Các nghiên cứu theo phương pháp toán kinh tế

Một phần của tài liệu các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành chế biến của việt nam (Trang 39 - 91)

5. Bố cục của luận văn

1.3.2. Các nghiên cứu theo phương pháp toán kinh tế

Không giống như các nghiên cứu mang tính tư liệu ở trên, các phân tích theo phương pháp toán kinh tế gặp một số khó khăn về phương pháp và kiểm chứng. Ví dụ, đích thực có khó khăn trong các mô hình kiểm chứng cụ thể, các mô hình vốn chỉ khác nhau về mặt giả định. Ngay cả khi đã cụ thể hoá một mô hình để tiến hành kiểm chứng, trong mô hình đó vẫn có rất nhiều biến rất khó giải quyết, ví dụ như khác biệt hoá sản phẩm và lợi thế kinh tế theo quy mô. Mặc dù gặp phải những khó khăn trên, có khoảng 1 tá các phân tích theo phương pháp toán kinh tế kiểm chứng giả thiết liên quan đến các đặc điểm của quốc gia và của ngành đã được công bố. Các nghiên cứu này khác nhau về quốc gia và ngành được nghiên cứu, khoảng thời gian, các đặc điểm của mô hình, các mẫu sử dụng và cả cách đo thương mại nội ngành.

Các phân tích theo phương pháp toán kinh tế khẳng định rằng các biến đặc trưng cho quốc gia và cho ngành có ảnh hưởng khác nhau đến thương mại nội ngành theo chiều dọc và thương mại nội ngành theo chiều ngang. Người ta cũng đã thực hiện các phân tích riêng rẽ nhằm kiểm chứng các giả thiết liên quan đến các đặc điểm quốc gia và ngành của các yếu tố quyết định thương mại nội ngành theo chiều dọc và thương mại nội ngành theo chiều ngang. Với mục đích đó, Greenaway, Milner và Elliot (1999) đã xây dựng các mô hình theo phương pháp toán kinh tế cho thương mại nội ngành theo chiều dọc và thương mại nội ngành theo chiều ngang, trong đó, các đặc điểm về quốc gia và về ngành được coi là các biến giải thích.

Trong mô hình Thương mại nội ngành theo chiều ngang của mình, 3 tác giả trên hy vọng kiểm tra được mô hình Chamberlin-Heckscher-Ohlin bằng cách sử dụng thương mại nội ngành theo chiều ngang, chứ không phải là thương mại nội ngành nói chung, làm biến độc lập. Sau đây là mô hình Thương mại nội ngành theo chiều ngang mà họ kiểm chứng:

HBjk = α0 + α1 j j k k Y Y NN +α2 2 j k YY +α3 YjYk + α4 PDj + α5 MSj +α6 SEj + α7 MNEj + ej (2.25) Trong đó:

HBjk = Tỷ trọng của thương mại nội ngành theo chiều ngang trong thương mại 2 chiều của một quốc gia trong ngành sản xuất j với quốc gia k

Y = Thu nhập quốc gia (i = nước sở tại, k = đối tác thương mại) N = Quy mô dân số

PDj= Mẫu (đại diện) cho sự khác biệt hoá sản phẩm theo chiều ngang trong ngành sản xuất j

MSj = Ước số kết cấu thị trường trong ngành sản xuất j

SEj = Mẫu (đại diện) cho quy mô (hiệu quả tối thiểu) trong ngành sản xuất j

MNEj = Ước số tầm quan trọng của công ty đa quốc gia trong ngành sản xuất j

Trong phương trình hồi quy trên, α1 < 0, α2 > 0, α3 < 0, α4 > 0, α5 > 0, α6 < 0, α7 > 0. Với các giả thiết này, Greenaway, Milner và Elliot (1999) đưa ra các đặc điểm của quốc gia và ngành của các yếu tố quyết định thương mại nội ngành theo chiều ngang như sau:

Các đặc điểm của quốc gia:

1. Sự khác biệt liên quan đến vốn / công nhân (một mẫu cho thu nhập trên đầu người) giữa 2 quốc gia càng nhỏ thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều ngang càng lớn.(α1 < 0)

2. Quy mô trung bình của thị trường của 2 nước càng lớn thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều ngang càng lớn (α2 > 0)

3. Sự khác biệt về thu nhập tuyệt đối giữa 2 nước càng nhỏ thì thị phần của Thương mại nội ngành theo chiều ngang càng lớn (α3 < 0)

Các đặc điểm của ngành:

1. Mức độ khác biệt hoá sản phẩm theo chiều ngang càng lớn thì thị phần của Thương mại nội ngành theo chiều ngang càng lớn (α4 > 0 )

2. Càng có nhiều Công ty trong một ngành thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều ngang trong ngành đó càng lớn (α5 > 0 )

3. Quy mô hiệu quả tối thiểu càng nhỏ, càng có nhiều Công ty, càng có nhiều sản phẩm khác biệt hoá theo chiều ngang, và như vậy thị phần của thương mại nội ngành theo chiều ngang càng lớn ( α6 < 0)

4. Các Công ty đa quốc gia càng tham gia nhiều (vào thị trường) thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều ngang càng lớn ( α7 > 0) Các mô hình Thương mại nội ngành theo chiều dọc ít hơn mô hình thương mại nội ngành theo chiều ngang vì nó khó điều chỉnh hơn về mặt lý thuyết. Các mô hình này xuất xứ từ những đóng góp có ảnh hưởng sâu rộng của Falvey (1981) và Shaked và Suttan (1984). Mô hình Falvey dự đoán rằng thị phần của thương mại nội ngành theo chiều dọc sẽ càng lớn ở cả 2 quốc gia nếu sự khác biệt về vốn/lao động hoặc thu nhập trên đầu người càng lớn. Ngoài ra, Falvey cho rằng, số lượng thương mại nội ngành theo chiều dọc rõ ràng có liên quan đến quy mô trung bình của thị trường của 2 quốc gia. Các nguồn lực riêng biệt cho từng ngành sản xuất không được định nghĩa một cách thật sự chính xác. Không có động lực cho việc chuyên môn hoá dựa vào lợi thế kinh tế theo quy mô nhưng lại có rất nhiều công ty tham gia vào thị trường. Shaked và Suttan lại có quan điểm tương đối khác. Mô hình của họ cho thấy vai trò rõ nét của kết cấu thị trường, trong đó thương mại nội ngành bị thúc đẩy bởi lợi thế kinh tế theo quy mô (lợi thế này lại liên quan nhiều đến thị trường chung). (Greenaway, Milner và Elliott, 1999).

Bằng cách xem xét lý thuyết của mô hình Thương mại nội ngành theo chiều dọc, Greenaway, Milner và Elliott (1999) đã đưa ra mô hình Thương mại nội ngành theo chiều dọc theo phương pháp toán kinh tế như sau:

VBjk = 0 + 1 j j k k Y Y NN +2 2 j k YY + 3 PDj + 4 MSj +5 SEj + 6 MNEj + ej (2.26) Trong đó:

VBjk = Thị phần của thương mại nội ngành theo chiều dọc trong tổng thương mại song phương (gross bilateral trade) của một nước trong ngành sản xuất j với quốc gia k

Trong phương trình hồi quy này, Thương mại nội ngành theo chiều dọc là biến kiểm soát (control variable)

Và:

Với điều kiện đó, 3 tác giả đã đưa ra đặc điểm của quốc gia và ngành của các yếu tố quyết định thương mại nội ngành theo chiều dọc như sau:

Các đặc điểm của quốc gia:

1. Sự khác biệt liên quan đến vốn / công nhân giữa 2 quốc gia càng lớn thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều dọc càng lớn.(β1 > 0). 2. Quy mô trung bình của thị trường của 2 nước càng lớn thì thị phần của

thương mại nội ngành theo chiều dọc càng lớn (β2 > 0).

Các đặc điểm của ngành:

1. Mức độ khác biệt hoá sản phẩm theo chiều ngang càng nhỏ thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều dọc càng lớn (β3 < 0 ).

2. Càng có nhiều công ty đa quốc gia thì thị phần của thương mại nội ngành theo chiều dọc càng lớn (β6 > 0).

Theo Greenaway, Milner và Elliott (1999), tính mập mờ, không rõ ràng của β4 và β5 xảy ra do sự khác biệt trong các giả định của Falvey (1981), Shaked và Suttan (1984) liên quan đến lợi thế kinh tế theo quy mô và kết cấu thị trường.

Kết quả là, mặc dù sự khác biệt trong các mô hình lý thuyết gây ra một số khó khăn, việc phân chia thành 2 loại khác biệt hoá theo chiều ngang và chiều dọc lại thúc đẩy các phân tích theo chủ nghĩa kinh nghiệm và tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tính vững chắc của các mô hình thay thế.

1.3.3. Kết luận về phân tích theo chủ nghĩa kinh nghiệm về thương mại nội ngành theo chiều dọc và thương mại nội ngành theo chiều ngang

Có căn cứ để khẳng định rằng có một bộ phận không nhỏ các công trình nghiên cứu vừa mang tính tư liệu vừa mang tính toán kinh tế. Chúng ta cũng hiểu rõ hơn về các yếu tố giải thích về thương mại nội ngành trong hơn một thập kỷ vừa qua.

Chương này vừa tóm tắt các mô hình lý thuyết và mô hình theo chủ nghĩa kinh nghiệm ẩn sau thương mại nội ngành theo chiều dọc và thương mại nội ngành theo chiều ngang. Chương sau sẽ đề cập đến việc đo lường thương mại nội ngành, thương mại nội ngành theo chiều dọc và thương mại nội ngành theo chiều ngang.

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Thiết kế nghiên cứu

2.1.1. Địa điểm nghiên cứu

Trong đề tài này, tác giả sẽ chọn 10 quốc gia là đối tác thương mại lớn của Việt Nam, đó là: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, HongKong, Canada, Denmark, Bulgaria, Campuchia và Malaysia.

2.1.2. Phương pháp thu thập số liệu

Trên cơ sở số liệu xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam thu thập từ cơ sở dữ liệu UNSD (United Nations Statistics Division).

Số liệu về GDP và dân số được thu thập từ nguồn số liệu IMF và Global Insight. Khoảng cách về mặt địa lý giữa Việt Nam và các đối tác thương mại của Việt Nam được trích từ Indo.com (http://indo.com/distance/). Số liệu về tiếp giáp với biển được trích từ nguồn số liệu the Economist Intelligence Unit.

2.1.3. Phương pháp xủ lý số liệu

Trong đề tài này, tác giả sẽ sử dụng kết hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng. Phương pháp định tính được áp dụng để phân tích cơ cấu và xu hướng thương mại nội ngành, phương pháp định lượng được áp dụng để phân tích các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành giữa Việt Nam và mười nước bạn hàng của Việt Nam trên thế giới.

2.2. Mô hình

Dựa trên nghiên cứu của Stone và Lee (1995), đề tài này ước tính chuyển dạng logit (logit transformation) như sau:

ijt ijt ijt u Z IIT IIT             1 ln

Trong đó: Z là vector của các biến giải thích, bao gồm cả hệ số chặn, β là vector của các hệ số tương ứng, và uijt là phần sai số.

Giá trị thương mại nội ngành sẽ được tính toán cho giai đoạn 2001 - 2010 trên cơ sở số liệu xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Biến phụ thuộc trong mô hình (IIT, HIIT và VIIT) được tính toán ở cấp 2 và 4 chữ số.

2.2.1. Mô tả mô hình

Trên cơ sở phân tích các công trình nghiên cứu thực nghiệm trước đây, mô hình phân tích được trình bày dưới dạng sau đây:

IITijt = f(PCIit, PCIjt, DGDPijt, DPCIijt, DISTij, TIMBijt, TIijt, OPENjt, LOCKj)

2.2.1.1. Biến phụ thuộc

Trong đề tài này, biến phụ thuộc bao gồm: mức độ thương mại nội ngành (IIT), thương mại nội ngành theo chiều ngang (HIIT) và thương mại nội ngành theo chiều dọc (VIIT).

- Mức độ thương mại nội ngành (IITijt): Để đánh giá mức độ thương mại nội ngành giữa Việt Nam với phần còn lại của thế giới, tác giả sử dụng chỉ số G-L (Grubel và Lloyd, 1975). Đây là chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất và được coi là phương pháp thích hợp nhất để phân tích cơ cấu xuất nhập khẩu của một ngành trong một thời điểm nhất định. Chỉ số G-L sử dụng để tính toán tỷ trọng của thương mại nội ngành (IIT) theo công thức sau:

ijk ijkijk ijk ij M X M X IIT    1 Trong đó:

 Xijk là giá trị xuất khẩu hàng hóa i từ quốc gia j sang quốc gia k.

 Mijk là giá trị nhập khẩu hàng hóa i của quốc gia j từ quốc gia k.

Chỉ số IITij nhận giá trị từ 0 đến 1. Chỉ số này càng cao thì càng chứng tỏ mức độ thương mại nội ngành càng cao. Chỉ số IITij=0 cho thấy thương mại giữa hai quốc gia hoàn toàn là thương mại liên ngành. Ngược lại, chỉ số IITij=1 cho thấy thương mại giữa hai quốc gia hoàn toàn là thương mại nội ngành.

Chỉ số IITij ở phương trình trên có thể được điều chỉnh để đo lường mức độ thương mại nội ngành đối với tất cả các sản phẩm của một quốc gia theo phương pháp bình quân gia quyền:

             ( ) | | 1 1 ijk ijk ijk ijk n i ijk ij M X M X w IIT trong đó                  n i ijk ijk ijk ijk ijk M X M X w 1 ) ( (

- Thương mại nội ngành theo chiều ngang và theo chiều dọc: Thương mại nội ngành (IIT) bao gồm hai hợp phần. Hợp phần thứ nhất là thương mại nội ngành theo chiều ngang (HIIT). Thương mại nội ngành theo chiều ngang xảy ra khi xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời hàng hóa tương tự như nhau do sự khác biệt hóa sản phẩm (sự khác biệt hóa theo chiều ngang). Hợp phần thứ hai của thương mại nội ngành là thương mại nội ngành theo chiều dọc (VIIT). Theo Grubel và Lloyd (1975), thương mại nội ngành theo chiều dọc là việc xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời hàng hóa trong cùng một ngành nhưng ở các giai đoạn sản xuất khác nhau (sự khác biệt hóa theo chiều dọc).

Trên phương diện nghiên cứu thực nghiệm, có hai cách tiếp cận nhằm phân tách thương mại nội ngành thành thương mại nội ngành theo chiều dọc và theo chiều ngang. Cách tiếp cận thứ nhất dựa trên tỷ lệ giá trị đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu (Faustino và Leitao, 2007; Greenaway và cộng sự, 1995; Sharma, 2004). Cách tiếp cận thứ hai dựa trên phân cấp hàng hóa (Kandogan, 2003). Theo cách tiếp cận này, hàng hóa được phân loại theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương (SITC Revision 3). Cấp 2 chữ số được sử dụng để xác định ngành công nghiệp, còn cấp 4 chữ số được sử dụng để xác định từng mặt hàng trong cùng một ngành. Tại cấp 2 chữ số, tổng thương mại nội ngành (IIT) trong từng ngành có thể được tính toán thông qua việc xác định giá trị xuất khẩu ứng với giá trị nhập khẩu. Sau đó, tại cấp 4 chữ số, phần giá trị xuất khẩu ứng với giá trị nhập khẩu thể hiện thương mại về sản phẩm tương tự như nhau. Đây chính là thương mại nội ngành theo chiều ngang (HIIT). Như vậy,

phần còn lại chính là thương mại về hàng hóa trong cùng một ngành nhưng lại ở các giai đoạn sản xuất khác nhau (VIIT). Phương pháp của Kandogan có thể được tóm tắt như sau:

| | i i i i TT X M IIT    i i i TT IIT IT        ( ig ig | ig ig | i X M X M HIIT i i i IIT HIIT VIIT  

Trong đó: i là ngành công nghiệp (i = 1,…,n), còn g là mặt hàng trong ngành i (g = 1,…, g).

2.2.1.2. Biến độc lập

- Mức thu nhập bình quân đầu người (PCIit, PCIjt): Theo Barker (1977), các quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người cao thì cơ cấu về cầu sẽ phức tạp và có sự khác biệt nhiều hơn, bao gồm cả nhu cầu về các sản phẩm có sự khác biệt về chất lượng (theo chiều dọc). Nhu cầu của khách hàng có mức thu nhập bình quân đầu người thấp thường không lớn và tương đối chuẩn hóa đối với các đặc điểm của sản phẩm. Balassa and Bauwens (1998) đã đưa ra được minh chứng về mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa IIT và mức thu nhập bình quân đầu người. IIT, HIIT và VIIT có quan hệ tỷ lệ thuận với mức thu nhập bình quân đầu người (PCIijt)1. Trong đề tài này, mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam và đối tác thương mại (USD) được sử dụng để đại diện cho biến này.

- Sự khác biệt về quy mô của nền kinh tế giữa hai quốc gia (DGDPijt):

Nếu nền kinh tế của hai quốc gia có sự tương đồng thì thương mại nội ngành sẽ lớn hơn so với trường hợp hai nền kinh tế có sự khác biệt về quy mô. Hai quốc gia càng có sự khác biệt về nguồn lực sẵn có thì khả năng về thương mại nội ngành và thương mại nội ngành theo chiều ngang càng thấp, nhưng thương mại nội ngành theo chiều dọc giữa hai quốc gia này càng cao. Dựa

trên nghiên cứu của Balassa và Bouwens cá(1987), sự khác biệt về quy mô nền kinh tế giữa Việt Nam và c nước còn lại trên thế giới (DGDPijt) được tính toán theo công thức sau:

2 ln )] 1 ln( ) 1 ( ) ln( [ 1 w w w w DGDPijt      Trong đó:

w = GDP của Việt Nam/(GDP của Việt Nam + GDP của đối tác thương mại)

- Sự khác biệt về thu nhập bình quân đầu người giữa hai quốc gia

Một phần của tài liệu các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành chế biến của việt nam (Trang 39 - 91)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(91 trang)