Thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam

Một phần của tài liệu Thách thức đặt ra từ hội nhập quốc tế của Việt Nam (Trang 23 - 33)

II. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

II.3. Thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam

Theo quan điểm của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa đối phó thách thức. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là: khả năng cạnh tranh yếu, dễ bị thua thiệt trên thương trường; sự non kém của cán bộ và bộ máy ; khả năng dự báo chưa kịp thời chiều hướng phát triển kinh tế thế giới, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa phát triển nhanh; hiện tượng mất cảnh giác của một bộ phận cán bộ trước những âm mưu, thủ đoạn xấu của các lực lượng thù địch.

Nước ta nhập cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ phát triển kinh tế và công nghệ còn thấp. Vì vậy, phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Lộ trình đó được xác định trên cơ sở tính toán cẩn trọng căn cứ vào các yêu cầu và cam kết của các tổ chức khu vực và quốc tế mà chúng ta gia nhập để đạt được thỏa thuận qua đàm phán song phương và đa phương.

Một lộ trình "quá nóng" về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Vì vậy, điều cực kỳ quan trọng là cần xem xét, tính toán nghiêm túc điều kiện, khả năng cụ thể của từng ngành hàng, từng loại doanh nghiệp về các mặt quản lý, công nghệ, trình độ kinh doanh, có tính đến những quy định chung... để hoạch định lộ trình hội nhập hợp lý.

Tuy nhiên, điều đó hoàn toàn không có nghĩa là "lộ trình càng dài càng tốt", bởi vì kéo dài lộ trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ, bao cấp của Nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý và công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế, nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ càng lớn trước sự phát triển nhanh

chóng của các nền kinh tế khác, trong đó có những lĩnh vực phát triển hết sức mạnh mẽ và nhanh chóng do có sự đột phá về công nghệ.

Thực tế của tất cả các nước, kể cả các nước phát triển, cho thấ : trong lĩnh vực kinh tế, hội nhập không phải chỉ toàn "được" mà không có "thiệt". Vì vậy, hợp tác luôn đi liền với đấu tranh, hội nhập đi liền với cạnh tranh để giành cái "được" tối đa và hạn chế cái "thiệt" đến mức tối thiểu. Đánh giá "được" hay

"thiệt" cũng cần có cái nhìn toàn diện đối với toàn bộ nền kinh tế, không chỉ hạn chế trong đánh giá cái "được" của từng ngành, từng lĩnh vực riêng lẻ. Điều quan trọng là, về tổng thể thì cái "được" phải nhiều hơn cái "thua thiệt".

Xác định lộ trình hội nhập quốc tế không chỉ là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài thâm nhập, mà còn là phác họa thời điểm nền kinh tế nước ta phải vươn lên, phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước về hàng hóa, về đầu tư và dịch vụ, nâng cao vị trí, vai trò của nền kinh tế nước ta trên thị trường thế giới.

Hiện nay Việt Nam đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và toàn diện hơn bao giờ hết. Tính đến năm 2011, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 179 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã đảm nhận thành công vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2008 - 2009. Việt Nam cũng đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm ASEAN 2010. Chặng đường hơn 25 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực bền bỉ của đất nước.

Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi tình trạng vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch

xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp. Bởi vậy, bước vào thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam đứng trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa sinh tử là phải tìm cách thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường đã lựa chọn.

Trong bối cảnh đó, trên phương diện đối ngoại Đảng và Nhà nước Việt Nam nỗ lực đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về "thêm bạn, bớt thù", mở rộng và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, tìm ra khâu đột phá để thoát vòng bao vây cô lập của các thế lực chống đối. Sau Đại hội VI, đặc biệt là sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (1988) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (1989), Việt Nam đã có những điều chỉnh cơ bản về chính sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, tạo môi trường quốc tế hoà bình, ổn định ở khu vực, thuận lợi cho phát triển đất nước.

Nhằm thúc đẩy tiến trình mở rộng quan hệ đối ngoại, Đại hội VI của Đảng nêu chủ trương chiến lược: "mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế". Trên cơ sở đó và trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế sau sự tan rã của Liên Xô, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (1992) chính thức xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.

Chủ trương chiến lược của Đại hội VII tiếp tục được Đại hội VIII khẳng định, bổ sung và đến Đại hội IX phát triển thành "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển". Như vậy, quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng đã đưa đến việc xác lập những nội dung, tính chất cơ bản trong đường lối đối ngoại từ "rộng mở", "là bạn" đến "đa dạng hóa, đa phương hoá quan hệ quốc tế""sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy". Đây là sự thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, kiên định về nguyên tắc và linh hoạt về sách lược, gắn kết mục tiêu cách mạng và định hướng phát triển đất nước vào những xu thế phát triển của thời đại. Với sự điều chỉnh chính sách đối ngoại như đã nêu, Việt

Nam đã từng bước phá được thế bị bao vây cấm vận, hóa giải tương đối thành công những khó khăn, bất cập trong quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng với khu vực và thế giới.

Củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa ba nước Đông Dương luôn là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và trong quá trình hội nhập quốc tế nói riêng. Với Lào, tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện tiếp tục được củng cố và có nhiều bước phát triển quan trọng. Việt Nam triển khai hợp tác một cách toàn diện, giúp bạn phát triển kinh tế - xã hội với hàng loạt các hạng mục kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục - đào tạo... góp phần duy trì ổn định chính trị - xã hội, an ninh của Lào. Việt Nam một mặt lấy mối quan hệ mật thiết giữa hai đảng làm nòng cốt, mặt khác không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, coi đó là tiền đề vật chất gắn kết hai nước trên cơ sở lâu dài, bền vững. Mối quan hệ hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Việt Nam là một trong những nước đứng đầu về đầu tư tại Lào. Đến nay, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào đạt trên 3,3 tỷ USD với 203 dự án, cao nhất trong số 55 quốc gia và vùng lãnh thổ được các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư. Riêng 8 tháng đầu năm 2011, vốn đầu tư đăng ký của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào đạt 469 triệu USD, cao hơn cả năm 2010

Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh quan hệ với Campuchia trên cơ sở mới phù hợp với tình hình đã thay đổi sau khi có giải pháp cho vấn đề Campuchia, phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện, thông qua thương lượng giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Đến nay, hai nước xác lập phương châm chỉ đạo quan hệ là "Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài". Hai bên đã ký nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là việc Campuchia cam kết công nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX. Hai bên đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực

như giáo dục, đào tạo, năng lượng - điện, y tế, giao thông vận tải. Trao đổi thương mại tiến triển thuận lợi, kim ngạch nhập khẩu của Campuchia từ Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2011 tăng 43% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 976 triệu USD. Trong khi đó, xuất khẩu của nước này sang thị trường Việt Nam trong cùng kỳ tăng 116%, lên 105,2 triệu USD. Việt Nam đứng hàng thứ hai sau Trung Quốc về đầu tư vào Campuchia, với số vốn 156,38 triệu USD, chỉ chiếm 5,2% tổng trị giá đầu tư ở nước này trong 6 tháng đầu năm 2011.

Việt Nam đặc biệt coi trọng tiến trình bình thường hóa và phát triển quan hệ với Trung Quốc. Sau Đại hội VI, Việt Nam đã xem xét lại toàn bộ mối quan hệ với Trung Quốc, khẳng định rõ Trung Quốc là một nước XHCN, nhân dân Trung Quốc là nhân dân cách mạng và có truyền thống hữu nghị lâu đời với nhân dân Việt Nam. Trung Quốc trong tư cách vừa là một nước láng giềng, vừa là một nước lớn, vừa là một nước XHCN được Việt Nam nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với hoà bình, ổn định của Việt Nam và của cả Đông Nam Á, đồng thời cũng thấy rõ vị trí của Việt Nam trong chiến lược của Trung Quốc.

Với những nỗ lực của cả hai bên, nhất là sự chủ động của Việt Nam, tháng 10/1991 quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước chính thức bình thường hoá. Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung sau hơn mười năm quan hệ không bình thường là một sự kiện rất quan trọng về mặt đảm bảo an ninh quốc gia của Việt Nam cũng như tạo ra môi trường khu vực và quốc tế thuận lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác. Kể từ sau bình thường hóa, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh và toàn diện. Khuôn khổ quan hệ hai nước được chính thức xác định với 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", tiếp đó được bổ sung thêm tinh thần 4 tốt: "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" và gần đây là "Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện". Hai bên có nhận thức chung rộng rãi, chia sẻ sự tương đồng quan điểm đối với nhiều vấn đề quốc tế và khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc tăng trưởng nhanh. Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương đạt trên 27 tỷ USD, tăng 28% so với năm 2009, chiếm khoảng 17,6% tổng kim ngạch ngoại

thương của Việt Nam. Tám tháng đầu năm 2011, kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước đã đạt gần 22 tỷ USD, tăng 31,52% so với cùng kỳ năm 2010.

Hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam đã quán triệt tốt phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh đối với những vấn đề còn bất đồng và tranh chấp thì kiên trì lập trường nguyên tắc và sự độc lập tự chủ của mình.

Triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng xây dựng và phát triển quan hệ với các nước ASEAN. Gia nhập ASEAN trở thành bước đột phá trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam, cho thấy rõ ưu tiên của Việt Nam đối với khu vực. Từ sau sự kiện này, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu vực mạnh mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn. Nói cách khác, nếu không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra.

Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam kết và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội.

Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong khuôn khổ đa phương và song phương, đóng góp thiết thực vào quá trình hợp tác liên kết ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.

Trong những năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA).

ASEAN là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.

Năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 8,9 tỷ USD, tương

đương 15% tổng kim ngạch xuất khẩu. Giá trị nhập khẩu từ ASEAN đạt 14 tỷ USD, chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp đăng ký của ASEAN tại Việt Nam khoảng trên 60 tỷ USD. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách nhiệm cao vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như: ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.

Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn và các tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập.

Bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một hướng lớn trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Quan hệ với Mỹ có ý nghĩa chiến lược đối với yêu cầu an ninh và phát triển của nước ta. Cải thiện mối quan hệ hai nước góp phần củng cố vị thế quốc tế của Việt Nam, tác động tác động mạnh mẽ đến quan hệ của tất cả các nước khác, nhất là các nước phương Tây đối với Việt Nam, thúc đẩy quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, từng bước đi vào thị trường rộng lớn của Mỹ, tranh thủ khoa học kỹ thuật tiên tiến, nguồn vốn đầu tư... Năm 1994, chính quyền Mỹ huỷ bỏ cấm vận chống Việt Nam và tháng 11/7/1995 bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Sau bình thường hóa, quan hệ Việt - Mỹ có nhiều tiến triển thuận lợi. Quan hệ kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ được thúc đẩy. Hai nước đã ký Hiệp định thương mại năm 2000 và năm 2006, chính quyền Mỹ chính thức ban hành đạo luật về thiết lập Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, đánh dấu việc bình thường hóa hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai nước, tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2010, kim ngạch mậu dịch hai chiều vượt 18,3 tỉ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong 8 tháng đầu năm 2011 đạt 11,3 tỷ USD, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2010 và xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD, tăng 21,5%. Hiện Mỹ đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp nhằm duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, kể cả an ninh quốc phòng. Hai nước đã xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược (2001), cùng

Một phần của tài liệu Thách thức đặt ra từ hội nhập quốc tế của Việt Nam (Trang 23 - 33)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(52 trang)
w