Về tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”

Một phần của tài liệu Quan niệm của I. Kant về Vật tự nó trong Phê phán lý tính thuần túy (Trang 35)

8. Kết cấu luận văn

1.3. Về tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”

“Hòn đá tảng triết học của I.Kant, đôi khi được gọi là triết học phê phán, là tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy (1781). Trong đó ông thẩm xét những nền tảng của tri thức con người và tạo ra một tri thức luận khác thường” [28, 335]. “Phê phán lý tính thuần túy” của I.Kant được mọi người thừa nhận là tác phẩm nền tảng của triết học cổ điển Đức. Nó là chỗ kết tinh những nhận định có tính phê phán đối với nhiều trào lưu triết học trước đó (từ Platôn cho tới Christian Wolff), đồng thời là điểm xuất phát và điểm quy chiếu của triết học cổ điển (duy tâm) Đức (Fíchte, Schelling, Hêgel) và có ảnh hưởng sâu đậm đến sự phát triển của triết học và khoa học Tây phương cho đến ngày nay.

Song, “Phê phán lý tính thuần túy” không chỉ là một tác phẩm “bắt buộc phải đọc” của những ai muốn tìm hiểu và nghiên cứu triết học mà còn là một danh tác bất hủ của văn hóa Tây phương và của thế giới đúng như A.Schopenhauer đã đánh giá là “một quyển sách quan trọng nhất trong muôn

một được trước tác tại châu Âu” [20, XVII]. “Nếu sản phẩm của thời đại khai sáng là cuốn Bách khoa gồm 150 tác giả với một nội dung tri thức trăm hoa

33

đua nở, thì phải nhấn mạnh them rừng, song song với nó “Phê phán lý tính thuần túy” là một cuốn “bách khoa” của khoa học triết lý tuy với mục đích khiem tốn là tri thức khoa học, do chỉ một người trước tác, nhưng không kém phong phú đa dạng và đồng thời lại là một hệ thống tư tưởng thật sự được xuyên suốt và thấm đượm tinh thần yêu thường chân lý như định nghĩa triết học từ truyền thống Hy Lạp” [20, XXX].

Trong ba quyển “Phê phán” nổi tiếng của I.Kant (Phê phán lý tính thuần túy; Phê phán lý tính thực hành và Phê phán năng lực phán đoán), tác phẩm này có vị trí đặc biệt. Nó ra đời trước (1781), có nội dung rất phong phú, ngoài ra cũng dày và phức tạp nhất! Xét về bản thân hệ thống, ta đều biết - và chính Kant xác nhận - hai quyển sau mới bộc lộ phần tinh túy của triết học Kant, tuy nhiên, “Phê phán lý tính thuần túy” vẫn thường được xem là tác phẩm chính yếu gắn liền với tên tuổi Kant và là tiền đề để thực sự hiểu được hai tác phẩm sau. “Phê phán lý tính thuần túy” (Tôi có thể biết gì?) là hòn đá tảng tạo nên cơ sở lý luận cho triết học Kant. “Phê phán lý tính thuần túy” đã phác thảo “toàn bộ kế hoạch một cách có kiến trúc”, từ đó “mọi bộ phận làm

nên tòa nhà ấy” hay hệ thống triết học trước đó phải được khảo sát trên những

nguyên tắc khách quan, “với sự đảm bảo hoàn toàn về tính hoàn chỉnh và tính

vững chắc” [7, 107].

Trước đó S.Peirce, người sáng lập lý thuyết thực dụng của Mỹ đã ca ngợi Phê phán lý tính thuần túy là “sữa mẹ của tôi trong triết học”. Và theo Puttnam “hầu như tất cả các vấn đề triết học chỉ với Phê phán lý tính thuần

túy mới đạt được hình thức để trở nên lý thú hấp dẫn”. Về hình thức chúng ta

thấy trọng điểm của Phê phán lý tính thuần túy nằm ở trong triết học lý thuyết, nhưng mục đích của lý tính lại hướng đến con người. Trong ba câu hỏi: “Tôi có thể biết gì? Tôi phải làm gì? Tôi được phép hy vọng gì”. Phê

34

phán lý tính thuần túy đã trả lời câu hỏi thứ nhất – đơn thuần tư biện. Nhưng cả ba câu hỏi đều hướng đến giải đáp cho câu hỏi cuối cùng: “Con người là

gì”. Phê phán lý tính thuần túy đã mở rộng đối tượng nghiên cứu đến triết lý

con người rộng lớn.

I.Kant chỉ cần mấy tháng để hoàn thành tác phẩm đồ sộ này, nhưng điều đó không có nghĩa đây chỉ là sản phẩm ngẫu hứng của ông, trái lại nó là kết tinh những kết quả nghiên cứu trong cả một quá trình lâu dài và đầy trăn trở của I.Kant. Từ năm 1770, I.Kant không công bố các tác phẩm nào ngoài 20 trang tóm tắt đề cương giáo trình. Nhưng đây chính là 10 năm thai nghén hệ thống triết học sau này. Ngày 31 tháng 12 năm 1764 I.Kant viết thư cho Johann Heinrich Lambert cho biết ông đang soạn một tác phẩm về “phương pháp đặc thù của Siêu hình học và qua

đó cũng là phương pháp cho toàn bộ triết học” tác phẩm đã được ôm ấp

suy nghĩ suốt 12 năm” (thư gửi Mose Mendelssohn ngày 18.8.1783), kể từ khi bức thư nổi tiếng gửi Marcus Herz ngày 7 tháng 6 năm 1771 ông thông báo sẽ viết công trình của mình dưới nhan đề “Những ranh giới

của cảm năng và của lý tính” – đến lúc đó I.Kant vẫn chưa dứt khoát đặt

tên “Phê phán lý tính thuần túy” cho công trình “ấp ủ của mình”. Bước ngoặt thể hiện trong bức thư I.Kant gửi cho Marcus Herz ngày 21/2/1772 báo tin đã có đủ điều kiện để “biên soạn một quyển phê phán lý tính

thuần túy, xem xét bản tính của nhận thức lý thuyết lẫn thực hành, trong đó phần đầu tôi sẽ xét những nguồn suối của siêu hình học, phương pháp và những ranh giới của tôi sẽ hoàn tất trong vòng độ ba tháng” [Dẫn

theo Trần Thái Đỉnh, 20]. Tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” đồ sộ với 884 trang, lần đầu tiên được xuất bản vào dịp Lễ phục sinh tháng 5 năm 1781 khi Kant đã 57 tuổi, bản A. Đó không chỉ là tác phẩm có nội dung phong phú mà còn khó hiểu nhất và chính I.Kant cũng ý thức được

35

điều đó. Ông bày tỏ trong Lời tựa lần một như sau: “Ở đây tôi chờ đợi nơi những độc giả của tôi sự kiên nhẫn và lòng vô tư của một quan tòa” [7, 16]. Nhưng kết quả không như I.Kant mong đợi, không ai chú ý vì xem nó khó hiểu và chán ngắt. Để có thể dễ hiểu hơn, hai năm sau I.Kant đã cho ra mắt: “Sơ luận về bất kỳ môn siêu hình học nào trong tương lai

muốn có thể xuất hiện như một khoa học” chỉ khoảng 150 trang. Nhưng

lại một lần nữa làm ông thất vọng, vì quá ngắn nên không dễ hiểu chút nào mà cùng khó hiểu hơn. Và 4 năm sau, khi ấn bản thứ hai ra mắt vào tháng 6/1787, bản B với lời tựa mới, bổ sung thêm cho lời dẫn nhập và sửa chữa một số chương, đoạn quan trọng thì bước ngoặt mới thực sự xảy ra. Tác phẩm này đã gây chấn động sâu sắc giới triết học, và I.Kant trở thành một “ngôi sao lừng danh”. Nhiều nhân vật nổi tiếng đến nghe ông giảng bài. “Mọi người đều cùng một nhận xét: kẻ nào nghiên cứu

Phê phán lý tính thuần túy, kẻ đó đã đến tận gốc rễ của triết học” [20,

XXXI]. Đối với Theodor W.Adorno – nhà khoa học xã hội và lý thuyết âm nhạc, triết gia Đức thuộc trường phái “Lý thuyết phê phán” của nhóm Frankfurt cho rằng vai trò của sự phê phán lý tính của I.Kant quan trọng không kém phép biện chứng của Hegel.

Tên tác phẩm: “Phê phán lý tính thuần túy” ở đây không có nghĩa là sự lên án hay đả kích như cách hiểu thông thường mà là sự làm sáng tỏ, kiểm thảo, xác định ranh giới của lý tính theo đúng nghĩa “toàn án” của lý tính, trong đó lý tính vừa là quan tòa, vừa là bị cáo. Và với việc lấy phê phán này làm nền tảng thì người ta mới “có một viên đá thử chắc chắn” để đánh giá nội dung triết học của tác phẩm xưa cũng như nay trong ngành chuyên môn này.

Trong lúc khuynh hướng triết học đương đại đang đi sâu vào những đối tượng chi tiết của khoa học chuyên môn, Phê phán lý tính thuần túy trở nên

36

một lựa chọn khác cho một khuynh hướng triết học có tính phổ quát với hình thức và nội dung đa dạng phong phú bao gồm tất cả những vấn đề triết học vừa lý thuyết, vừa thực hành. “Có thể nói đến nay chưa có một tác phẩm xây

dựng nền tảng nào của triết học tân tiến có thể sánh kịp với một trước tác triết học toàn bộ đa dạng như Phê phán lý tính thuần túy” [20, XXXVI]. Phê

phán lý tính thuần túy “bao gồm tất cả những chặng đường lịch sử mà triết học này đã trải qua, từ khi sự xuất hiện của nó đã có mãnh lực “nghiền nát” nền siêu hình học cổ điển Tây phương, đã thay đổi tư duy của thời cận đại cho đến hôm nay…” [20, XXVIII].

Phê phán lý tính thuần túy có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử triết học là điều không thể phủ nhận. Thái Kim Lan trong lời Dẫn luận cho bản dịch tiếng Việt cuốn Phê phán lý tính thuần túy của Bùi Văn Nam Sơn có nhận xét: “Có thể nói rằng chưa có một tác phẩm nào đã thay đổi

tư tưởng của thời cận đại một cách vang dội như tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” của ông. Trong tất cả các tác phẩm của Bacon, Descartes, Hobbes, sau đó của Pascal, Leibiz, Locke, Hume, Rousseeau, các tác phẩm của Fichte, Hegel, Nietzsche, tiếp thep của Frege, Russell, Heidegger và Wittgenstein, Tây phương không thấy tác phẩm nào đã ảnh hưởng lên triết học cận đại và hiện đại hơn “Phê phán lý tính thuần túy”

[20, XXX].

Trần Thái Đỉnh nhận xét: “Ai cũng công nhận cuốn “Phê phán lý tính

thuần túy” là một kỳ công vĩ đại của I.Kant và của tư tưởng nhân loại nói chung. Ai cũng chịu là cuốn này sâu sắc và khó hiểu” [7, 34].

Ngoài Lời tựa và Lời dẫn nhập, “Phê phán lý tính thuần thúy” gồm có hai phần chính: Phần thứ nhất theo truyền thống gồm những định lý “siêu hình” về không gian, thời gian và các khái niệm của giác tính thuần túy. Phần thứ hai là phần khảo sát siêu nghiệm đặt vấn đề về điều kiện

37

khả thể của những nền khoa học được thừa nhận. Khảo sát siêu nghiệm đưa ra những luận cứ biện minh tính khách quan và phổ quát cho phần khảo sát ở phần một.

Trong đó:

Phần I: Cảm năng học siêu nghiệm gồm hai chương: về không gian và thời gian: hai vật liệu chính bên trong của cảm năng, tức hai mô thức thuần túy của trực quan cảm tính, trụ cột thứ nhất của nhận thức.

Phần II: Lôgic học siêu nghiệm nghiên cứu về hai nhóm vật liệu khác: a. Phân tích pháp siêu nghiệm: tìm kiếm các vật liệu chính các giác tính: các phạm trù (còn gọi là “các khái niệm thuần túy của giác tính”) và các nguyên tắc, trình bày thành hai “quyển”: “phân tích pháp các khái niệm” và “phân tích pháp các nguyên tắc”, trụ cột thứ hai của nhận thức. Chỉ các loại vật liệu trên là đủ chất lượng để xây dựng tòa nhà nhận thức trong phạm vi kinh nghiệm.

b. Biện chứng pháp siêu nghiệm: kiểm tra loại vật liệu đặc biệt của lý tính: các ý niệm. Chúng đã được siêu hình học “giáo điều” sử dụng tùy tiện để xây nên ba tòa nhà lộng lẫy nhưng thiếu vững chắc: tâm lý học thuần lý (làm nảy sinh “các võng luận tâm lý học”); vũ trụ học thuần lý (làm nảy sinh các nghịch lý của lý tính thuần túy) và thần học thuần lý (nâng ý niệm lên thành “ý thể” tạo ra ba luận cứ thiếu cơ sở nhằm chứng minh sự tồn tại của Thượng đế). Sau khi kiểm tra, phê phán I.Kant đề ra phương pháp để giải quyết: các ý niệm của lý tính không thể cấu tạo nên nhận thức khách quan, nhưng nó vẫn có ý nghĩa quan trọng và chỉ được dùng để định hướng và thúc đẩy nhận thức trong nghiên cứu tự nhiên và là các “định đề” trong sinh hoạt đạo đức.

Như vậy, có thể nói “Phê phán lý tính thuần túy là tác phẩm triết

38

ra khả năng siêu “vượt” trong cơ cấu tri thức, đã hệ thống hóa chức năng siêu “vượt” trong khi luận giải về khách quan tính của tri thức triết học và từ đó mở ra những khả năng “vượt” khỏi giới hạn của những điều kiện đặc thù nội tại, hiểu như toàn thể hoàn cảnh con người, lịch sử và hệ thống triết học đương thời, để tầm mắt của con người có thể nhìn xa hơn trong khi truy tìm chân lý” [20, XLVII].

39

CHƢƠNG 2

MỘT SỐ NỘI DUNG CĂN BẢN TRONG QUAN NIỆM CỦA I.KANT VỀ "VẬT TỰ NÓ"

Dưới sự ảnh hưởng mạnh mẽ của khoa học tự nhiên lý thuyết cuối thế kỷ XVII – XVIII, cũng như nhiều nhà triết học cận đại, I.Kant đòi hỏi tri thức khoa học và triết học một sự hoàn hảo tuyệt đối và coi đó chính là lý tưởng của tri thức con người. Để đạt được điều đó, cả I.Kant lẫn Hium đều cho rằng khoa học thực sự phải dựa trên những tri thức tiên nghiệm (apriori) với hai đặc tính cơ bản là phổ quát và tất yếu. Do chưa thoát khỏi quan niệm siêu hình tách rời các mặt đối lập một cách tuyệt đối, nên I.Kant cho rằng mọi sự vật trong thế giới bên ngoài chúng ta chỉ tồn tại dưới dạng đơn nhất, cá biệt – thế giới hiện tượng. Điều đó buộc I.Kant phải lựa chọn một trong hai quan niệm sau:

Thứ nhất: Nếu như khẳng định mọi tri thức chúng ta đều là sự phản ánh

các sự vật của thế giới khách quan bên ngoài, thì phải thừa nhận mọi khoa học và triết học đều chỉ dựa trên những tri thức đơn lẻ, ngẫu nhiên.

Thứ hai: Nếu đòi hỏi tính phổ quát và tất yếu của tri thức triết học và

khoa học thì phải thừa nhận nguồn gốc của chúng không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan, mà là kết quả sáng tạo của trí tuệ con người.

“Đứng trước sự lựa chọn trên, I.Kant đã lập luận: từ trước tới giờ

người ta cho rằng, mọi tri thức của chúng ta đều phải phù hợp với các sự vật. Tuy nhiên, ở đây mọi ý đồ thông qua khái niệm xác lập một cái gì đó tiên nghiệm (apriori) về các sự vật, cái mà có thể mở rộng tri thức của chúng ta về chúng; kết cục đều thất bại. Vì thế…liệu chúng ta sẽ giải quyết những nhiệm vụ của siêu hình học một cách có hiệu quả hơn nếu chúng ta xuất phát tự luận điểm cho rằng, các sự vật phải phù hợp với nhận thức của chúng ta, -

40

và điều này đã đáp ứng hơn với đòi hỏi có được tri thức tiên nghiệm về chúng” [41, 386]. Để đạt được mục đích xây dựng nền tảng tri thức tiên

nghiệm của khoa học và tri thức, I.Kant buộc phải thừa nhận “Vật tự nó” (ding an sich) không nhận thức được, mọi tri thức con người không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan tức là “Vật tự nó”.

Vậy “Vật tự nó” trong quan niệm của I.Kant được hiểu như thế nào? Sau đây chúng ta cùng đi sâu vào tìm hiểu. Nhưng trước tiên, để hiểu được “Vật tự nó” là gì? Chúng ta sẽ phải tìm hiểu xem, quan niệm của ông về "hiện tượng" và “thế giới hiện tượng” – phần biểu hiện ra bên ngoài của "Vật tự nó" và cũng là phần đối lập với “thế giới vật tự nó” là như thế nào?

2.1. “Hiện tƣợng” và “Thế giới hiện tƣợng” trong quan niệm của I.Kant

Theo I.Kant "hiện tượng chỉ là vỏ ngoài hời hợt, chỉ là ảo tượng" [20, 74], thế giới hiện tượng là sự biểu hiện bề ngoài (hiện tượng) của thế giới vật tự nó; Là thế giới của kinh nghiệm; Nhận thức của chúng ta là nhận thức thế giới này – Hiện tượng luận.

Nhận thức của con người bắt đầu từ khi các sự vật, hiện tượng khách quan tác động đến các giác quan của con người, gây nên những cảm giác. Từ toàn bộ những cảm giác đó thông qua kinh nghiệm mà chủ thể nhận thức xây dựng nên những hình ảnh, những khái niệm, những phạm trù, những quy luật... về hiện tượng nói riêng và về thế giới hiện tượng nói chung. Nhận thức của con người chính là do năng lực nhận thức tạo ra, do hoạt động sáng tạo của chủ thể tạo ra tri thức, tri thức đó tạo ra thế giới hiện tượng và chính nó trở lại nhận thức cái do chính mình tạo ra đó. Vậy thế giới hiện tượng, nói đến cùng, là do kinh nghiệm con người “xây dựng” nên – thế giới ấy nằm trong phạm vi của cái chủ quan do tri thức của chủ thể nhận thức tạo ra. Đến lượt

Một phần của tài liệu Quan niệm của I. Kant về Vật tự nó trong Phê phán lý tính thuần túy (Trang 35)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(78 trang)