xác định Hợp đồng thế chấp số 0033DN 01/HĐTC-A/34/11/BĐ ngày 30/3/2011 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần A với ông Nông Quang N và bà Nguyễn Thị Phương T bị vô hiệu Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định rằng hợp đồng này thực chất là hợp đồng bảo lãnh, không phải hợp đồng thế chấp, vì ông N và bà T đã có tài sản bảo lãnh cho khoản vay 750.000.000 đồng của Công ty TNHH B với ngân hàng A Việc xác định quan hệ pháp lý đã sai, và việc công chứng hợp đồng đã vi phạm nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 130 Luật đất đai năm 2003, yêu cầu hợp đồng thế chấp, bảo lãnh phải được thực hiện ở cấp xã, phường Theo khoản 2 Điều 122 BLDS năm 2005, Hợp đồng số 0033DN 01/HĐTC-A/34/11/BĐ vô hiệu do không được công chứng theo thủ tục và Luật công chứng.
HĐXX xác định rằng hợp đồng giữa ông N và bà T với ngân hàng A là hợp đồng bảo lãnh, không phải hợp đồng thế chấp Hơn nữa, hợp đồng này được tuyên vô hiệu do không được công chứng theo quy định Điều này có nghĩa là hợp đồng bảo lãnh chính đã bị tuyên vô hiệu, và việc thế chấp để đảm bảo cho bảo lãnh cũng không có giá trị pháp lý.
Vụ việc tương tự xảy ra vào cuối năm 2012, khi TAND huyện Củ Chi ra bản án sơ thẩm, và đầu năm 2013, TAND thành phố Hồ Chí Minh tuyên hủy hai hợp đồng thế chấp mà Eximbank ký với bà Nguyễn Thị Hồng Tươi để đảm bảo nợ cho Công ty sản xuất thương mại cao su Thành Công Hợp đồng thế chấp bị hủy vì cơ quan xét xử cho rằng bản chất của nó là hợp đồng bảo lãnh, không phải hợp đồng thế chấp Vấn đề chưa rõ ràng là khi ngân hàng cho vay, nếu khách hàng nhờ bên thứ ba đưa tài sản vào để đảm bảo nghĩa vụ dân sự, thì hợp đồng giữa bên thứ ba và ngân hàng được xác định là gì: hợp đồng bảo lãnh hay hợp đồng thế chấp? Trước đây, nhiều ngân hàng đã bày tỏ quan ngại về vấn đề này, đặc biệt khi TAND thành phố Quảng Ngãi tuyên hủy hợp đồng thế chấp của bên thứ ba ký với ngân hàng để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho người vay tiền Một trong những nhận định của HĐXX là hình thức hợp đồng không đúng, ngân hàng cần ký hợp đồng bảo lãnh thế chấp thay vì hợp đồng thế chấp.
Việc tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu đồng nghĩa với việc không công nhận hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh là không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 407 BLDS năm 2015 và khoản 2 Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP Nghĩa vụ bảo lãnh vẫn có hiệu lực ngay cả khi hợp đồng thế chấp vô hiệu, vì hợp đồng thế chấp chỉ là hợp đồng phụ cho bảo lãnh, không ảnh hưởng đến hiệu lực của bảo lãnh Do sự hiểu và giải thích pháp luật không thống nhất của các cơ quan xét xử, các khoản vay có tài sản đảm bảo có thể bị coi là khoản vay không có tài sản đảm bảo Vì vậy, cần áp dụng thống nhất pháp luật, tôn trọng tự do ý chí của các bên trong giao dịch dân sự và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể.
Theo quyết định giám đốc thẩm của TAND tối cao trong một vụ án tương tự, hợp đồng thế chấp được xác định là vô hiệu, nhưng điều này không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh.
Vụ án Ông Ớt và bà Con liên quan đến việc ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo lãnh cho Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nhật Nguyệt vay tiền từ Vietinbank – Chi nhánh Nhơn Trạch đã dẫn đến tranh chấp Trong quá trình giải quyết, ông Ớt và bà Con khẳng định rằng họ chỉ muốn vay 100.000.000 đồng từ bà Thu để mua máy cày, do đó đã cho bà Thu mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thực hiện việc thế chấp tại Vietinbank – Chi nhánh Long.
Thành Bà Thu có đưa hồ sơ thế chấp cho ông, bà ký thì số tiền vay là 150.000.000
Theo Bùi Trang (2016), hàng triệu hợp đồng thế chấp của ngân hàng có nguy cơ bị vô hiệu hóa, gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống tài chính Bài viết trên Tạp chí Kiểm sát chỉ ra những vấn đề pháp lý liên quan và khuyến nghị các biện pháp cần thiết để khắc phục tình trạng này.
Quyết định số 14/2013/KDTM-GĐT ngày 10/6/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xác định rằng ông, bà không biết việc bà Thu đã lừa dối họ để thế chấp vay 951.000.000.000 đồng tại Vietinbank - Chi nhánh Nhơn Trạch.
Bà Thu thừa nhận rằng bà không thông báo cho ông Ớt và bà Con về số tiền vay, đồng thời cho biết việc vay thêm tiền mà không thông báo cho họ là do bà tin rằng mình có khả năng trả nợ Lời khai của bà Thu nhất quán với lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cùng với các tài liệu khác.
Việc công chứng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ ba số 0706 0005/HĐTC ngày 02/4/2007 không tuân thủ quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP Cụ thể, hợp đồng có nhiều trang nhưng chỉ có trang cuối cùng có chữ ký của người yêu cầu công chứng, trong khi các trang còn lại thiếu chữ ký tắt theo Điều 59 của nghị định này Bản sao Hợp đồng do Vietinbank cung cấp cũng không có dấu giáp lai của Phòng công chứng số 4 ở trang đầu tiên, nơi thể hiện số tiền bảo đảm, và trang cuối cùng thiếu dấu vân tay của bà Con, điều này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác minh làm rõ.
Khi thẩm định tài sản không có mặt ông Ớt, bà Con (phù hợp với lời khai của đại diện Vietinbank và lời khai của ông Ớt, bà Con)
Theo ông Ớt, bà Con không biết chữ, vì vậy ông đã viết và ký tên thay cho bà Tuy nhiên, công chứng viên cho biết bà Con chỉ có thể viết tên của mình Do đó, cần xác định xem chữ "Con" trong các hợp đồng và giấy tờ liên quan có phải do bà Con viết hay không để có thêm cơ sở đánh giá.
HĐTP TAND tối cao đã nhận định rằng quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm về Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ ba số 0706 0005/HĐTC ngày 02/4/2007 không có đủ căn cứ pháp lý Do đó, cần hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng này, đã được ký kết bởi Viettinbank – Chi nhánh Nhơn Trạch, ông Ớt, bà Con và DNTN Nhật Nguyệt Tòa án cấp sơ thẩm sẽ được giao hồ sơ vụ án để xem xét lại và xác minh trách nhiệm bảo lãnh của ông Ớt, bà Thu.