Ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính đối với Việt Nam

Một phần của tài liệu bản tóm tắt đối phó với hiệu ứng nhà kính (Trang 47 - 52)

Chương 5: VIỆT NAM VÀ HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH

5.2. Ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính đối với Việt Nam

Số liệu đo đạc cho thấy, tại Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ, nhiệt độ tăng lên, cụ thể: từ năm 1960 – 2005 tăng 0,02oC; từ năm 1991 – 2005 tăng lên 0,033oC.

Mực nước biển dâng lên khoảng 20cm so với cách đây 10 năm. Vào cuối tháng 11/2008, tại Tp.Hồ Chí Minh, triều cường đã đạt mức đỉnh trong vòng 50 năm qua. Theo Bộ tài nguyên Môi trường (công bố 20/08/2009) cho biết mực nước biển dâng thêm 75cm thì Tp.Hồ Chí Minh sẽ có khoảng 240 km2 diện tích đất bị ngập lụt. Nếu mực nước biển dâng khoảng 100cm thì diện tích đất bị ngập lụt sẽ tăng lên gấp đôi, tức khoảng 472 km2. Như vậy, mực nước biển dâng và nhiệt độ gia tăng đã gây nên những tác động lớn đến các điều kiện của Tp.Hồ Chí Minh như: điều kiện tự nhiên (nước, khí tượng thủy văn, biển đảo, môi trường sinh thái) và điều kiện kinh tế xã hội. Từ đó ảnh hưởng trực

tiếp đến nề kinh tế thành phố như sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và thậm chí cả sản xuất công nghiệp.

Trung tâm Quản lí Môi trường quốc tế ICEM cho biết: hiện nay Tp.Hồ Chí Minh có 154 xã, phường thường xuyên bị ngập úng, đến năm 2050 sẽ tăng thêm 177 xã, phường chiếm 61% diện tích toàn thành phố. Đặc biệt, khi có bão sẽ có thêm 30 xã bị ảnh hưởng, đồng nghĩa sẽ có 142.000 ha bị ngập úng khi có bão thất thường vào năm 2050.

5.2.2. Diện tích đất đai bị thu hẹp

Theo kịch bản nước biển dâng lên 1m thì lúc đó Việt Nam sẽ mất hơn 12% diện tích đất đai, nơi cư trú của 23% số dân và thu hẹp đất canh tác nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng do vùng đồng bằng của ta thấp và chúng ta có bờ biển dài và có hệ thống sông ngòi chằng chịt do đó nếu nước biển dâng lên thì chắc chắn một điều là mực nước ở các sông sẽ dâng lên. Theo đánh giá của Jeremy Carew-Reid – Giám đốc Trung tâm quốc tế về Quản Lý môi trường (ICEM), 10 tỉnh bị ngập nước nặng nhất theo kịch bản nước biển dâng 1m như sau:

Bảng 5.1: 10 tỉnh bị ảnh hưởng nhiều nhất: tỷ lệ ngập nước theo kịch bản nước biển dâng 1m

Tỉnh Tổng diện tích (km2)

Diện tích bị ngập

(km2) % bị ngập Bến Tre

Long An Trà Vinh Sóc Trăng

Tp.Hồ Chí Minh Vĩnh Long Bạc Liêu Tiền Giang Kiên Giang Cần Thơ

2,257 4,389 2,234 3,259 2,003 1,526 2,475 2,397 6,224 3,062

1,131 2,169 1,021 1,425 862 606 692 783 1,757

758

50.1 49.4 45.7 43.7 43.0 39.7 38.9 32.7 28.2 24.7

Tổng 29,827 11,474 38.5

Hình 5.1: Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng Sông Hồng (Nguồn: ICEM)

Theo dự báo, nhiều vùng thuộc Đồng bằng Sông Hồng như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình sẽ chìm ngập từ 2 – 4m trong vòng 100 năm tới.

Hình 5.2: Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng Sông Cửu Long (Nguồn ICEM)

Theo dự báo, nhiều vùng thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau… sẽ ngập chìm từ 2 – 4m trong vòng 100 năm tới.

5.2.3. Sản lượng lương thực bị giảm

Trong vòng 100 năm nữa (theo kịch bản nước biển dâng), nếu thế giới không tích cực có giải pháp hạn chế hiệu ứng nhà kính và nhiệt độ tăng thêm 2oC thì chắc chắn ở Việt Nam nước biển sẽ dâng lên chừng 1m. Trong trường hợp này, 3/4 Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long sẽ bị ngập, sản lượng lương thực của chúng ta sẽ bị mất ít nhất 10% và khoảng 10% dân số Việt Nam sẽ mất công ăn việc làm.

Chúng ta có bờ biển dài 3260 km, 28 tỉnh thành phố giáp biển, mỗi năm xuất khẩu chừng 5 triệu tấn gạo, vài triệu tấn hải sản, hạt điều, cà phê … nuôi một phần nhân loại.

Nước biển dâng chúng ta phải cắt phần xuất khẩu này. Tuy nhiên thêm một vấn đề nữa đó là hạn hán sẽ xảy ra do hiện tượng Trái Đất nóng dần dẫn đến tình trạng thiếu nước tưới tiêu, nhiều vùng của nước ta dễ bị sa mạc hóa và nhiều vùng đất trở nên khô cằn không trồng trọt được, người nông dân mất đi phương tiện sản xuất.

Như vậy, sản lượng lương thực tại các đồng bằng sẽ giảm đi một cách đáng kể kéo theo đó là tình trạng thiếu lương thực không chỉ ở nước ta mà còn ảnh hưởng đến thế giới do nước ta là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới.

5.2.4. Ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học

Dựa vào một số nghiên cứu đã thực hiện trên thế giới và điều kiện tự nhiên Việt Nam, dự báo hậu quả của biến đổi khí hậu sẽ tác động mạnh đến hai vùng là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, các vùng dọc bờ biển và hệ sinh thái rừng trong cả nước. Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng vùng đất ngập nước của bờ biển Việt Nam, nghiêm trọng nhất là khu vực rừng ngập mặn của Cà Mau, Tp.Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Định.

Hai vùng đồng bằng và ven biển nước ta, trong đó có rừng ngập mặn và hệ thống đất ngập nước rất giàu về các loài sinh vật là những vùng dễ tổn thương nhất. Mực nước biển dâng cùng với cường độ của bão sẽ làm thay đổi thành phần vùng trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm suy thoái và đe dọa sự sống còn của rừng ngập mặn và các loài sinh vật trong đó. Khi mực nước biển dâng cao, nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào đất liền, giết chết nhiều loài động, thực vật nước ngọt, ảnh hưởng nguồn nước ngọt cung cấp cho sinh hoạt và trồng trọt của nhiều vùng. Nước ta có 36 khu bảo tồn, trong đó có tám vườn quốc gia, 11 khu dự trữ thiên nhiên sẽ bị ngập.

Hệ sinh thái biển dễ vị tổn thương. Các rạn san hô là nơi sinh sống của nhiều sinh vật biển, lá chắn chống xói mòn bờ biển và bảo vệ rừng ngập mặn sẽ bị suy thoái do nhiệt độ nước biển tăng, đồng thời mưa nhiều làm cho nguồn nước bị ô nhiễm phù sa và cả hóa chất nông nghiệp từ cửa sông đổ vào. Nhiệt độ tăng cao làm nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá ngừ) tăng lên, các loài cá cận nhiệt đới (giá trị kinh tế cao) giảm.

Các thay đổi diễn ra sẽ đe dọa sự phát triển, đe dọa cuộc sống của tất cả các loài vật, các hệ sinh thái. Biến đổi khí hậu cùng với hệ quả của nó như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, xói mòn và sạt lỡ đất sẽ thúc đẩy sự suy thoái nhanh hơn, trầm trọng hơn, nhất là những hệ sinh thái rừng nhiệt đới không còn nguyên vẹn, tăng nguy nguy cơ diệt chủng của động, thực vật, làm mất đi các nguồn gen quý hiếm, những loại dịch mới có thể phát sinh.

Biến đổi khí hậu làm tăng một số nguy cơ với người bệnh, thay đổi nhịp sinh học của con người. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Trái Đất nóng lên có thể sẽ làm hơn 150 nghìn người chết và năm triệu người mắc các chứng bệnh khác nhau. Con số đó có thể tăng gấp 2 lần vào năm 2030.

5.2.5. Ảnh hưởng của nước biển dâng đến khu vực sông Mê Kông

Nước biển dâng sẽ khiến khoảng 11% diện tích đất Việt Nam bị ngập và 9 triệu dân sẽ tái định cư. Đó là một thảm họa cho Việt Nam theo cảnh báo của quốc tế.

Có nhiều yếu tố cho thấy biến đổi khí hậu sẽ đặc biệt gây ảnh hưởng nặng nề ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam sẽ là quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất. Sẽ có đến 11% dân số Việt Nam bị ảnh hưởng thiệt hại ít nhất 10% GDP. Hàng triệu người Việt Nam sẽ rơi vào đói nghèo. Đó là thảm kịch cho quốc gia.

Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu không còn là những cảnh báo mơ hồ. Cuộc sống của hàng triệu con người khu vực Đông Nam Á đang gắn liền với những con sông bắt nguồn từ Hymalaya như sông MêKong, sông Hồng, sông Irrawaddy… Tình trạng băng tan nhanh chóng trên dãy Hymalaya sẽ làm thay đổi lưu lượng các dòng sông.

Trong 2 – 3 thập niên nữa băng trên đỉnh Hymalaya sẽ biến mất, đó là một thảm kịch ghê gớm: đầu tiên sẽ là mưa lũ dữ dội sau đó là khô hạn triền miên. Những vùng duyên hải, nhất là những vùng đồng bằng đông dân cư như vùng ven sông MêKong và sông Hồng sẽ bị ngập lụt khi nước biển dâng. Ở Việt Nam, 72% dân số sống nhờ vào nông nghiệp thấy viễn cảnh 5000 km2 vùng châu thổ sông Hồng và 20.000 km2 vùng châu thổ MêKong –

tức 42% diện tích đất trồng trọt – bị nước biển đe dọa nguy hiển tới mức nào. Điều đó có nghĩa 4,2 triệu ha đất trồng lúa cùng diện tích hoa màu sẽ bị mất trắng.

Cuối năm 2008, các chuyên gia của Oxfam (Mỹ) đã điều tra đời sống dân chúng tại Bến Tre và Quãng Trị. Và họ nhận thấy người dân đều thừa nhận khí hậu đã thay đổi trong 20 – 30 năm gần đây khiến cuộc sống mưu sinh của họ thêm khó khăn.

Một phần của tài liệu bản tóm tắt đối phó với hiệu ứng nhà kính (Trang 47 - 52)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(62 trang)