7. Cấu trúc của luận văn
2.1.1. Bi kịch chiến tranh
Chiến tranh bao giờ cũng mang lại nỗi đau cho con người trong và sau khi nó diễn ra. Nhà văn Thùy Dương sinh ra và lớn lên trong thời chiến, "trải
qua cả tuổi thơ ở nơi sơ tán" với cảnh chạy loạn, cảnh nhà tan tác chia ly,
người còn người mất… Những ký ức đau thương ấy được chị biến thành nguồn tư liệu quý giá cho những trang viết của mình. Trước chị, đã có nhiều nhà văn viết về chiến tranh như Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng, Trung Trung Đỉnh với Lính trận, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh…Họ viết về chiến tranh bằng cảm xúc của người trong cuộc - những người lính đã đi qua cuộc chiến tranh. Bởi thế, các trang viết của họ tái hiện rất chân thực bộ mặt tàn khốc của chiến tranh. Khác với những nhà văn cầm súng kể trên, Thùy Dương không mặc áo lính ra trận, nhưng cũng như bao người khác, chị sống trong không khí của người hậu phương, chứng kiến những gian khó và khổ đau của những người ở phía sau cuộc chiến, ở hậu phương thời chiến. Vì vậy, những trang viết về chiến tranh của chị chiếm số lượng không nhiều nhưng lại mang một sức gợi ghê gớm về sự hy sinh và mất mát.
Viết về chiến tranh, Thùy Dương đã viết bằng cảm hứng của một thế hệ nhà văn mang tinh thần "không thể viết như cũ được nữa" (Lê Lựu). Trong
Ngụ cư, nhân vật bác tổ trưởng khi nhớ lại ký ức chiến tranh không phải với
cảm giác tự hào mà là cảm giác ghê sợ " Chỉ một phát đạn. Chiến tranh - tất
cả đều có thể. Chiến tranh cho phép con người thả buông thú tính" [6, 129].
Còn ở Thức giấc, tình yêu của một cô thôn nữ với một cán bộ cách mạng đã có gia đình được nảy nở trong hoàn cảnh "…giặc giã như thế, biết sống chết
thế nào. Con người cũng có phút thả lòng mình" [7, 172]. Phần tối của chiến tranh hiếm khi được nhắc tới trong văn học sử thi, bây giờ đây hiển hiện trong tiểu thuyết của Thùy Dương và một số cây bút khác như một lời cảnh tỉnh về nhân cách của con người trong bom đạn. Chiến tranh cho phép con người coi thường mạng sống của đối phương, cho phép con người vượt qua giới hạn của đạo đức? Bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của người phụ nữ, Thùy Dương không nhìn cuộc chiến từ những tấm huy chương mà từ phía đau thương với "những cái chết nhìn thấy mà không cứu được" [6,130]. Chị còn nhìn thấy một sự thật "…chiến tranh có kiêng nể gì ai. Người ra tiền tuyến có khi trở về
mà người ở hậu phương lại dính bom bi bom miếng" [8, 19]. Dù ở thời đại
nào, chiến tranh cũng có sức tàn phá khủng khiếp đối với đời sống vật chất lẫn tinh thần con người ở tiền phương hay hậu phương.
Trong tiểu thuyết của Thùy Dương, chiến tranh hiện ra chỉ qua một vài phác họa tưởng như sơ sài, nhưng lại có sức ảm ảnh ghê gớm với người đọc. Trong Ngụ cư, hình ảnh của cuộc tấn công vào nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 hiện ra thật kinh hoàng "Từng đoàn người nháo nhào tháo chạy. Già trẻ, nam nữ, tơi tả, tan tác, tóc tai rũ rượi, máu me bê bết trong khói lửa cuồn cuộn. Những gương mặt khiếp đảm, hoảng loạn. Khóc lóc, kêu gào…Thảm
cảnh chiến tranh hiện ra rõ mồn một, bằng xương bằng thịt" [6,130], nhân vật
tôi sống lại ký ức của những ngày sơ tán "…hàng phở chỉ còn là một cái hố sâu hoắm. Chiếc nồi quân dụng mà nhà hàng vẫn ninh nước dùng bị quăng lên bờ méo xèo xẹo. Không tìm được ai nguyên vẹn. Xương trâu xương bò lẫn
với những mảnh thi thể người…"[6,133]. Không chỉ nhìn cuộc chiến tranh
như đã từng thấy, Thùy Dương còn mang vào trong những trang viết về chiến tranh những nỗi đau không thể nguôi ngoai.
Chiến tranh không chỉ thấy nơi tiền tuyến mà còn hiện hữu nơi hậu phương. Đó là bi kịch của các gia đình vì chiến tranh mà ly tán: mẹ xa con, vợ
xa chồng, con không biết mặt bố… Biết bao cặp vợ chồng mới cưới, sống với nhau chỉ được vài ngày là chồng đã phải ra mặt trận, để lại hậu phương những người vợ mòn mỏi đợi chờ. Trong thời chiến, có một bài vè về tình yêu rất phổ biến:
Cây tre xanh không bao giờ héo ngọn Thời buổi này kén chọn làm chi
Hòa ơi cứ lấy Cầm đi
Bao giờ Cầm đẻ Hòa về bế con Chúc anh Hòa lên đường mạnh khỏe Chúc chị Cầm ở nhà đẻ đứa con giai…
[6, 58]
Có thể bắt gặp ở bất kỳ đâu kiểu gia đình mà cả mẹ chồng và con dâu (nhân vật chị Thỏa và Thúy trong câu chuyện của bác tổ trưởng) đều có chồng ra trận. Những mong ước đơn sơ nhất của cuộc sống vợ chồng cũng không thể có được "đàn bà đang tuổi xuân sắc…mà vắng chồng đến bốn năm năm"
[6,56]. Khi không còn chịu đựng nổi cuộc sống vò võ chờ đợi, người phụ nữ (chị Thỏa) phải vùng ra khỏi khuôn phép, đi tìm hạnh phúc cho mình. Cô con dâu (Thúy) viết thư cho anh chiến sĩ đã từng ở trọ nhà mình thổn thức "Mẹ bỏ đi rồi. Chỉ còn mỗi mình em ở nhà chờ bố và chồng em. Bao giờ mới hết
chiến tranh hả anh?" [6, 56]. Người ta còn thấy "các bà các chị xa chồng đêm
đêm cứ lượn lờ, có người ra cả cánh đồng. Họ cứ đi như thế mà vẫn cứ ngủ,
người nọ gặp người kia mà chẳng nhận ra nhau…" [6, 61]. Trong chiến tranh,
người phụ nữ là người can trường nhất và cũng chịu nhiều đau khổ nhất. Thùy Dương đã đồng cảm với số phận nhân vật nữ của mình. Và ngay cả khi họ
"sống cho mình", Thùy Dương cũng nhất quyết bênh vực cho họ. Không chỉ
vậy, bi kịch nơi hậu phương còn dành cho nhiều bà mẹ có con hy sinh "đêm
người phải chứng kiến nỗi đau chiến tranh như ông chủ tịch xã "Đây là lần thứ năm mươi mốt ông phải đọc giấy báo tử thế này. Ông gần như đã thuộc lòng. Ông sẽ còn phải đọc thêm ba mươi mốt lần như thế cho đến khi tóc ông bạc trắng hẳn. Sau đó vào năm 1979, ông còn đọc thêm chín tờ giấy như vậy nữa. Cả xã chỉ có ba thôn lớn và một ấp nhỏ, tổng cộng có hơn một ngàn
nhân khẩu thì có gần một trăm liệt sĩ" [8, 33].Trong cảm xúc của mình, Thùy
Dương như muốn nhân lên: sự hy sinh ngoài mặt trận càng nhiều thì sự đau đớn âm thầm của những con người nơi hậu phương càng lớn hơn.
Chiến tranh đã kết thúc, nhưng nỗi đau mà nó để lại vẫn còn âm ỉ cho tới tận hôm nay. Nhà văn Thùy Dương đã phơi bày vấn đề ấy trong tác phẩm của mình: Đó là nỗi đau của bà mẹ liệt sỹ "gần hai mươi năm qua, vào lúc
đêm về sáng, lúc bà nghẹn ngào thầm hời tôi…". Đó là lời bộc bạch của hồn
ma nhân vật trung đội trưởng Thành khi nhập vào Thảo "Mấy chục năm trôi qua rồi. Người ta đã quên hết rồi, cả chúng tôi cũng bị lãng quên rồi…Còn có những người mà chúng tôi nằm xuống xanh cỏ để cho họ đỏ ngực, đủ danh lợi thì có nghĩ gì đến chúng tôi đâu. Nếu họ nghĩ ngay đến chúng tôi sau khi hòa bình vừa lập lại thì…đâu phải ngậm ngùi nơi rừng xanh lạnh lẽo thế này"
[8, 175-176] chứa đựng nỗi xót xa khi sự cống hiến của những người "xương
thịt trộn với đất rừng" ghi công cho một ai đó bị chìm vào trong quên lãng.
Thùy Dương còn thấy thân phận con người trôi dạt sau chiến tranh ở cả phe ta và phe "địch". Anh lính ngụy "bị ép đi lính, mẹ già con nhỏ khóc hết nước mắt. Vợ tóc xổ tung chạy theo chiếc xe chân trần lầm bụi cát…có lần trốn về
thăm nhà bị bắt lại bị nhốt trong hầm bỏ đói" [8,191], anh lính "ta" "chỉ muốn
ở quê cưới một cô gái làng khỏe mạnh, đẻ liền tù tì bốn năm đứa nhóc"
[8,191] nào có khác gì nhau; nhưng chiến tranh làm con người trở nên tàn nhẫn, lạnh lùng và đáng sợ. Chiến tranh không phân biệt người tốt kẻ xấu, súng đạn không ngoại trừ ta - địch, chỉ có người sống và kẻ chết. Trưởng
thành trong thời hậu chiến, Thùy Dương cũng như nhiều nhà văn khác đã nhìn nhận lại cuộc chiến tranh một cách khách quan trên tinh thần nhân văn chủ nghĩa, bởi "không phải chỉ có một sự thật, mà có nhiều sự thật, về chiến tranh
Việt Nam và về bất cứ sự kiện nào xảy ra trong cuộc chiến ấy" [45].
Cảm hứng bi kịch về chiến tranh trong tiểu thuyết của Thùy Dương được tiếp nối từ cảm xúc trong truyện ngắn của chị. Nhiều truyện ngắn của chị về chiến tranh như Cô tôi, Trinh nữ, phận đàn bà, Họ có ba người, Hai
người đàn bà, Bóng chiều sắp qua, Đường trần…thẫm đẫm khổ đau của con
người trải qua bom đạn. Họ quay về mang theo vết thương hậu chiến, hoặc là hòa nhập vào cuộc sống rồi quên đi ký ức đau buồn, hoặc là sống mãi với hoài niệm về tình người trong chiến tranh. Sẽ còn mãi hình ảnh "chín cô gái thanh niên xung phong bị sức ép của bom chết mà trên người không còn mảnh vải. Áo quần cũng bị xé nát…Bố bế trên tay từng cô trắng, mềm và thầm khấn nếu còn sống về với vợ con xin đẻ toàn con gái để các cô có chốn
mà trở về dương gian" [10, 395]. Đọc những trang viết về chiến tranh của
Thùy Dương, trái tim người đọc cứ trĩu xuống, thổn thức theo nỗi đau của nhân vật và liên tưởng tới Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Ký ức trong
Nỗi buồn chiến tranh lần lượt hiện về trong tâm hồn nhân vật Kiên suốt cuộc
hành trình trở lại chiến trường xưa. Ký ức đau thương ở truông Gọi Hồn cứ ẩn hiện cào xé như nhức nhối trong Kiên. Rồi lần lượt từng số phận gắn với những cái chết kinh hoàng của đồng đội hiện lên trong Kiên như một thước phim quay chậm ở mọi góc cạnh. Cảm giác của Kiên cũng như của những nhân vật trong tiểu thuyết của Thùy Dương về chiến tranh đều thật hãi hùng. Bi kịch của họ là bi kịch của con người bước qua chiến tranh; nếu hy sinh thì đau đớn vì cống hiến của mình bị lãng quên, nếu may mắn sống sót thì hoặc mang thương tật về thể xác hoặc bị chấn động về tinh thần không thể hòa nhập được với cuộc sống. Chiến tranh xuất hiện trong tiểu thuyết của Thùy
Dương tuy không nhiều nhưng thật ám ảnh. Đằng sau đó, nhà văn muốn gửi gắm một thông điệp về tình người, giống như sự cứu rỗi cho tâm hồn con người khi nhìn về tương lai bằng lăng kính quá khứ.