NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH ÁN TREO
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển các quy định về án treo
1.2.1 Quy định án treo thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam đã có nhiều bộ luật hình, tiêu biểu là Bộ luật hình thư của nhà Lý ban hành năm 1042, Luật Hồng Đức của nhà Lê năm 1483, và Luật Gia Long của nhà Nguyễn năm 1815 Mặc dù các bộ luật này có những quy định khoan hồng đối với người già, phụ nữ và trẻ em, nhưng chưa quy định về án treo Trong thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam được chia thành ba khu vực với ba bộ luật khác nhau; tại Bắc kỳ áp dụng Bộ luật hình Bắc kỳ, trong khi Hà Nội và Hải Phòng theo bộ Hình luật Pháp tu chính, và Trung kỳ do triều đình quản lý.
Huế đã ban hành và thực hiện Bộ luật Gia Long, ngoại trừ Đà Nẵng, nơi áp dụng bộ Hình luật Pháp tu chính theo quy chế địa phương Tại Nam Kỳ, bộ Hình luật Pháp tu chính cùng với các nghị định lập pháp của toàn quyền Đông được áp dụng.
Dương áp dụng chung cho phần lãnh thổ 03 nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) 17
Vào thời điểm đó, tại Nam Kỳ, án treo đã được quy định và áp dụng theo đạo luật Pháp quốc ngày 26.3.1891, còn gọi là luật Berenger, được ban hành tại Đông Dương theo Nghị định ngày 10.1.1893 Án treo, hay còn gọi là "Huyền án," là một hình thức phạt mà việc thi hành hình phạt sẽ bị tạm hoãn Huyền án đi kèm với điều kiện về việc thi hành án văn, và sự trừng phạt sẽ phụ thuộc vào điều kiện đình hoãn này.
Huyền án, hay còn gọi là án treo, là một biện pháp khoan hồng mà Tòa án áp dụng cho những người phạm tội chưa có tiền án Điều kiện để áp dụng huyền án là người phạm tội phải thể hiện sự ăn năn hối cải và có khả năng tái hòa nhập cộng đồng.
17 http://nghiencuuluat.com/?language=vi&nv=news&op=LUAT-CONG/Nguon-cua-Luat-Hinh-su-Viet-nam- phan-3-51
Theo Nguyễn Quang Quýnh (1973), trong tác phẩm "Hình phạt tổng quát", hiệu lực đình chỉ thi hành hình phạt sẽ được áp dụng nếu sau 08 năm can phạm không tái phạm, lúc đó án cũ sẽ được xóa Tuy nhiên, Tòa án chỉ có quyền cho bị can hưởng huyền án khi hình phạt tuyên án là một tiểu hình, bao gồm phạt giam hoặc phạt tiền.
1.2.2 Quy định án treo thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1985
Án treo là một chế định pháp lý quan trọng trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam, được quy định từ Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Theo đó, án treo được hiểu là biện pháp hoãn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, áp dụng cho những trường hợp có lý do đáng khoan hồng như tuổi còn trẻ, biết hối cải hoặc do lầm lẫn Khi tòa án tuyên án treo, bản án sẽ không được thi hành ngay, và nếu trong vòng 5 năm kể từ ngày tuyên án, người bị kết án không tái phạm, bản án sẽ bị hủy bỏ Tuy nhiên, nếu trong thời gian này, họ bị kết án một lần nữa, án treo sẽ được thi hành.
Theo Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức Toà án Quân sự của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, án treo được hiểu là "biện pháp hoãn hình có điều kiện" Tòa án có thể quyết định cho tội nhân hưởng án treo khi có lý do đáng khoan hồng, và bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án.
Chế định án treo ở Việt Nam hiện nay được hiểu một cách khái quát nhưng chính xác, phản ánh cách tiếp cận khái niệm án treo theo luật hình sự tương đồng với nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Trong lần pháp điển hóa đầu tiên, các cụm từ liên quan đến án treo thể hiện rõ ràng rằng "Khi xử phạt tù " chỉ ra rằng người phạm tội bị Tòa án xử phạt bằng hình thức tù, không phải các hình phạt khác Bên cạnh đó, cụm "Nếu có lý do chính đáng khoan hồng " nhấn mạnh rằng người phạm tội có thể được hưởng sự khoan hồng của nhà nước dựa trên các yếu tố như nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức độ thực hiện hành vi phạm tội.
19 Nguyễn Quang Quýnh, tlđd 18, tr 236
20 Tòa án quân sự trung ương (1997), Lịch sử ngành Tòa án quân sự Việt Nam (1945 – 1995), Nxb Quân đội nhân dân, tr.8
Từ những năm 1970 đến khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời, khái niệm án treo ở Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể Theo Thông tư 19/TATC ngày 02/10/1974 và kết luận của Chánh án TANDTC tại Hội nghị tổng kết năm 1976, án treo được xem là hình thức xử lý nhẹ hơn tù giam Tuy nhiên, quan điểm này sau đó không được công nhận, dẫn đến sự hiểu biết khác về án treo trong hệ thống pháp luật.
1.2.3 Quy định án treo trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1985 đến nay
* Pháp điển lần thứ nhất:
Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày 01.01.1986, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình lập pháp và chính sách hình sự của Việt Nam Trong đó, án treo được quy định chính thức tại Điều 44, được xem là "một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện."
Một là, điều kiện cho hưởng án treo:
Khoản 1 Điều 44 BLHS 1985 quy định: "Khi xử phạt tù không quá năm năm, căn cứ vào thân nhân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Toà án cho hưởng án treo”
Theo quy định của BLHS 1985 thì có 03 điều kiện để người bị kết án được hưởng án treo như sau:
Theo quy định, những người bị Tòa án phạt tù không quá 05 năm, bất kể tội danh nào, sẽ được xem xét cho hưởng án treo Điều này cũng áp dụng cho trường hợp bị xét xử về nhiều tội trong cùng một lần hoặc có nhiều bản án, miễn là hình phạt chung không vượt quá 5 năm tù.
Người được hưởng án treo phải có nhân thân tốt, tuân thủ chính sách và pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cá nhân, và chưa có tiền án, tiền sự Trong trường hợp người có tiền án, tiền sự, nếu tính chất của các tiền án, tiền sự và tội phạm mới không nghiêm trọng, có thể xem xét cho họ hưởng án treo, nhưng cần thực hiện kiểm tra chặt chẽ và hạn chế.
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 38 BLHS 1985 và các tình tiết giảm nhẹ được hướng đẫn tại văn bản
21 Công văn 36/NCPL ngày 30.4.1992 của TANDTC giải thích về án treo.
22 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05.01.1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, các tình tiết giảm nhẹ của người phạm tội sẽ được xem xét trong mối quan hệ với các căn cứ khác để quyết định việc cho phép người bị kết án hưởng án treo hay không.
Hai là, điều kiện thử thách:
TÌNH HÌNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ ÁN TREO
Tình hình áp dụng quy định về án treo
Trước khi thực hiện việc áp dụng án treo, cần phân tích tình hình áp dụng án treo trên toàn quốc trong những năm gần đây.
Theo dữ liệu từ Vụ Thống kê TANDTC, từ năm 2011 đến nửa đầu năm 2013, toàn ngành đã tiến hành xét xử và áp dụng án treo cho các bị cáo.
Năm 2011, tổng số bị cáo được xử sơ thẩm là 100.667, trong đó có 24.434 bị cáo được hưởng án treo, chiếm 24% Tại cấp phúc thẩm, 1.641 bị cáo cũng được hưởng án treo, nâng tổng số bị cáo được hưởng án treo lên 26.075, tương đương 25,8%.
Năm 2012, hệ thống tòa án đã tiến hành xét xử sơ thẩm 116.907 bị cáo, trong đó có 25.458 bị cáo được hưởng án treo, chiếm 21,7% Tại cấp phúc thẩm, 2.272 bị cáo cũng được hưởng án treo, nâng tổng số bị cáo được hưởng án treo lên 27.730, tương đương 23,7%.
+ 06 tháng đầu năm 2013 đã xét xử sơ thẩm là 48.382 bị cáo, cho hưởng án treo 9.843 bị cáo (chiếm 20,3%); cấp phúc thẩm cho hưởng án treo
876 bị cáo, nâng tổng số cho hưởng án treo 10.719 (chiếm 22,1%)
So sánh số lượng và tỷ lệ án treo cho thấy sự giảm rõ rệt hàng năm, dao động từ 21% đến 24% Đặc biệt, án treo đối với các tội phạm kinh tế liên quan đến chức vụ và tham nhũng được dư luận quan tâm Theo TANDTC, năm 2011, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử 245 vụ với 534 bị cáo được hưởng án treo, trong khi năm 2012, số vụ tăng lên 297 và số bị cáo là 663 Việc cho hưởng án treo sai luật trong các vụ án kinh tế liên quan đến chức vụ đã cải thiện đáng kể, giảm từ 102 trường hợp năm 2011 xuống 64 trường hợp năm 2012, tức giảm gần 50% Tỷ lệ các bị cáo phạm tội về chức vụ được Tòa án cho hưởng án treo cũng có xu hướng giảm, từ 36,5% năm 2011 xuống 29,4% năm 2012.
Trong những năm gần đây, tỷ lệ bị cáo phạm tội tham nhũng được hưởng án treo tại một số địa phương đã giảm đáng kể Cụ thể, so với năm 2011 và 2012, Cà Mau đã giảm từ 81% xuống còn 13,7%, Nghệ An từ 59% xuống 21,4%, và Bình Phước từ 27,2% xuống 9%.
Vào năm 2011, Hội đồng Thẩm phán và Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự TANDTC đã thực hiện 69 quyết định giám đốc thẩm thông qua kháng nghị giám đốc thẩm, trong đó hủy 26 bản án cho hưởng án treo không đúng Mặc dù số lượng án treo không đúng có xu hướng giảm, nhưng quá trình này diễn ra chậm, với 64 trường hợp vẫn còn tồn tại vào năm 2012 Tỷ lệ án bị hủy do sai lầm trong việc cho hưởng án treo không đúng trong năm 2011 rất cao, chiếm khoảng 40%.
Theo số liệu tổng hợp, việc xét xử cho hưởng án treo trên cả nước vẫn còn cao, đặc biệt là đối với các tội phạm liên quan đến chức vụ trong lĩnh vực kinh tế Đặc biệt, tình trạng cho hưởng án treo sai luật trong các vụ án kinh tế liên quan đến chức vụ và tham nhũng vẫn diễn ra phổ biến.
Các tội danh liên quan đến chức vụ, đặc biệt là các tội tham nhũng, đang trở thành vấn đề đáng chú ý tại địa phương Cà Mau Thực tiễn xét xử cho thấy tỷ lệ án treo cho những loại tội này khá cao, điều này đặt ra nhiều câu hỏi về tính nghiêm minh của pháp luật trong việc xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến chức vụ.
Theo thống kê của TAND tỉnh Cà Mau, năm 2011, Tòa án hai cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm 1.295 bị cáo, trong đó có 347 bị cáo được hưởng án treo, chiếm 26% Cụ thể, cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm và cho hưởng án treo 03 bị cáo.
Hiện tại, ngành Tòa án chưa áp dụng phần mềm thống kê, dẫn đến việc chưa tổng hợp được loại tội danh hưởng án treo Trong năm 2012 và 06 tháng đầu năm 2013, số liệu án treo sơ thẩm trên toàn tỉnh đã được tổng hợp và phân loại tội danh cho hưởng án treo, như thể hiện trong bảng liệt kê dưới đây.
41 http://congly.com.vn/phap-dinh/khap-noi/an-treo-khong-dung-quy-dinh-da-giam-ro-ret-20520.html
42 Tòa án nhân dân tối cao (2011), Tham luận về công tác xét xử các vụ án hình sự trong năm 2011 và một số kiến nghị, tr 2-3
Từ số liệu trên, cho thấy qua các năm số liệu cho hưởng án treo (dao động từ 14,5% đến 26%)
Theo thống kê của TAND tỉnh Cà Mau, về tội phạm về chức vụ được hưởng án treo cho thấy còn khá cao: Năm 2012 là 8/33 và 6 tháng đầu năm
Năm 2013, tỷ lệ bị cáo nhận án treo đã tăng gần 60%, cho thấy xu hướng cao đối với những người phạm tội có chức vụ Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2013, tất cả 5 bị cáo về tội lạm dụng chức vụ đều được hưởng án treo, và 1/1 bị cáo về tội làm môi giới hối lộ cũng nhận án treo (chiếm 100%) Đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, năm 2012 có 20/58 bị cáo nhận án treo (34,4%), trong khi giao thông đường thủy là 10/19 (52,6%).
Tổng số bị cáo đã xét xử
Hình phạt tù cho hưởng Án treo
Tổng số bị cáo đã xét xử
Hình phạt tù cho hưởng án treo
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, của con người 314 40 105 13
Các tội xâm phạm quyền tự do công dân
Các tội xâm phạm sở hữu 757 119 302 46
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Các tội phạm về ma túy 138 8 69 0
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính
Các tội phạm về chức vụ 33 8 19 8
Các tội phạm về xâm phạm hoạt động tư pháp
Tổng số 1.681 342 702 102 cho hưởng án treo tăng lên đáng kể đối với tội "vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” là 6/14 (42,8%), đường thủy 3/3
Tại cấp phúc thẩm của TAND tỉnh Cà Mau, tỷ lệ bị cáo được hưởng án treo rất thấp so với tổng số bị cáo kháng cáo, cụ thể năm 2011 chỉ có 8/365 bị cáo, năm 2012 là 2/574 và trong 6 tháng đầu năm 2013 là 5/206 Đặc biệt, năm 2011, một vụ án nghiêm trọng liên quan đến "vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" của Lê Văn Tươi đã bị kháng nghị và chuyển từ án treo sang giam giữ, dẫn đến cái chết của 2 người.
Cùng mốc thời gian nêu trên, VKSND tỉnh Cà Mau cũng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm từ hướng treo sang giam: Năm 2011 là 04 vụ, năm
Trong năm 2012, đã xảy ra 03 vụ án, trong khi 6 tháng đầu năm 2013 không ghi nhận vụ nào Nguyên nhân của kháng nghị là do án sơ thẩm cho hưởng án treo không nghiêm và không tương xứng với mức độ hành vi phạm tội.
Vấn đề đặt ra là tại sao nhóm tội về giao thông và tội phạm xâm phạm chức vụ, đặc biệt là tham nhũng, lại được hưởng án treo cao như vậy Mặc dù có dấu hiệu tiêu cực trong việc cho hưởng án treo, nhưng cần nhìn nhận rằng nhiều người phạm tội giao thông có nhân thân tốt và chỉ do sơ xuất Đối với tội phạm tham nhũng, những người này thường có đóng góp nhất định cho đất nước, nhưng do cơ chế và quy định pháp luật còn bất cập, họ đã vi phạm nhằm tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp Hành vi phạm tội của họ không phải do thoái hóa đạo đức mà là do quyết định sai lầm trong kinh doanh Tòa án khi xem xét cho hưởng án treo thường chú trọng đến nhân thân tốt của họ mà không cân nhắc đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi, dẫn đến việc cho hưởng án treo thiếu căn cứ và không hợp pháp.
43 Kết luận số 08/KL-TA của TAND tỉnh Cà Mau, ngày 01 tháng 9 năm 2010 về giám đốc - kiểm tra đối với TAND huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau
44 Số liệu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau từ năm 2012 đến
45 http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2013/03/co-tieu-cuc-trong-qua-trinh-dieu-tra-xet-xu/
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về án treo
2.2.1 Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về điều kiện cho hưởng án treo
Theo Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999, án treo được định nghĩa là "miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện", với các điều kiện cụ thể được nêu tại khoản 1 của điều luật Tòa án phải tuân thủ 04 căn cứ khi áp dụng án treo cho người bị kết án.
Theo Điều 60 Bộ luật Hình sự 1999, Tòa án có quyền quyết định cho người bị kết án hưởng án treo nếu hình phạt tù không quá 3 năm, áp dụng cho mọi loại tội phạm mà không phân biệt mức độ nghiêm trọng Điều này xác định rõ ràng phạm vi áp dụng án treo trong hệ thống pháp luật.
Mức hình phạt tù là yếu tố quyết định đầu tiên để Hội đồng xét xử xem xét việc cho người bị kết án hưởng án treo Nếu người bị xét xử có nhiều tội và tổng hợp hình phạt không quá ba năm tù, có thể xem xét cho hưởng án treo Tuy nhiên, trong trường hợp này, cần thực hiện việc xem xét cẩn trọng và chặt chẽ để đưa ra quyết định chính xác.
Trong thực tiễn xét xử áp dụng cho hưởng án treo, có những trường hợp sai sót liên quan đến điều kiện áp dụng mức hình phạt tù:
Thứ nhất, đánh giá không đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, dẫn đến quyết định hình phạt nhẹ:
Sai sót trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là vấn đề phổ biến, dẫn đến quyết định hình phạt không phù hợp, như việc áp dụng án treo Thực tiễn xét xử đã cho thấy rõ điều này.
Các bị cáo Hoàng Văn Thảo, Hoàng Duy Hợp và Đỗ Văn Tú đã lợi dụng việc cổ vũ bóng đá để vi phạm pháp luật sau trận đấu giữa Thể Công và Xi măng Hải Phòng tại sân vận động Hàng Đẫy, Hà Nội Thảo và Hợp đóng vai trò chủ chốt, tích cực chuẩn bị pháo và phát cho các cổ động viên, kích động gây rối trật tự công cộng Họ đã ném đá, vỏ chai, khiêu khích, đập phá tài sản của người đi đường, cản trở người thi hành công vụ, gây thiệt hại gần 30 triệu đồng cho tài sản.
46 Tiểu mục 6.1, 6.2 Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Các bị cáo đã phạm tội với nhiều tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 245 BLHS, với hành vi diễn ra kéo dài ở nhiều địa điểm, gây thiệt hại cho tài sản công dân và xâm phạm nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt Thảo và Hợp mỗi bị cáo 18 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” và 12 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”, tổng hợp hình phạt là 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo Bị cáo Tú cũng bị xử phạt tương tự.
12 tháng tù được hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”
Hành vi phạm tội của Thảo và Hợp đáng lẽ phải bị xử phạt trên 3 năm tù, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tuyên án 30 tháng tù và cho hưởng án treo, điều này không tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội TANDTC đã nhận xét rằng việc xét xử với mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là quá nhẹ và việc cho hưởng án treo không phản ánh đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Sai sót trong việc đánh giá hành vi phạm tội thường xuất phát từ ý thức của Hội đồng xét xử Nguyên nhân chính là do Hội đồng có thể chủ định cho hưởng án treo, dẫn đến quyết định hình phạt không tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Sai sót trong việc áp dụng án treo đã tồn tại từ khi có Bộ luật Hình sự 1985, và đã được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao lưu ý trong Nghị quyết số 01/1990/HĐTP Đến đầu năm 2013, TANDTC tiếp tục chỉ ra rằng nhiều người vẫn chưa nhận thức đúng về án treo, dẫn đến việc coi án treo như hình phạt tù Điều này khiến cho những trường hợp lẽ ra phải xử án nặng lại bị giảm nhẹ để tạo điều kiện cho hưởng án treo, hoặc ngược lại, khi không cho hưởng án treo thì mức án cũng bị giảm một cách thiếu căn cứ.
Thứ hai, sự lạm dụng việc áp dụng Điều 47 BLHS 1999 quyết định hình phạt nhẹ hơn:
Trong sai sót này, tập trung ở hai dạng:
Lạm dụng Điều 47 BLHS dẫn đến việc quyết định hình phạt dưới khung đối với bị cáo phạm tội nguy hiểm cao trong trường hợp rất nghiêm trọng, cho hưởng án treo mà không đảm bảo đủ hai tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 BLHS 1999.
Tòa án nhân dân tối cao (2012) đã trình bày tham luận về thực tiễn áp dụng chế định án treo trong công tác xét xử các vụ án hình sự hiện nay, nhấn mạnh tầm quan trọng và những thách thức trong việc thực hiện chế định này Việc áp dụng án treo cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong công tác xét xử.
Tòa án nhân dân tối cao (2012) đã có tham luận về thực tiễn áp dụng chế định án treo trong công tác xét xử các vụ án hình sự, nhấn mạnh những vấn đề nổi bật trong quá trình xét xử Cụ thể, trong một vụ án, Nguyễn Thị Tươi đã thừa nhận hành vi của mình, cho thấy sự quan trọng của việc áp dụng án treo trong các trường hợp cụ thể để đảm bảo công bằng và hợp lý trong xét xử.
Vào ngày 07.4.2009, tại quán "Hải sản tươi sống" ở tiểu khu 4 thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, lực lượng cảnh sát đã bắt quả tang 04 đôi nam nữ đang mua bán dâm trong 03 phòng ngủ và 01 phòng karaoke Các đối tượng bán dâm gồm Lê Thị Thuỷ, Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Thị Mai và Lê Thị Bích Ngọc, tất cả đều là nhân viên của quán do Tươi làm chủ Đây không phải là lần đầu tiên quán này bị phát hiện có hoạt động mại dâm, trước đó đã xảy ra hai vụ vào các ngày 24.8.2008 và 07.4.2009.
Vào ngày 24.8.2008, Tươi đã khai rằng Tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Sơn La đã bắt quả tang 02 đôi nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại quán này.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 132/2009/HS-ST ngày 15.9.2009, TAND tỉnh Sơn La đã xử phạt Nguyễn Thị Tươi 03 năm tù và phạt tiền 05 triệu đồng về tội "Chứa mại dâm" theo các quy định tại Điều 254 và Điều 46, 47 BLHS Sau đó, Bản án hình sự phúc thẩm số 633/2009/HS-PT ngày 27.10.2009 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 và Điều 60 BLHS, giữ nguyên hình phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, với thời gian thử thách là 04 năm 10 tháng.