Vấn đề dân tộc

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI PHẦN VĂN HÓA XÃ HỘI (Trang 28 - 33)

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (tộc người), gồm 54 dân tộc anh em.

Trong đó, dân tộc Kinh chiếm 86% dân số, được gọi là dân tộc đa số. 53 dân tộc còn lại chiếm 14% dân số, được gọi là các dân tộc thiểu số, cư trú chủ yếu tập trung ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. nên đời sống còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần. Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc, ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã đề ra những định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ.

Hồ Chí Minh đã nói: “Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ...”. Kế thừa, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, nghị định để định hướng các địa phương thực hiện tốt chính sách dân tộc, công tác dân tộc.

Có thể khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán trong mọi thời kỳ. Đại hội Đảng lần thứ IV xác định:

Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định vị trí của quan trọng của vấn đề dân tộc.

Hội nghị Trung ương 7 khóa IX đã ra nghị quyết chuyên đề về công tác dân tộc. Nghị quyết chỉ rõ: Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Đại hội X tiếp tục xác định đó là vấn đề “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta” (2).

Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với nội dung cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Đây là luận điểm rất quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.

Về vấn đề dân tộc, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội XII khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực, nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc”.

Đại hội XII cũng yêu cầu: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc giúp cùng nhau phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung”.

Để thực hiện được phương châm trên, Văn kiện Đại hội XII đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp sau:

Giải quyết vấn đề dân tộc về thực chất là giải quyết các mối quan hệ dân tộc, suy cho đến cùng là quan hệ lợi ích giữa các dân tộc.

Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc giải quyết hài hòa các quan hệ dân tộc, xây dựng các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc. Trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh: đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc. Từ Đại hội VI trở đi, các nguyên tắc này đã được xác định là đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau. Và đến Đại hội XI là: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” . Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết quan hệ hài hòa giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển...” . Việc thực hiện nguyên tắc cơ bản của các dân tộc, chính là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc.

Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc.

Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được bảo đảm bằng pháp luật.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là về chính trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc… Quyền bình đẳng về kinh tế đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt trình độ phát triển chung với các dân tộc khác. Bình đẳng về văn hóa, xã hội đảm bảo cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, làm phong phú, đa dạng nền văn hóa Việt Nam. Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát triển thấp, nên bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, cần tạo điều kiện thuận lợi để cho họ có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Đại hội XII khẳng định: “Trong xây dựng

và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững”. Như vậy, để thực hiện bình đẳng dân tộc thì phải tiến tới từng bước xóa bỏ khoảng cách giữa các dân tộc, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

Giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu. Xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Quan tâm tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển chính là thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

Nguyên tắc đoàn kết các dân tộc

Đây là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Nguyên tắc này xuất phát từ truyền thống lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của các dân tộc Việt Nam. Truyền thống đoàn kết được gìn giữ và phát triển trong suốt tiến trình hàng ngàn năm lịch sử, gắn kết các dân tộc chung sức xây dựng tổ quốc Việt Nam thống nhất. Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập, thống nhất của tổ quốc, hạnh phúc, tự do của nhân dân cần phải được xây dựng. Đại hội XII xác định về chính trị: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng” để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Về kinh tế, là sự phát triển hài hòa các lợi ích (cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội...) vì sự phát triển chung của đất nước. Về tư tưởng, là chủ nghĩa yêu nước chân chính của mọi tầng lớp nhân dân. Về văn hóa, tín ngưỡng tâm linh là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn hóa đạo đức, giữ gìn, phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh, nhớ ơn đối với những người có công với tổ quốc, dân tộc, cộng đồng, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Đoàn kết dân tộc được quán triệt xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam.

Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc đang phát huy truyền thống đoàn kết tốt đẹp, cùng nhau xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và tiến bộ.

Nguyên tắc tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển

Do lịch sử để lại, hiện nay giữa các dân tộc ở nước ta vẫn còn tình trạng phát triển không đều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển là tất yếu khách quan trong một quốc gia đa dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã coi đây là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn có trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc khó khăn hơn. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau không phải chỉ giúp đỡ một chiều, mà ngược lại, chính sự phát triển của dân tộc này là điều kiện để cho dân tộc khác càng phát triển. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển thể hiện trên tất cả các lĩnh vực:

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc, nhằm thực hiện đầy đủ quyền bình đẳng và củng cố khối đoàn kết dân tộc.

Như vậy, thực chất của việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta là nhằm giải phóng con người thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; thực hiện dân chủ, tự do cho các dân tộc;

phát huy truyền thống đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Việc giải quyết đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp những vấn đề dân tộc không chỉ mang tính chính trị - xã hội sâu sắc, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước và uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế,

mà còn mang tính liên ngành, toàn diện, tác động đến nhiều cấp, nhiều ngành trong hệ thống tổ chức nhà nước, hệ thống chính trị xã hội các cấp từ trung ương đến địa phương. Chính vì vậy, việc nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc cũng như thực hiện đúng chính sách dân tộc là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, chẳng những góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc vững mạnh mà còn nâng cao sức mạnh quốc phòng, an ninh của từng địa phương và cả nước. Đại hội XII kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng bào ta ở nước ngoài phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội, mở ra thời kỳ phát triển mới, vẻ vang, tốt đẹp của đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

2. Vấn đề Tôn giáo:

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.

Nhà nước Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 38 tổ chức, hệ phái tôn giáo và 01 pháp môn tu hành thuộc 13 tôn giáo; trong đó có 06 tôn giáo lớn:

Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo.

Trên 80 năm, kể từ khi thành lập Đảng đến nay, Những quan điểm về tôn giáo của Đảng đều được thể hiện ở tất cả các kỳ Đại hội, trong đó có quan điểm nhất quán, bất biến xuyên suốt mọi thời kỳ cách mạng, nhưng cũng có quan điểm, chủ trương về tôn giáo được bổ sung, phát triển, trong đó có cả quan điểm mới so với các kỳ Đại hội trước đó. Tuy nhiên luôn đảm bảo theo các quan điểm sau:

- Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình XD CNXH ở nước ta.

- Hai là, Đảng và NN thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc - Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.

- Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

- Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về công tác tôn giáo như: Nghị quyết số 24NQ/TW ngày 16101990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị quyết số 25NQ/TW ngày 1232003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo 1862004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,... Tại Đại hội XI, vấn đề tôn giáo được đề cập ở hai văn kiện quan trọng, đó là:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011) và Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Cương lĩnh ghi: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”1. Còn trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa,

kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc”

Xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, ở nước ta hiện nay, Văn kiện Đại hội XII của Đảng đề ra phương hướng: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật”.

Để tổ chức triển khai thực hiện có hiệu lực, hiệu quả phương hướng do Đại hội XII của Đảng đề ra, trong thời gian tới, cần thực hiện các nhiệm vụ sau:

Một là, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Thông qua tổng kết thực tiễn, rà soát, sửa đổi những văn bản quy phạm pháp luật không còn phù hợp, thiếu tính khả thi, gây trở ngại cho các hoạt động bình thường của tôn giáo. Trong đó, coi trọng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về tôn giáo, và liên quan đến quản lý đất đai, cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo.

Hai là, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức đoàn thể và cán bộ, đảng viên về các quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước và hệ thống pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các ngành, các cấp, nhất là ở địa phương, cơ sở thường xuyên động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo, đã được Nhà nước công nhận; và chủ động ngăn ngừa, đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, đặc biệt tại những địa bàn trọng điểm về tôn giáo, dân tộc, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt của các tôn giáo, kịp thời giải quyết những mâu thuẫn phát sinh, những hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, nhằm kích động gây chia rẽ tôn giáo, dân tộc, và xâm phạm an ninh quốc gia.

Bốn là, kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo theo hướng thống nhất mô hình quản lý, cơ cấu tổ chức bộ máy làm công tác này ở các địa phương và cơ sở.

Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; khắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ được đào tạo về công tác tôn giáo; có chế độ ưu đãi hợp lý cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo

Năm là, chủ động công tác đối ngoại tôn giáo và đấu tranh chống lợi dụng một số vấn đề tôn giáo nhạy cảm của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

Tóm lại, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc, đa tín ngưỡng, tôn giáo. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào các dân tộc, tôn giáo luôn luôn đoàn kết, chung tay đấu tranh với “thiên tai, địch họa”, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo và công tác dân tộc, công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI PHẦN VĂN HÓA XÃ HỘI (Trang 28 - 33)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(33 trang)
w