Giọng điệu trần thuật trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư

Một phần của tài liệu Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư (Trang 102)

5. Cấu trúc luận văn

3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư

“Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ

thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...”[40, tr.112]. Giọng điệu

chính là yếu tố hàng đầu tạo nên phong cách riêng của mỗi nhà văn. Để xác định giọng điệu của tác phẩm, người ta có thể căn cứ vào hệ thống từ ngữ, cách xưng hô, kết cấu, cách sử dụng mô típ và xây dựng hình tượng trong tác phẩm dưới sự chi phối của một cảm hứng chủ đạo và sự quy chiếu của một cái nhìn cụ thể. Bằng tài năng thiên bẩm và chất Nam Bộ ngấm vào máu thịt, Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện được trong sáng tác của mình những sắc thái giọng điệu rất riêng. Giọng điệu chi phối hầu hết các truyện ngắn và các tập tạp văn của chị là giọng điệu xót xa thương cảm, đôi khi là trách giận nhẹ nhàng mà thấm thía. Sở dĩ có giọng điệu này vì phần lớn các nhân vật trong sáng tác của chị đều có số phận nhọc nhằn, lắm bi thương. Họ là những người nông dân một nắng hai sương, tần tảo chịu khó chống chọi với “những cơn

bão khô” để có được một vuông tôm (Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư). Họ là

những người ba, người má phải thức khuya dậy sớm để “sống chết với tôm”

(Tạp văn Chờ đợi những mùa tôm) đến cuối cùng tôm vẫn chết. Mỗi vụ thất

thu, nhà nào nhà ấy hoang mang, lo sợ. Tác giả đã thật sự xót thương khi dân quê mình muốn xoá nghèo đã chuyển sang nuôi tôm, nhưng từ khi nuôi tôm thì có vô số những “cơn bão khô” xảy đến. Tư bày tỏ thái độ cảm thương

Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư

102

bằng cách viết về họ, về những hi vọng mà chính chị đã mang lại cho người dân qua trang viết của mình. Chị trực tiếp ghi lại những khó khăn, thiếu thốn mà hàng giờ, hàng ngày họ phải đối diện. Đôi lúc, giọng cảm thương đã trở thành trách giận, trách giận các lãnh đạo, trách giận sao cuộc sống của người dân vẫn mãi như những khó khăn ban đầu. Giọng điệu trách giận nhẹ nhàng mà thấm thía này còn thể hiện ở cách Nguyễn Ngọc Tư viết những câu chuyện về cách làm việc quan liêu của một số quan chức, lãnh đạo. Quan thì

ở cao mà dân thì ở xa (Tạp văn Đường chân trời thì xa, Người mỏi chân

chưa, Chi tiết, ...).

Bên cạnh giọng điệu chủ đạo cảm thương, trách giận, văn Nguyễn Ngọc Tư còn có nhiều giọng điệu khác nữa như: giọng điệu dí dỏm, hài hước, giọng trong trẻo, hồn hậu, tự nhiên. Để những câu chuyện buồn thương, những số phận bi kịch bớt nặng nề, xa xót Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo gia giảm những chi tiết dí dỏm, hài hước. Những chi tiết ấy khiến ta hình dung ra một người kể chuyện hóm hỉnh, thông minh. Người đọc cũng phải tủm tỉm cười vì những duyên cớ thật nhỏ nhưng thật đắt, thú vị và đáng nhớ khi gấp trang

sách lại : “...Ông gọi là bông thì tụi nhỏ không được gọi là hoa, ông nói hoa

là hoa hồng hoa huệ gì đó, còn mồng gà, vạn thọ hay sao nhái thì phải kêu bằng bông, cũng như núm mối mà cứ gọi nấm mối, cái thứ dân dã, mọc vườn

hoang phải kêu sao cho dân dã, dễ nghe. ...”[55, tr.64].

Giọng điệu trong trẻo, hồn nhiên của Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện ở

những tác phẩm đầu tay như Ngọn đèn không tắt, Giao thừa. Đây chính là

giọng điệu của một tâm hồn tuổi trẻ còn nhiều lạc quan, tin tưởng vào cuộc

đời và con người, điều mà ít thấy ở những trang viết sau (sau có tạp văn Ngủ

ở đất Mũi viết bằng giọng văn sảng khoái, trong trẻo, chân thật). Những nhân

vật trong các tác phẩm này cũng rất tốt, thân thiện đến mức khó tin. Tất cả đều chủ động hướng thiện xoay quanh một câu chuyện nhẹ nhàng, thanh thản.

Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư

103

Đọc những trang viết như thế, độc giả luôn có cảm giác đẩy xa những bon chen, toan tính chật hẹp của cuộc sống hiện tại.

Với một giọng điệu trần thuật đa thanh, đan cài khi giận giữ, khi hóm hỉnh, khi lại mỉa mai, đau xót, lúc lại sâu lắng, trầm buồn làm cho câu chữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư khi thì vỡ oà trong nỗi xót xa, khi thì thương cảm trước những nỗi đau quặn thắt, sự cô đơn đến hoang lạnh, nỗi buồn đến cùng cực của thân phận con người, tạo được sức hấp dẫn lớn với người đọc.

Một phần của tài liệu Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư (Trang 102)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(124 trang)