Chiến lược giao tiếp của các nhân vật trong Truyện Kiều

Một phần của tài liệu Ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều (Trang 57)

7. Cấu trúc luận văn

2.3. Chiến lược giao tiếp của các nhân vật trong Truyện Kiều

Khảo sát các đoạn hội thoại trong Truyện Kiều, có thể thấy mỗi nhân vật đều có chiến lược giao tiếp khi tham gia hội thoại sao cho đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất. Ở đó, người nghiên cứu ngữ dụng học có thể tìm thấy những mẫu mực về việc sử dụng các chiến lược giao tiếp trong hội thoại, một trong các nhân vật có chiến lược giao tiếp linh hoạt là nhân vật Thuý Kiều.

Chính nhờ chiến lược giao tiếp ấy mà Thuý Kiều đã chiếm được cảm tình hầu hết đối với những người từng gặp Kiều, ngay cả những người khó tính nhất. Từ Thúc Ông vì Kiều mà Phong lôi nổi trận lôi đình, đến viên quan mặt sắt đen sì từ chỗ lăng mạ Kiều đã quay sang ca ngợi nàng hết lời, đến quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến, hay như Hoạn Thư, người coi Kiều là “tình địch” cũng phải thốt lên lời khen nàng.

Trong đa số hoàn cảnh giao tiếp, Kiều thường sử dụng lối nói gián tiếp, ước lệ, sử dụng các điển cố, điển tích, tránh đề cập trực tiếp vào vấn đề nhằm giữ thể diện cho người nghe, tránh sự sỗ sàng, đột ngột cho họ.

Khi trao duyên cho Thuý Vân, ngôn ngữ của Kiều được sử dụng một cách có cân nhắc, chọn lựa:

Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Ở đây, Kiều nói cậy mà không nói nhờ, mượn. Cả ba từ đều cùng một nội hàm nghĩa cầu khiến người khác làm việc gì đó cho mình nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm. Cậy là nhờ với tất cả sự tha thiết và biết ơn. Bởi vì việc Kiều nhờ Vân liên quan đến hạnh phúc và tương lai của Vân. Vả lại Kiều yêu Kim Trọng, mong muốn kết tóc xe tơ cùng chàng chứ Vân lại khác. Vì vậy Kiều nói

chịu lời chứ không nói nhận lời. Từ chịu bao hàm ý thiệt thòi, nghĩa là nhận lời Kiều tức Vân nhận sự hi sinh về mình. Ở đây, hành động cầu khiến đã được Kiều sử dụng một cách ý nhị, tinh tế với tất cả tấm lòng thiết tha, mong mỏi. Chính vì vậy, ý nghĩa cầu khiến được giảm nhẹ.

Hay khi Kiều khuyên Kim Trọng phải biết giữ giới hạn của tình yêu, Kiều đã mượn điển tích gieo thoi đời Tấn để nhắc nhở chàng Kim, tránh nói trực tiếp khiến chàng Kim phải sượng sùng:

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

Mặt khác, khi đối thoại Kiều luôn tỏ thái độ đề cao người nghe, thể hiện sự khiêm nhường của người con gái lễ nghĩa, khuê các. Trong các cuộc thoại, Kiều sử dụng đa số từ thưa rằng (9 lần), rằng (31 lần) (trong tổng số 65 lần Kiều phát ngôn). Lúc nào Kiều cũng đặt mình ở vị trí thấp hơn người đối thoại. Nàng

xem mình là phận mỏng cánh chuồn (Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?), phận bèo mây, cỏ nội hoa hèn, thân bèo bọt (Rằng: “Tôi bèo bọt chút thân, Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh”; Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau), chiếc bách, giọt mưa rào.... Đồng thời đề cao, tôn trọng người đối thoại, gọi họ là người quân tử

(Kim Trọng), lượng cả bao dong, đấng anh hùng (Từ Hải), lời châu ngọc (Thúc Sinh)... Nhìn chung, trong các cuộc thoại, Kiều thường sử dụng chiến lược lịch sự âm tính một cách linh hoạt. Kiều nhún mình nhưng không hạ mình, trân trọng, khuyến khích, tôn người đối thoại lên nhờ vậy quá trình giao tiếp diễn ra một cách thuận lợi và cảm hoá được người đối thoại. Bên cạnh đó, chiến lược giao tiếp của Kiều mang lại hiệu quả cao không chỉ thể hiện ở việc sử dụng các biện pháp của chiến lược lịch sự âm tính mà còn thể hiện ở việc sử dụng các yếu tố lập luận để tăng cường khả năng thuyết phục người đối thoại trong giao tiếp.

Trong Truyện Kiều, có thể thấy một đặc điểm nổi bật là ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật đều mang tính chiến lược. Ngay cả Mã Giám Sinh, một gã lưu manh chuyên đi dạo lấy người ở chốn lầu xanh cũng có những lúc ăn nói hết sức khéo léo, tế nhị để nguỵ biện cho mục đích buôn người của hắn:

Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Hay như Hoạn Thư, khi cần ra oai, trấn áp người đối diện thì thị sẵn sàng dùng những từ ngữ như thét, quát, hỏi tra... , khi cần bao biện cho tội ác của mình thị sẵn sàng liệu điều kêu ca một cách bài bản. Thế nhưng khi bắt gặp Thúc Sinh sụt sùi tâm sự với Kiều ở Quan Âm các, lẽ ra thị phải: Thực tang bắt được đường này, Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng. song thị lại hành xử theo kiểu: Thế mà im chẳng đãi đằng, Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng. Chiến

lược giao tiếp này của Hoạn Thư quả là cao tay! Nó vừa giữ thể diện cho chồng thị là Thúc Sinh trước mặt kẻ ăn người ở (Hoa nô), lại vừa ngầm đe doạ thể diện, cảnh báo chồng thị và “tình địch” của thị (Thuý Kiều), khiến cho cả hai phải sởn gai rụng rời. Người đọc bao thế hệ có lẽ vẫn phải khâm phục cái bản lĩnh ghen tuông của thị. Hoạn Thư không cần đánh ghen một cách bù lu bù loa như những người phụ nữ khác, thị sử dụng biện pháp im lặng cũng đã khiến người khác phải kinh hãi!

Ngoài ra, nói đến chiến lược giao tiếp đặc sắc còn phải kể đến nhân vật Kim Trọng. Trong truyện, Kim Trọng nổi lên như một hình tượng văn nhân nho nhã (Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa). Chính vì vậy ngôn ngữ giao tiếp cũng như chiến lược giao tiếp của Kim Trọng cũng hết sức tinh tế.

Trong buổi đầu gặp Kiều, khi muốn tỏ tình với Thuý Kiều, chàng Kim đã không dùng biện pháp hỏi trực tiếp mà chàng sử dụng lối nói gián tiếp thật hay:

Tiện đây xin một hai điều,

Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?

Chàng Kim ví Kiều như “đài gương” (chỉ người con gái đẹp, sang trọng) theo kiểu “hô tôn”, còn mình chỉ là “dấu bèo” (thân phận chìm nổi, nhỏ bé, thấp kém) theo kiểu “xưng khiêm”. Nhờ cách ví nhún mình ấy, lời tỏ tình của Kim Trọng trở nên ý nhị, tinh tế hơn.

Ngay cả khi ca ngợi, đề cao Kiều, chàng Kim cũng thật ý tứ mượn điển cố đời xưa để ví tránh sự sỗ sàng:

Khen: “Tài nhả ngọc phun châu, Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này.

Phúc nào nhắc được giá này cho ngang”.

Đặc biệt, một người như Từ Hải, tưởng chỉ tinh thông võ luyện, không biết đến các phép tắc giao tiếp nhưng khi gặp Kiều, Từ Hải ăn nói thật tình tứ. Từ không nói một cách trực diện theo kiểu: Bấy lâu đã có ai vừa ý em chưa? mà bóng gió xa xôi:

Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Lời dò hỏi của Từ đã nâng Kiều lên một vị thế khác. Từ xem Kiều là đào (người đẹp), mắt xanh (con mắt nhìn ai mà tỏ ý vừa lòng và kính trọng). Kiều dùng từ nghe tiếng chứng tỏ nhan sắc của nàng là tuyệt sắc, tạo nên tiếng tăm. Chính lời hay ý đẹp của Từ cũng đã phần nào giúp Từ chiếm được cảm tình của Kiều.

Nhìn chung, chiến lược giao tiếp đã được các nhân vật trong Truyện Kiều

sử dụng một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện và phát huy tác dụng của nó. Chiến lược giao tiếp trở thành một yếu tố quan trọng trong giao tiếp, nó không chỉ tác động đến quá trình giao tiếp mà còn cả kết quả giao tiếp. Nhờ sử dụng chiến lược giao tiếp mà các cuộc thoại trong Truyện Kiều trở nên nhuần nhị và các nhân vật tham gia giao tiếp đạt được đích giao tiếp mà họ mong muốn một cách thuận lợi hơn.

Chương 3

KHẢO SÁT CÁC NHÓM ĐỘNG TỪ CHỈ HÀNH ĐỘNG NÓI NĂNG QUA NGÔN NGỮ HỘI THOẠI CỦA CÁC NHÂN VẬT

TRONG TRUYỆN KIỀU

Một phần của tài liệu Ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều (Trang 57)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(97 trang)