Định tuyến IP thông thường thực hiện chia tải ngang bằng (equal-cost). Nếu có nhiều hơn 1 con đường giữa 2 nút và các đường này có phí tổn bằng nhau thì lưu lượng sẽ được chia bằng nhau trên các đường này. Các giao thức hiện tại có thể hỗ trợ tối đa 8 đường song song. Tuy nhiên, chia tải ngang bằng (equal-cost) không được linh hoạt. Nếu ta cố gắng cân bằng lưu lượng trong mạng bằng cách thay đổi phí tổn liên kết thì điều này thật khơng dễ dàng. Thay đổi phí tổn liên kết ở 1 phần của mạng có thể ảnh hưởng đến luu lượng ở các phần khác mà ta khơng thể dự đốn trước được.
Chia tải phí tổn khơng cân bằng trong IP cũng có vấn đề về lặp vịng. Vì router A khơng thơng báo cho router B biết phải làm gì đối với lưu lượng đến từ A, và B có thể chuyển 1 phần lưu lượng này trở về A. Tuy nhiên, vấn đề này có thể được giải quyết trong MPLS TE. Nếu có 1 nhãn được gán cho gói IP đi từ A đến B và nhãn này tạo ra trong quá trình thiết lập LSP từ A đến C thì nó sẽ được B chuyển tiếp cho C mà khơng thực hiện tìm kiếm địa chỉ IP.
Hoạt động của chia tải phí tổn khơng cân bằng bao gồm 2 phần: • Thiết lập tỉ lệ chia tải.
• Cài đặt các tỉ lệ này trong bảng FIB.
3.8. Tổng kết chương
Các giao thức định tuyến đưa lưu lượng qua mạng theo con đường ngắn nhất mà không quan tâm đến các tham số khác dẫn đến việc sử dụng khơng hiệu quả băng thơng sẵn có trong mạng. Kĩ thuật lưu lượng được triển khai cho phép quản lí và sử dụng băng thông tốt hơn, giải quyết tạm thời vấn đề tắc nghẽn trong mạng backbone. Một ưu điểm nữa là khả năng hồi phục nhanh, giúp giảm thiểu tỉ lệ mất gói khi xảy ra lỗi trên các liên kết hoặc các nút chuyển mạch nhãn.