Sức khoẻ là vốn quý của con người và toàn xã hội, trong đó sức khỏe tâm thần đươc coi là một bộ phận không thể tách rời trong định nghĩa sức khỏe của Tổ chức y tế thế giới (WHO), sức khỏe tâm thần không chỉ là không bị mắc rối loạn tâm thần, mà còn bao hàm trạng thái thoải mái, sự tự tin ở năng lực bản thân, tính tự chủ, năng lực và khả năng nhận biết những tiềm năng của bản thân 1. Vì vậy, bảo vệ sức khỏe tâm thần, chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho vị thành niên là thiết yếu trong thời đại này. Để có sức khoẻ tốt về mặt thể chất và tinh thần cho lứa tuổi này cần quan tâm đến nhiều yếu tố trong đó chăm sóc sức khỏe tâm thần cần được chú trọng đặc biệt.Trầm cảm, lo âu, stress là những rối loạn tâm lý dễ gặp phải, đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh Trung học phổ thông (THPT). Đây là giai đoạn trẻ vị thành niên có nhiều thay đổi về tâm sinh lý như nhân cách, tình cảm, và trí tuệ. Đặc biệt ở lứa tuổi này, rất dễ bị tổn thương do tác động tâm lý từ sự phát triển của bản thân và từ môi trường bên ngoài, kết hợp với đặc điểm tâm lý bồng bột, thiếu kinh nghiệm nên nguy cơ bị trầm cảm, lo âu, stress của đối tượng này ở mức cao 2,3,4,5. Các vấn đề này có thể ảnh hưởng xấu đến các chức năng về mặt xã hội của các em như công việc học tập, giao tiếp, tuy nhiên có nhiều nguy cơ và bệnh lí có thể phòng ngừa và điều trị được. Trên thế giới, theo WHO 2014 trầm cảm là nguyên nhân chính gây ra bệnh tật, tàn tật ở trẻ vị thành niên và tự tử là một trong ba nguyên nhân gây ra tử vong hàng đầu ở đối tượng này 6; NIMH (2017) có 31,9% dân số Mỹ từ 1318 tuổi mắc các rối loạn lo âu cao hơn so người trên 18 tuổi 7. Tại Việt Nam, theo Samuels và cộng sự (2016) có khoảng 8% đến 21% trẻ vị thành niên mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần nói chung và khác nhau theo khu vực sống, giới tính, lứa tuổi và phương pháp nghiên cứu 8. Một khảo sát dịch tễ học về sức khỏe tâm thần ở trẻ em chọn 1063 tỉnhthành cho thấy tỷ lệ trung bình các vấn đề sức khỏe tâm thần trẻ em chiếm khoảng 12%, nghĩa là hơn 3 triệu trẻ em có nhu cầu về dịch vụ sức khỏe tâm thần, các vấn đề phổ biến là hướng nội (lo âu, trầm cảm, đơn độc) và hướng ngoại (tăng động, giảm chú ý) 9. Số lượng trẻ vị thành niên chiếm 16,5% tổng dân số cả nước 10, có khoảng từ 1020% học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần trong đó tỉ lệ trầm cảm, lo âu, stress trong lứa tuổi học sinh THPT có xu hướng gia tăng 11, 12,13,14,15. Do vậy việc chăm sóc sức khoẻ lứa tuổi học đường đặc biệt đối với học sinh THPT rất cần có sự quan tâm phối hợp giữa nhà trường, gia đình và ngành y tế mới đem lại hiệu quả cao nhất cho sự hình thành, phát triển trí tuệ, nhân cách và thể lực.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian tham gia nghiên cứu
- Địa điểm: Trường THPT Hà Huy Tập, TP Vinh, Nghệ An
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 10 năm 2020
- Thời gian thu thập số liệu: tháng 5/2020.
Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu:
Học sinh tại trường THPT Hà Huy Tập hiện đang theo học các lớp 10, 11 và 12 Để tham gia nghiên cứu, học sinh cần có giấy xác nhận đồng ý từ phụ huynh hoặc người giám hộ.
- Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu:
+ Học sinh từ chối tham gia nghiên cứu
Học sinh được xác định mắc bệnh tâm thần hoặc thiểu năng trí tuệ sẽ không được đưa vào nghiên cứu Ngoài ra, những học sinh vắng mặt trong thời gian thu thập số liệu, như nghỉ học hoặc nghỉ ốm, cũng sẽ không được tính.
+ Học sinh tự nguyện tham gia nhưng không hợp tác trong quá trình nghiên cứu.
Chọn mẫu và cỡ mẫu
2.4.1 Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho 1 tỷ lệ:
+ Z1-α/2: hệ số giới hạn tin cậy (với α = 0,05, Z1-α/2 = 1,96)
+ d: sai số mong muốn, chọn d = 0,045
Trong nghiên cứu của Thái Thanh Trúc năm 2018 về tình trạng tâm lý của học sinh THPT tại TP Hồ Chí Minh, tỷ lệ trầm cảm được ghi nhận là p = 0,387, tỷ lệ lo âu là p = 0,59, và tỷ lệ stress là p = 0,351 Áp dụng công thức tính cỡ mẫu, chúng tôi xác định được cỡ mẫu lớn nhất là n = 459 học sinh Tuy nhiên, thực tế có 497 học sinh tham gia vào nghiên cứu này.
Sử dụng phương pháp chọn mẫu tỷ lệ nhiều giai đoạn
- Giai đoạn 1: Phân tầng theo khối học gồm 3 khối 10, 11 và 12
- Giai đoạn 2: Tiến hành chọn mẫu theo tỷ lệ với kích thước mỗi tầng
Bảng 2.1 Số lượng học sinh các khối của trường năm học 2019-2020
Khối Số lớp (số học sinh) Sĩ số trung bình của mỗi lớp
Số lớp chọn ngẫu nhiên
- Tiến hành chọn ngẫu nhiên toàn bộ lớp tương đương các khối đến khi đủ mẫu + Khối 10: Thực tế nghiên cứu 4 lớp với 160 học sinh
+ Khối 11: Thực tế nghiên cứu 5 lớp với 186 học sinh
Trong nghiên cứu thực tế tại khối 12, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 5 lớp với tổng cộng 151 học sinh Dù dự kiến chỉ chọn 4 lớp, nhưng do không nhận được sự đồng ý từ phụ huynh và học sinh, chúng tôi đã quyết định mở rộng sang 5 lớp để đảm bảo đủ mẫu cho cuộc điều tra.
Biến số và chỉ số nghiên cứu
Thông tin nhân khẩu học bao gồm giới tính, khối học, tình hình kinh tế gia đình, số lượng anh chị em trong gia đình, tình trạng hôn nhân của bố mẹ, trình độ học vấn của bố và mẹ, cùng với nghề nghiệp của cả hai.
Thông tin cá nhân và học tập của học sinh bao gồm sự hài lòng về ngoại hình, tình trạng thừa cân hoặc béo phì, mức độ học lực và hạnh kiểm Ngoài ra, thời gian dành cho việc tự học, học thêm và học kèm cũng rất quan trọng, cùng với áp lực học tập mà các em phải đối mặt Cuối cùng, sự hài lòng với điểm thi và kết quả học tập là yếu tố quyết định trong quá trình đánh giá năng lực học sinh.
Môi trường gia đình có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của trẻ Khi gia đình quan tâm, yêu thương và có sự kiểm soát hợp lý, trẻ sẽ cảm thấy an toàn và được hỗ trợ Tuy nhiên, nếu bố mẹ quá nghiêm khắc, thường xuyên trừng phạt hoặc ép buộc trẻ học tập quá mức, điều này có thể gây ra áp lực và căng thẳng cho trẻ Hơn nữa, nếu gia đình thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, trẻ chứng kiến người thân bị đánh mắng hoặc bản thân bị đối xử không tốt, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển tâm lý của trẻ Thậm chí, nếu gia đình có người mất, điều này cũng có thể gây ra sự tổn thương và ảnh hưởng đến trẻ.
Trong môi trường học đường, thông tin về bạn bè và nhà trường rất quan trọng Số lượng bạn thân có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ xã hội của học sinh, trong khi mâu thuẫn giữa bạn bè thường xảy ra và cần được giải quyết kịp thời Học sinh có thể trải qua tình huống bị trêu chọc, bắt nạt hoặc đánh mắng, và cũng có thể chứng kiến bạn bè gặp phải những tình huống tương tự Những xung đột này có thể dẫn đến đánh nhau giữa bạn bè, ảnh hưởng đến mức độ khiển trách của thầy cô Tham gia các hoạt động do nhà trường tổ chức cũng là một yếu tố quan trọng, giúp học sinh xây dựng mối quan hệ tốt và phát triển kỹ năng xã hội.
Trong bối cảnh dịch COVID-19, nhiều người cảm thấy nhớ bạn bè và thầy cô, đồng thời lo lắng về tình hình dịch bệnh và cảm giác cô lập, chán nản do phải ở nhà lâu Học sinh gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức khi học online và lo lắng về lượng kiến thức cần phải học bù Ngoài ra, gia đình cũng bị ảnh hưởng bởi dịch, khiến mức độ liên lạc với bạn bè trở nên hạn chế hơn trong thời gian nghỉ dịch.
Tỷ lệ mắc trầm cảm, mức độ mắc trầm cảm
Tỷ lệ mắc lo âu, mức độ mắc lo âu
Tỷ lệ mắc stress, mức độ mắc stress
Tỷ lệ mắc 1 trong 3 rối loạn (TC-LA-S), mắc 2 trong 3 rối loạn, mắc cả 3 rối loạn
Mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học, cá nhân, gia đình, bạn bè và nhà trường đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19 Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến động lực học tập mà còn tác động đến sức khỏe tâm lý và sự phát triển toàn diện của học sinh Việc hiểu rõ mối liên hệ giữa các yếu tố này sẽ giúp cải thiện môi trường học tập và hỗ trợ học sinh vượt qua những thách thức do dịch bệnh gây ra.
Chi tiết biến số được trình bày tại phụ lục 1
Chi tiết bộ công cụ được trình bày tại phụ lục 2
Công cụ và kỹ thuật thu thập thông tin
2.6.1 Công cụ thu thập số liệu
Thông tin được thu thập bằng phương pháp phát phiếu tự điền khuyết danh (không ghi họ và tên học sinh) với bộ câu hỏi thiết kế sẵn
Bộ câu hỏi sử dụng để thu thập số liệu gồm 3 phần:
- Phần 1: Câu hỏi về thông tin chung bao gồm: yếu tố nhân khẩu, cá nhân, yếu tố gia đình, yếu tố bạn bè, nhà trường, xã hội
- Phần 2: Thang đánh giá trầm cảm, lo âu, stress DASS-21
2.6.2 Kỹ thuật thu thập số liệu:
Bước 1: Chọn 03 điều tra viên (ĐTV) được tập huấn kỹ về kỹ năng, nội dung công việc
Liên hệ Ban giám hiệu nhà trường để xin xác nhận sự đồng ý và hợp tác, sau đó tiếp tục liên lạc với Hội trưởng phụ huynh để giới thiệu mục tiêu nghiên cứu và nhận được sự xác nhận.
Bước 3: Liên hệ với giáo viên chủ nhiệm của một lớp học để giới thiệu mục tiêu nghiên cứu Tiến hành điều tra thử với 10 học sinh nhằm kiểm tra tính logic và sự phù hợp của bộ câu hỏi trước khi tiến hành thu thập số liệu chính thức cho nghiên cứu.
Bước 4: Sau khi hoàn thành điều tra thử, cần thống nhất kế hoạch thu thập số liệu với Nhà trường và chọn ngẫu nhiên các lớp tham gia nghiên cứu Liên hệ với giáo viên chủ nhiệm các lớp được chọn để giới thiệu nội dung nghiên cứu, đồng thời nhờ giáo viên gửi và thu lại phiếu xác nhận đồng ý tham gia nghiên cứu từ phụ huynh hoặc người chăm sóc học sinh.
Bước 5: Chọn ngày điều tra vào cuối tuần, sau một tháng học sinh quay trở lại trường sau dịch COVID-19, trong các tiết sinh hoạt ngoại khóa và lớp học để không ảnh hưởng đến việc học Đội ngũ điều tra viên sẽ giới thiệu nội dung nghiên cứu và nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin mà học sinh cung cấp Họ cũng sẽ hướng dẫn cụ thể về cách thức và nội dung bộ câu hỏi để học sinh hoàn thành phiếu một cách đầy đủ và chính xác, sau khi đã nhận được sự đồng ý từ các em.
Để đảm bảo quá trình điều tra diễn ra suôn sẻ, các em sẽ được phát phiếu điều tra kèm theo giấy xác nhận từ phụ huynh hoặc người chăm sóc Ba điều tra viên (ĐTV) sẽ cùng tham gia điều tra trong một lớp học, nhằm giám sát và hướng dẫn các em điền phiếu, đồng thời giải thích trực tiếp những nội dung mà các em thắc mắc.
Bước 6: Đội ngũ điều tra viên và nghiên cứu viên sẽ kiểm tra tính đầy đủ của thông tin trong phiếu Nếu phát hiện thiếu sót hoặc thông tin không phù hợp, học sinh sẽ được yêu cầu bổ sung ngay tại chỗ.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1, số liệu sau khi nhập được kiểm tra, làm sạch, loại bỏ các giá trị không phù hợp
Dữ liệu sau khi được làm sạch đã được phân tích và xử lý bằng các thuật toán thống kê y học trên phần mềm STATA 14.2 Kết quả của các biến được so sánh thông qua các test thống kê cơ bản để mô tả số lượng và tỷ lệ (%) Phân tích mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu, stress và một số yếu tố khác được thực hiện bằng các test kiểm định và hồi quy đa biến logistic.
- Mô tả tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress: kết quả trình bày dưới dạng sử dụng tần số, tỉ lệ % để mô tả các biến số nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp thống kê như kiểm định test χ2, tỷ suất chênh OR (Odd Ratio) và khoảng tin cậy 95% (CI) để phân tích mối liên quan giữa các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng mắc trầm cảm, lo âu và stress ở học sinh Biến phụ thuộc được xác định là tình trạng mắc rối loạn trầm cảm, lo âu và stress (có/không), trong khi các biến độc lập bao gồm các yếu tố nhân khẩu học, cá nhân, gia đình, bạn bè, trường học và xã hội Kết quả phân tích được trình bày một cách trực quan thông qua các bảng và biểu đồ trong Excel và Word.
Sai số và cách khắc phục
+ Sai số do điều tra viên: ĐTV chưa giải thích rõ ràng cụ thể nội dung trong phiếu câu hỏi tự điền cho đối tượng
+ Sai số do người trả lời phỏng vấn: sai số tự khai báo, sai số nhớ lại
+ Sai số trong quá trình nhập liệu
- Cách khắc phục sai số thông tin
Để đảm bảo chất lượng điều tra, việc tập huấn kỹ lưỡng cho các điều tra viên (ĐTV) là rất quan trọng Các ĐTV sẽ được hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng bộ câu hỏi tự điền một cách chính xác Sau mỗi buổi điều tra, nghiên cứu viên chính sẽ thu thập phiếu và kiểm tra thông tin để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ của dữ liệu.
Để giảm thiểu sai số do đối tượng trả lời, cần giải thích rõ ràng cho người tham gia những điểm quan trọng cần lưu ý Khi đối tượng có thắc mắc về bất kỳ câu hỏi nào, hãy cung cấp giải thích ngay tại thời điểm họ điền phiếu để đảm bảo họ hiểu đúng ý nghĩa câu hỏi.
Để giảm thiểu sai số trong quá trình thu thập số liệu, cần có sự giám sát chặt chẽ, với sự hỗ trợ của giáo viên nhằm duy trì trật tự trong lớp học Học sinh cần điền phiếu một cách nghiêm túc, và giáo viên nên kiểm tra ngay các phiếu khi nhận lại từ học sinh Nếu phát hiện phiếu nào thiếu thông tin, giáo viên sẽ trả lại cho học sinh để bổ sung, đồng thời sửa các sai sót ngay tại lớp.
Để giảm thiểu sai số trong quá trình làm sạch và nhập liệu, cần đọc kỹ phiếu và thực hiện việc làm sạch dữ liệu trước khi tiến hành nhập Ngoài ra, việc tạo các tệp kiểm tra cho phần mềm nhập liệu cũng rất quan trọng nhằm hạn chế sai sót trong quá trình này.
+ Làm sạch các số liệu bị thiếu và số liệu vô lý trước khi phân tích.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua Hội đồng đạo đức, Viện đào tạo YHDP và YTCC của Trường Đại học Y Hà Nội trước khi tiến hành nghiên cứu
Nghiên cứu này đã được sự đồng ý của giám đốc CDC Nghệ An và Ban giám hiệu trường THPT Hà Huy Tập, cũng như sự cho phép của Hội phụ huynh và phụ huynh hoặc người giám hộ học sinh Đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ được thông báo rõ ràng về mục đích của nghiên cứu và sẽ ký vào bản “thỏa thuận đồng ý tham gia nghiên cứu” trước khi trả lời các câu hỏi.
Bộ câu hỏi được thiết kế khuyết danh, không yêu cầu điền họ và tên của học sinh, nhằm bảo vệ sự riêng tư và cuộc sống cá nhân của các em Tất cả thông tin thu thập sẽ được bảo mật hoàn toàn và chỉ được sử dụng cho mục đích học tập và nghiên cứu, không vì lý do nào khác.
Trong trường hợp các em mắc rối loạn ở mức độ khác nhau và cần nhận được
27 sự hỗ trợ về tâm lý sẽ tư vấn và giới thiệu một số đơn vị, trung tâm có thể giúp đỡ cho các em (phụ lục 3).
Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu về trầm cảm, lo âu và stress sử dụng thang đo trong cộng đồng chỉ mang tính chất sàng lọc, không phải là công cụ chẩn đoán xác định.
Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi tự điền, do đó, chất lượng thông tin thu thập phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và mức độ hợp tác của người tham gia trả lời.
Một số biến số nghiên cứu thu thập thông tin phụ thuộc vào tính chủ quan của người được nghiên cứu
Thời gian thu thập dữ liệu có thể ảnh hưởng đến độ chính xác của nghiên cứu về tỷ lệ học sinh có dấu hiệu trầm cảm, lo âu và stress Cụ thể, tỷ lệ này có thể khác nhau giữa các thời điểm như đầu năm học, giữa học kỳ, cuối học kỳ I và cuối năm học, cũng như trước và sau khi nghỉ dịch COVID-19.
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp mô tả cắt ngang, do đó việc xác định mối quan hệ nhân quả gặp khó khăn Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress như di truyền gia đình và tình trạng sức khỏe hiện tại không được đưa vào phân tích trong nghiên cứu này.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1 Đặc điểm nhân khẩu học của học sinh (nI7) Đặc điểm của học sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Kinh tế gia đình Nghèo/ cận nghèo 21 4,2
Số anh, chị, em trong gia đình
Tình trạng hôn nhân bố mẹ
Nghề nghiệp Bố Cán bộ, viên chức 147 29,6
Nghề nghiệp Mẹ Cán bộ, viên chức 171 34,4
Bảng 3.1 cho thấy trong số 497 học sinh tham gia nghiên cứu, nữ giới chiếm 62,0% Số lượng học sinh ở các khối lớp 11, 10, và 12 lần lượt là 37,4%; 32,2%; và 30,4% Đa số học sinh đến từ gia đình có kinh tế bình thường trở lên (91,8%) Gia đình có 1-2 con chiếm 71,2%, trong khi gia đình có từ 3 con trở lên chiếm 28,8% Tình trạng hôn nhân của bố mẹ sống cùng nhau đạt 92,4% Tỷ lệ bố mẹ có trình độ học vấn từ THPT trở lên lần lượt là 60,8% và 60% Nghề nghiệp của bố mẹ chủ yếu là cán bộ, công nhân viên chức với tỷ lệ 29,6% và 34,4%, thấp hơn so với các nhóm nghề khác.
Bảng 3.2 Đặc điểm yếu tố cá nhân và học tập của học sinh (nI7) Đặc điểm của học sinh Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Hài lòng về ngoại hình Có 338 68,0
Thời gian tự học, học thêm, học kèm
Không tự học/ học kèm 24 4,8
Hiện tại có áp lực trong học tập
Hài lòng với điểm thi/kết quả học tập
Nhận xét: Có 32% học sinh không hài lòng với ngoại hình của mình và 10,7% học sinh bị thừa cân/béo phì
Học sinh có học lực khá và giỏi chiếm tỷ lệ cao, lần lượt là 49,9% và 47,7%, trong khi học lực trung bình chỉ chiếm 2,4% và không có học sinh nào có học lực yếu Về hạnh kiểm, 90,1% học sinh đạt hạnh kiểm tốt, 9,1% hạnh kiểm khá, và 0,8% hạnh kiểm trung bình, không có học sinh nào có hạnh kiểm yếu Hầu hết học sinh dành thời gian tự học, học thêm hoặc học kèm từ 2 giờ/ngày trở lên, với tỷ lệ 78,9% Tuy nhiên, 55,7% học sinh cảm thấy áp lực trong học tập và 58,3% không hài lòng với điểm thi cũng như kết quả học tập của mình.
Bảng 3.3 Đặc điểm về yếu tố gia đình của học sinh (nI7) Đặc điểm (trong 1 năm qua) Số lượng (n) Tỷ lệ (%) Được gia đình quan tâm, yêu mến
Bị bố mẹ khiển trách/trừng phạt khi mắc lỗi
Bố mẹ ép học đến mức không chịu được
Gia đình thường xảy ra mẫu thuẫn
Bị người thân đánh mắng
Chứng kiến người thân bị đánh, mắng
Gia đình có người thân mất
Nhận xét: Đa số các học sinh cảm thấy được gia đình quan tâm, yêu mến (92,8%)
Theo thống kê, 62,6% học sinh thường xuyên bị khiển trách hoặc trừng phạt khi mắc lỗi, trong khi 8,3% học sinh cảm thấy bị ép học đến mức không chịu nổi Mâu thuẫn trong gia đình diễn ra khá phổ biến, chiếm 32,2% Ngoài ra, có 2,8% học sinh bị người thân đánh mắng và 3,0% chứng kiến người thân bị đánh mắng Những vấn đề này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và sự phát triển của học sinh.
Bảng 3.4 Đặc điểm về yếu tố bạn bè, nhà trường của học sinh (nI7) Đặc điểm (trong 1 năm qua) Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Vài bạn thân (2-5 bạn) 252 50,7 Nhiều bạn (trên 5 bạn) 153 30,8
Mẫu thuẫn với bạn bè Có 145 29,2
Bị bạn bè trêu chọc, bắt nạt, đánh, mắng
Chứng kiến bạn bè bị trêu chọc, bắt nạt, đánh, mắng
Không 358 72,0 Đánh nhau với bạn bè Có 64 12,9
Mức độ khiển trách của thầy, cô
Mức độ tham gia hoạt động của nhà trường tổ chức
Theo khảo sát, học sinh có từ 2-5 bạn thân chiếm tỷ lệ cao nhất với 50,7%, trong khi chỉ 8,3% học sinh có 1 bạn thân Tình trạng mâu thuẫn giữa bạn bè xảy ra ở 29,2% học sinh, và 12,9% học sinh đã trải qua việc đánh nhau với bạn bè Ngoài ra, 14,9% học sinh cho biết họ bị bạn bè trêu chọc, bắt nạt, đánh hoặc mắng, trong khi 28% học sinh chứng kiến bạn bè gặp phải tình trạng tương tự.
Chỉ có 3,4% học sinh thường xuyên bị thầy cô khiển trách, trong khi 55,7% học sinh tham gia thỉnh thoảng vào các hoạt động do nhà trường tổ chức Tỷ lệ học sinh không tham gia các hoạt động này là 18,3%, cho thấy phần lớn học sinh vẫn có sự tham gia tích cực.
Bảng 3.5 Đặc điểm yếu tố liên quan đến dịch Covid 19 Đặc điểm Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Nghỉ dịch ở nhà học sinh cảm thấy
- Cảm thấy nhớ bạn bè, thầy cô, trường học 153 30,8
- Căng thẳng, lo lắng vì dịch bệnh 81 16,3
- Bị cô lập, chán nản ở nhà lâu 99 19,9
- Lo lắng với lượng kiến thức phải học bù, khó theo kịp 240 48,3
Gặp khó khăn khi học online 300 60,4
Lý do gây khó khăn khi học online
- Mệt mỏi, căng thẳng vì ngồi lâu trước máy tính 180 60,0
- Phương pháp dạy của thầy cô không phù hợp 35 11,7
- Không có sự tương tác bạn bè, hỗ trợ trực tiếp giáo viên 78 26,4
Gia đình bị ảnh hưởng bởi dịch Covid
- Kinh tế gia đình sụt giảm 328 66,0
- Bố/mẹ bị mất việc 24 4,8
- GĐ có người phải đi cách ly 5 1,0
Thường xuyên liên lạc bạn bè trong thời gian nghỉ 452 91,0
Trong thời gian cách ly xã hội do dịch COVID-19, học sinh gặp nhiều lo lắng về việc học bù kiến thức, với 48,3% cảm thấy khó theo kịp Ngoài ra, 30,8% học sinh nhớ bạn bè và thầy cô, trong khi 19,9% cảm thấy cô lập và chán nản ở nhà Lo lắng về dịch bệnh cũng ảnh hưởng đến 16,3% học sinh Về hình thức học online, 60,4% cho biết gặp khó khăn, chủ yếu do khó tập trung (51,3%) và cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng khi phải ngồi lâu trước máy tính (60%).
Đại dịch đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế của gia đình học sinh, với 66% gia đình gặp khó khăn tài chính, 4,8% bố mẹ mất việc và 1% gia đình có người phải cách ly Mặc dù vậy, 91% học sinh vẫn duy trì liên lạc thường xuyên với bạn bè trong thời gian nghỉ dịch.
Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh
Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ mắc trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh
Theo kết quả nghiên cứu sử dụng thang điểm DASS-21, tỷ lệ học sinh mắc lo âu cao nhất đạt 39,2%, tiếp theo là tỷ lệ mắc trầm cảm với 38,2%, trong khi tỷ lệ học sinh gặp stress thấp nhất là 26,2%.
Biểu đồ 3.2 Tỷ lệ mắc rối loạn kết hợp trầm cảm, lo âu và stress
Theo biểu đồ 3.2, trong tổng số học sinh tham gia nghiên cứu, có 16,3% học sinh mắc một trong ba rối loạn (TC/LA/Stress), 15,3% mắc hai trong ba rối loạn, và 18,9% mắc đồng thời cả ba rối loạn Đáng chú ý, có 49,5% học sinh hoàn toàn bình thường.
Trầm cảm Lo âu Stress
Bình thườngChỉ có 1 trong 3 rối loạnKết hợp 2 trong 3 rối loạnKết hợp cả 3 rối loạn
Biểu đồ 3.3: Sự phân bố các mức độ trầm cảm, lo âu và stress theo thang đo DASS 21
Theo biểu đồ 3.3, trong số học sinh được khảo sát, 61,8% có mức độ trầm cảm bình thường, với 15,3% ở mức trầm cảm nhẹ và chỉ 5,0% ở mức nặng và rất nặng Đối với rối loạn lo âu, 60,8% học sinh cũng ở mức bình thường, trong đó mức độ lo âu nhẹ nhất là 15,1%, và mức nặng chỉ chiếm 6,6% Về rối loạn stress, 73,8% học sinh có mức bình thường, với 9,5% ở mức stress nhẹ và chỉ 2,6% ở mức rất nặng.
Trầm cảm Lo âu Stress
Bình thường Nhẹ Vừa Nặng Rất nặng
Các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh
Bảng 3.6 Mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học với trầm cảm, lo âu, stress Đặc điểm của học sinh Trầm cảm
Kinh tế gia đình ≥ Bình thường 1 1 1
Số anh, chị, em trong gia đình
Tình trạng hôn nhân bố mẹ
Nghề nghiệp Bố Cán bộ, viên chức 1 1 1
Nghề nghiệp Mẹ Cán bộ, viên chức 1 1 1
Nhận xét: - So với khối 10, học sinh khối 11, 12 lần lượt có nguy cơ mắc trầm cảm gấp 1,58 lần (95%CI: 1,1-2,47); 1,86 lần (95%CI: 1,17-2,97) và mối liên quan có ý nghĩa thống kê
- So với khối 10, học sinh khối 11, 12 lần lượt có nguy cơ mắc lo âu gấp 1,57 lần (95%CI: 1,01-2,46); 1,96 lần (95%CI: 1,23-3,11) và mối liên quan có ý nghĩa thống kê
- So với khối 10, học sinh khối 11, 12 lần lượt có nguy cơ mắc stress gấp 2,38 lần (95%CI: 1,39-4,07); 2,9 lần (95%CI: 1,67-5,0) và mối liên quan có ý nghĩa thống kê
Bảng 3.7 cho thấy mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân và học tập của học sinh với tình trạng trầm cảm, lo âu và stress Nghiên cứu chỉ ra rằng đặc điểm của học sinh có thể ảnh hưởng đáng kể đến mức độ trầm cảm mà họ trải qua Việc hiểu rõ những yếu tố này là cần thiết để xây dựng các biện pháp hỗ trợ hiệu quả cho học sinh trong việc giảm thiểu các vấn đề tâm lý.
Hài lòng về ngoại hình Có 1 1 1
Không 1,94(1,32-2,85) 1,81(1,24-2,67) 2,03(1,33-3,07) Thừa cân/Béo phì
Thời gian tự học, học thêm, học kèm
≥ 2 giờ/ ngày 0,68(0,42-1,1) 0,69(0,43-1,12) 1,14(0,65-2,01) Không học 1,0(0,4-2,51) 1,67(0,66-4,19) 1,95(0,74-5,18) Áp lực trong học tập Không 1 1 1
Có 3,08(2,09-4,57) 2,63(1,79-3,85) 5,06(3,1-8,24) Hài lòng với điểm thi/kết quả học tập
Học sinh không hài lòng về ngoại hình có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt là 1,94 lần, 1,81 lần và 2,03 lần so với những học sinh hài lòng với ngoại hình của mình Mối liên hệ này có ý nghĩa thống kê, cho thấy tầm quan trọng của sự tự tin về ngoại hình trong sức khỏe tâm lý của học sinh.
Học sinh chịu áp lực học tập có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt là 3,08 lần, 2,36 lần và 5,06 lần so với những học sinh không gặp áp lực này, với mối liên hệ có ý nghĩa thống kê.
Học sinh không hài lòng với điểm thi và kết quả học tập có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt 2,82 lần, 2,39 lần và 3,1 lần so với những học sinh hài lòng với thành tích của mình Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê rõ ràng.
Bảng 3.8 Mối liên quan giữa yếu tố gia đình và trầm cảm, lo âu, stress Đặc điểm (trong 1 năm qua) Trầm cảm
Stress OR(95%CI) Được gia đình quan tâm, yêu mến
Bị bố mẹ khiển trách/trừng phạt khi mắc lỗi
Bố mẹ ép học đến mức không chịu được
Gia đình thường ra mẫu thuẫn Không 1 1 1
Bị người thân đánh, mắng
Chứng kiến người thân bị đánh mắng
Gia đình có người thân mất
Học sinh thiếu sự quan tâm và yêu mến từ gia đình có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 3,55 lần, lo âu cao gấp 2,97 lần, và stress cao gấp 3,98 lần so với những học sinh được gia đình chăm sóc, với mối liên quan có ý nghĩa thống kê.
Học sinh bị bố mẹ khiển trách và trừng phạt khi mắc lỗi có nguy cơ mắc lo âu cao gấp 1,55 lần và nguy cơ stress cao gấp 1,71 lần so với những học sinh không bị khiển trách Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê rõ ràng.
Học sinh bị ép học quá mức có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,98 lần và nguy cơ mắc stress cao gấp 2,68 lần so với những học sinh không bị ép học Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê rõ ràng, cho thấy tác động tiêu cực của áp lực học tập đến sức khỏe tâm thần của học sinh.
Học sinh sống trong gia đình thường xuyên xảy ra mâu thuẫn có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 3,17 lần, lo âu gấp 2,7 lần và stress gấp 2,86 lần so với học sinh có gia đình ổn định, với các mối liên quan này đều có ý nghĩa thống kê.
Học sinh bị người thân đánh và mắng có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt gấp 6,22 lần, 5,96 lần và 11,2 lần so với những học sinh không gặp phải tình trạng này, với mối liên quan có ý nghĩa thống kê.
Học sinh chứng kiến bạo lực từ người thân có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 6,83 lần và lo âu gấp 3,21 lần so với những học sinh không phải trải qua bạo lực này, với mối liên hệ có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.9 Mối liên quan giữa yếu tố bạn bè, nhà trường và trầm cảm, lo âu, stress Đặc điểm (trong 1 năm qua) Trầm cảm
Không 2,55 (1,41-4,61) 2,03 (1,13-3,65) 2,37 (1,31-4,3) Mẫu thuẫn với bạn bè
Bị bạn bè trêu chọc, bắt nạt, đánh, mắng
Chứng kiến bạn bè bị trêu chọc, bắt nạt, đánh, mắng
Có 2,58 (1,72-3,85) 2,86 (1,91-4,29) 3,27 (2,14-5,01) Đánh nhau với bạn bè Không 1 1 1
Bị thầy cô khiển trách thường xuyên
Tham gia hoạt động của nhà trường tổ chức
Nghiên cứu cho thấy rằng học sinh không có bạn thân có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt gấp 2,55 lần, 2,03 lần và 2,37 lần so với những học sinh có bạn thân, với mối liên quan này đạt mức ý nghĩa thống kê.
Học sinh có mâu thuẫn với bạn bè có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt gấp 2,59 lần, 2,54 lần và 4,13 lần so với những học sinh không gặp phải mâu thuẫn Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê, cho thấy tầm quan trọng của việc giải quyết xung đột trong mối quan hệ bạn bè để bảo vệ sức khỏe tâm lý của học sinh.
Học sinh bị trêu chọc, bắt nạt, đánh đập hoặc mắng mỏ có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt gấp 2,44, 3,23 và 3,09 lần so với những học sinh không gặp phải tình trạng này, với mối liên quan có ý nghĩa thống kê.
Học sinh chứng kiến bạn bè bị trêu chọc và bắt nạt có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn đáng kể so với những học sinh không chứng kiến Cụ thể, nguy cơ mắc trầm cảm tăng gấp 2,58 lần, lo âu gấp 2,86 lần và stress gấp 3,27 lần, với mối liên hệ này có ý nghĩa thống kê rõ ràng.
- Học sinh đánh nhau với bạn bè có nguy cơ mắc stress gấp 2 lần học sinh không đánh nhau và mối liên quan có ý nghĩa thống kê (95%CI: 1,15-3,46)
Học sinh thường xuyên bị thầy cô khiển trách có nguy cơ mắc trầm cảm, lo âu và stress cao hơn lần lượt gấp 4,07 lần, 5,32 lần và 5,56 lần so với những học sinh không bị khiển trách, với mối liên quan có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
4.1.1 Đặc điểm về nhân khẩu học
Nghiên cứu của chúng tôi trên 497 học sinh THPT Hà Huy Tập tại thành phố Vinh, Nghệ An cho thấy tỷ lệ học sinh nữ chiếm 62,0%, cao hơn so với học sinh nam 38% (bảng 3.1) Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu trước đây, như của Trịnh Thị Hồng Biên (nữ 67%, nam 32,6%), Ngô Thị Trang (nữ 61,9%, nam 38,1%) và K.Magklara (nữ 59%, nam 41%).
Tỷ lệ học sinh ở ba khối lớp 10 (32,2%), 11 (37,4%) và 12 (30,4%) gần như tương đương nhau, phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Trịnh Thị Hồng Biên và Nguyễn Văn Hùng Điều này cho thấy số lượng học sinh được xét tuyển vào các trường hàng năm khá ổn định Đáng chú ý, 95,8% gia đình có mức kinh tế từ trung bình trở lên, phản ánh đúng tình hình tại thành phố trực thuộc tỉnh Về tình trạng hôn nhân của bố mẹ, có 7,7% không sống cùng nhau, thấp hơn so với một số nghiên cứu khác Bên cạnh đó, gần 30% gia đình có 3 con trở lên, tỷ lệ này có thể liên quan đến điều kiện kinh tế hoặc hoàn cảnh gia đình.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ phụ huynh học sinh có trình độ từ THPT trở lên là khá cao, với 89,7% bố và 90,1% mẹ Kết quả này vượt trội so với một số nghiên cứu trước đó, như của Ngô Thị Trang (bố: 80%; mẹ: 77,3%) và K.Magklara (bố: 70%; mẹ: 71%) Về nghề nghiệp, 29,6% học sinh có bố là cán bộ, viên chức, trong khi tỷ lệ mẹ là cán bộ, viên chức đạt 34,4% Kết quả này tương tự như nghiên cứu của Trịnh Thị Hồng Biên, với tỷ lệ bố là cán bộ, viên chức là 28,2%.
47 mẹ 27,4%), và nghiên cứu K.Magklara với bố mẹ có công việc cố định lần lượt là 33%; 28%
4.1.2 Đặc điểm yếu tố cá nhân và yếu tố học tập
Theo một nghiên cứu, 32% học sinh cảm thấy không hài lòng về ngoại hình của mình, điều này phản ánh tâm sinh lý của lứa tuổi THPT khi các em ngày càng chú ý hơn đến diện mạo Bên cạnh đó, tỷ lệ học sinh bị thừa cân béo phì là 10,7%, thấp hơn so với mức 20% được ghi nhận ở một số trường THPT tại Hà Nội vào năm 2019.
Nghiên cứu về đặc điểm yếu tố học tập của học sinh cho thấy, trong học kỳ I, tỷ lệ học sinh đạt học lực giỏi và khá rất cao, lên tới 97,6%, với không có học sinh nào thuộc diện yếu/kém Hạnh kiểm tốt chiếm 90,1%, trong khi hạnh kiểm khá và trung bình chỉ chiếm 9,9% Tuy nhiên, hơn 55% học sinh cảm thấy áp lực trong học tập và hơn 58% không hài lòng với kết quả học tập cũng như điểm thi của mình Kết quả này tương tự như nghiên cứu tại trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Nội, nơi mà học lực giỏi và khá chiếm 99,1%, và hạnh kiểm tốt chiếm 93,5%.
Trường THPT Hà Huy Tập, thành lập từ năm 1975, là một trong những trường công lập hàng đầu tại thành phố với điểm xét tuyển đầu vào thường đứng thứ 2 trong các trường không chuyên Trường có truyền thống hiếu học, phụ huynh tích cực quan tâm đến việc học của con em, và đa số học sinh có ý thức trong học tập Đội ngũ giáo viên thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập, đặc biệt chú trọng vào thời gian tự học, học kèm và học thêm.
78,9% học sinh dành 2 giờ mỗi ngày cho việc học tập sau giờ học, cho thấy các em đầu tư nhiều thời gian vào việc học Tuy nhiên, việc tập trung quá mức vào học chính và học thêm để đáp ứng kỳ vọng của phụ huynh và bản thân có thể tạo ra áp lực lớn, dẫn đến mệt mỏi và rối loạn tâm lý cho các em.
4.1.3 Đặc điểm về yếu tố gia đình
Theo một khảo sát, 7,2% học sinh cho biết họ cảm thấy thiếu tình yêu thương từ gia đình Nhiều trẻ em phải chịu sự trừng phạt và khiển trách từ cha mẹ khi mắc lỗi hoặc nhận điểm kém.
Theo nghiên cứu, 48% trẻ em gặp áp lực học tập, trong đó 8,3% bị ép học đến mức không chịu được, dẫn đến các vấn đề tâm lý Ở lứa tuổi THPT, nếu được cha mẹ yêu thương và lắng nghe, học sinh sẽ có tâm lý thoải mái và tích cực trong học tập Ngược lại, sự thiếu quan tâm hoặc thái độ khắt khe của cha mẹ có thể tạo ra mâu thuẫn, khiến trẻ cảm thấy buồn bực và căng thẳng Mâu thuẫn gia đình hiện nay chiếm 30%, một phần do cha mẹ sao nhãng hoặc ly hôn, dẫn đến tình trạng trẻ bị bỏ rơi trong việc giáo dục Nghiên cứu của Đặng Hoàng Minh và Hoàng Cẩm Tú cũng cho thấy môi trường gia đình ảnh hưởng lớn đến tâm lý của trẻ em.
4.1.4 Thông tin chung về yếu tố bạn bè, nhà trường, xã hội
Trong mối quan hệ bạn bè, có 10,3% học sinh không có bạn thân và 8,3% chỉ có 1 bạn thân, điều này có thể dẫn đến sự cô lập cảm xúc và căng thẳng Bên cạnh đó, môi trường học đường trong năm qua có nhiều bất ổn, với 29,2% học sinh gặp phải mâu thuẫn bạn bè, 14,9% bị bắt nạt và 12,9% tham gia đánh nhau Ngoài ra, 28% học sinh chứng kiến bạn bè bị bắt nạt, gây ra lo lắng cho các em Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 10,6% học sinh từng trải qua hành vi bạo lực học đường, trong khi 10,2% bị bắt nạt, trêu chọc, sỉ nhục và đe dọa.
Mức độ khiển trách của thầy cô: không bao giờ (26%); hiếm khi (35,8%); thỉnh thoảng (34,8%); thường xuyên (3,4%) Nghiên cứu Đoàn Vương Diễm Khánh
49 cũng cho kết quả gần tương tự mức độ khiển trách: không bao giờ (34,5%); hiếm khi (28,8%); thỉnh thoảng (29,8%); thường xuyên (6,9%) 53
Theo khảo sát, chỉ có 26% học sinh tham gia tất cả các hoạt động do nhà trường tổ chức, trong khi 55,7% thỉnh thoảng tham gia và 18,3% không tham gia Điều này cho thấy giáo viên chủ nhiệm và nhà trường chưa kiểm soát chặt chẽ sự tham gia của học sinh vào các hoạt động ngoài giờ lên lớp, với chỉ khoảng 1/3 học sinh tích cực tham gia.
Đại dịch COVID-19 đã gây ra những tác động nghiêm trọng đến tâm lý và cuộc sống của học sinh, với 16,3% cảm thấy lo lắng và căng thẳng, 19,9% cảm thấy cô lập và chán nản do ở nhà quá lâu Gần 1/3 học sinh nhớ bạn bè, thầy cô và trường học Việc các trường phải đóng cửa đã buộc học sinh chuyển sang hình thức học trực tuyến, nhưng hơn 60% gặp khó khăn trong việc học online, chủ yếu do mệt mỏi và căng thẳng khi ngồi lâu trước màn hình (60%), khó tập trung (51,3%), và thiếu sự hỗ trợ trực tiếp từ giáo viên (26,4%) Gần một nửa học sinh lo lắng về lượng kiến thức phải học bù và khó theo kịp sau thời gian giãn cách xã hội Nghiên cứu của Ritwik Ghosh cho thấy rằng việc đóng cửa trường học và cách ly đã làm thay đổi thói quen sinh hoạt, dẫn đến sự cô lập, lo lắng, và các vấn đề tâm lý đa dạng ở trẻ em.
Tại thời điểm nghiên cứu, tỉnh Nghệ An chưa ghi nhận ca mắc COVID-19 nào, với chỉ 1% gia đình có người phải cách ly, chủ yếu là do trở về từ vùng dịch và được cách ly tại các cơ sở y tế Tuy nhiên, dịch bệnh đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, khiến hơn 60% gia đình bị sụt giảm thu nhập, trong đó 4,8% phụ huynh mất việc làm.
Trong thời gian giãn cách xã hội, nhiều hoạt động kinh tế bị đình trệ, dẫn đến việc kinh doanh và buôn bán bị hạn chế Điều này đã làm xáo trộn cuộc sống của nhiều gia đình, tạo ra khó khăn và khiến không khí trong gia đình trở nên nặng nề hơn, ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ em.
Tỷ lệ học sinh THPT có biểu hiện trầm cảm, lo âu, stress
Trong nghiên cứu với 497 học sinh trường THPT Hà Huy Tập, tỷ lệ học sinh mắc trầm cảm, lo âu và stress lần lượt là 38,2%, 39,2% và 26,2% theo thang đo DASS-21.
Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh THPT trong nghiên cứu của chúng tôi đạt 38,2%, tương đương với nghiên cứu của Thái Thanh Trúc (38,7%) Tuy nhiên, tỷ lệ này cao hơn so với một số nghiên cứu khác, như Strydom M A A & cs với tỷ lệ 23,8% sử dụng thang đo HADS, Trần Thị Mỵ Lương & cs với 23,4% sử dụng thang đo Beck, và Trịnh Thị Hồng Biên với 33,7% sử dụng thang đo PHQ-9.
Tỷ lệ lo âu trong nghiên cứu của chúng tôi đạt 39,2%, thấp hơn so với một số nghiên cứu khác sử dụng thang đo DASS-21 như của Nguyễn Thị Nhật Hòa (59,7%) và Thái Thanh Trúc (59%), nhưng cao hơn so với Kumar KS (24,4%) và Nguyễn Tấn Đạt (22,8%) Kết quả của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu tại các trường học ở Colombia, nơi tỷ lệ lo âu là 37% trong số 538 thanh thiếu niên, đặc biệt triệu chứng lo âu có xu hướng cao hơn ở học sinh tại các trường công lập.
Với tỷ lệ stress 26,2%, nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với các nghiên cứu khác như: Nguyễn Nhật Hòa (DASS-21) là 35,1%; Thái Thanh Trúc (DASS-
21) là 40,8%; Nguyễn Thị Phương Thảo (DASS-42) là 62,7%; Đoàn Vương Diễm Khánh (DASS-42) là 57,2%
Sự khác biệt trong các nghiên cứu về tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress chủ yếu xuất phát từ các yếu tố như thang đo, cỡ mẫu, loại hình nghiên cứu, thời điểm thực hiện và phương pháp xác định điểm cắt Thêm vào đó, các đặc điểm kinh tế, văn hóa và xã hội của từng khu vực cũng góp phần tạo nên sự khác nhau này Khi nghiên cứu đối tượng học sinh lớp 12, dự kiến sẽ lựa chọn 4 yếu tố quan trọng để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của kết quả.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù đã chọn ngẫu nhiên 51 lớp, nhưng do không nhận được sự đồng ý từ phụ huynh và học sinh, chúng tôi chỉ có thể tiến hành khảo sát trên 5 lớp Trong số 12 lớp này, có 15 học sinh từ chối tham gia và 8 phiếu không đạt tiêu chuẩn, điều này có thể dẫn đến việc bỏ qua một số trường hợp học sinh có dấu hiệu trầm cảm, lo âu và stress.
Theo biểu đồ 1, 18,9% học sinh mắc đồng thời cả ba rối loạn tâm lý, 15,3% có hai trong ba rối loạn, 16,3% chỉ mắc một rối loạn, và 49,5% học sinh hoàn toàn bình thường Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ này thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây trên sinh viên, như nghiên cứu của Nguyễn Tất Hòa với 21,9% sinh viên mắc cả ba rối loạn, hay nghiên cứu Trần Kim Trang với 52,8% sinh viên mắc cả ba rối loạn Tương tự, nghiên cứu của Ayat cho thấy 34,6% sinh viên chỉ mắc cả ba rối loạn, trong khi K.Magklara & cs tại Hy Lạp ghi nhận 49,38% học sinh mắc trầm cảm kèm lo âu Nghiên cứu của Hồ Hữu Tính tại Bình Thuận cho thấy 38% học sinh mắc cả lo âu và stress Những kết quả này cho thấy rằng các rối loạn tâm lý, lo âu và stress thường không xuất hiện đơn lẻ mà thường kết hợp với nhau, ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe, học tập và cuộc sống của học sinh, sinh viên.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở các mức độ nhẹ, vừa, nặng và rất nặng lần lượt là 15,3%; 12,9%; 5,0%; 5,0%, trong khi lo âu là 10,5%; 15,1%; 6,6%; 7,0% và stress là 9,5%; 8,1%; 6,0%; 2,6%, cao hơn so với nghiên cứu tại Ấn Độ năm 2017 sử dụng thang đo DASS-42 Cụ thể, tỷ lệ trầm cảm ở Ấn Độ là 6,4%; 6,7%; 3,5%; 2,0%, lo âu là 5,4%; 12,3%; 1,5%; 5,2% và stress là 7,1%; 6,0%; 5,5%; 2,5% Tuy nhiên, tỷ lệ trầm cảm và stress trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với một số nghiên cứu khác, chẳng hạn như tại trường THPT Đinh Tiên Hoàng với tỷ lệ stress ở các mức độ là 19,7%; 25%; 13,1%; 4,9% và trường THPT Phan Đình Phùng với tỷ lệ trầm cảm nhẹ 18,9%; vừa 20,1%; nặng 5,2%; rất nặng 2,5% Tại trường THPT ở vùng Qassim (Anh), tỷ lệ trầm cảm được phân loại theo thang PHQ-9 cho thấy 34% có trầm cảm nhẹ, 24,6% vừa, 10,4% trung bình và 5,0% nặng, trong khi lo âu theo thang GAD-7 cũng được ghi nhận.
Theo nghiên cứu, tỷ lệ lo âu nhẹ chiếm 34,1%, lo âu vừa 19,5% và lo âu nặng 9,8% Mặc dù tỷ lệ phân bố mức độ TC-LA-S có sự khác biệt do tỷ lệ TC-LA-S chung không đồng nhất, nhưng xu hướng của các mức độ lo âu vẫn cho thấy sự tương đồng.
Các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở đối tượng nghiên cứu
4.3.1 Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở học sinh
4.3.1.1 Các yếu tố nhân khẩu học liên quan đến trầm cảm
Nghiên cứu cho thấy học sinh khối 11 và 12 có nguy cơ mắc trầm cảm cao hơn so với khối 10, với tỷ lệ lần lượt là 1,58 lần và 1,86 lần (p