Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
3.3. Một số kiến nghị
Thời gian qua, việc thực hiện vấn đề bình đẳng giới trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh Cao Bằng đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, nam giới đã chung tay cùng với phụ nữ phát huy vai trò tích cực của mình trong việc giảm mức sinh, nâng cao chất lượng dân số. Mặc dù vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao trong gia đình cũng như ngoài xã hội nhưng vẫn còn gặp nhiều những hạn chế do đặc điểm, điều kiện riêng của tỉnh là có nhiều dân tộc cùng chung sống, trong đó chủ yếu là dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, cùng với nó Cao Bằng lại là tỉnh vùng cao, biên giới, kinh tế còn chậm phát triển. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu rất lớn của đội ngũ cán bộ ngành Y tế, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình của tỉnh, đồng thời cũng cần sự quan tâm tạo điều kiện thiết thực của các cấp ủy, chính quyền, các ban ngành đoàn thể các cấp trong tỉnh vì sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ, vì mục tiêu chiến lược dân số Việt Nam.
Qua nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng của vấn đề bình đẳng giới trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh Cao Bằng, để phát huy và phát triển hơn nữa những kết quả đạt được, tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, đối với Đảng và Nhà nước: Cần rà soát lại các chính sách và hệ thống luật Pháp như: chính sách đất đai, chính sách xóa đói giảm nghèo, luật Lao động, luật Dân sự, Pháp lệnh Dân số, Luật phổ cập giáo dục, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới… để xóa bỏ những nội dung, điều luật lỗi thời, cản trở bình đẳng nam - nữ nhằm trao quyền cho phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn, vùng cao, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Cần có các quy định gắn với yếu tố giới như: Quyền sở hữu tài sản chung của gia đình (đất đai, nhà cửa, phương tiện đi lại, phương tiện sản xuất…) đều đứng tên của
người vợ và người chồng; cải tiến hệ thống hộ khẩu, hộ tịch ghi tên chủ hộ không chỉ một người như hiện nay mà ghi tên đồng chủ hộ (bao gồm cả vợ và chồng). Ngoài hệ thống văn bản, pháp lý gắn với yếu tố giới cần có chế tài thực hiện kèm nhằm đảm bảo quyền lợi cho cả hai giới nhất là phụ nữ và được hiện thực hóa trong cuộc sống.
Cần tập trung đầu tư thỏa đáng cho công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục phụ nữ và trẻ em. Tạo cơ hội cho phụ nữ làm việc ở các cơ quan, cấp có thẩm quyền xây dựng các chính sách có tính quan trọng liên quan đến phụ nữ và trẻ em, vì chính họ hơn ai hết mới có thể đưa ra những quyết định “thấu tình đạt lí” cho phù hợp với nhu cầu lợi ích của phụ nữ.
Nhà nước cũng cần tăng cường đầu tư cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, vui chơi, giải trí, phương tiện truyền thông loa đài, báo chí… đồng thời cũng cần chuyển giao khoa học kỹ thuật, mở rộng cơ sở dạy nghề, giải quyết việc làm cho phụ nữ.
Thứ hai, đối với Bộ Y tế, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam cần chú ý tới khâu đào tạo nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đồng thời, chú ý quan tâm hơn đến đội ngũ cán bộ y tế ở các tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới, cán bộ là người dân tộc thiểu số, tạo điều kiện cho cán bộ được đi tham quan các tỉnh thành trong nước và đi nước ngoài học tập nhằm mở mang kiến thức. Đối với Sở Y tế, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình của tỉnh cần chủ động tham mưu cho cấp ủy Đảng trong việc bố trí, đề bạt, sử dụng cán bộ đúng trình độ, năng lực, sở trường để cán bộ phát huy năng lực trong công tác. Phối hợp với các ban ngành chức năng làm tốt công tác tuyên truyền dân số - kế hoạch hóa gia đình. Trong quá trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh, cần phát huy được thế mạnh nội lực của chính địa phương, học hỏi và lấy kinh nghiệm từ các tỉnh khác trong vùng và trong cả nước về hoạt động lồng ghép giới.
Thứ ba, đối với Hội Đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng:
Tiếp tục quán triệt, thực hiện nội dung Nghị quyết 04/NQ - TW của Bộ Chính trị “Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, quán triệt Chỉ thị số 37/CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng (khóa VII)
“Về một số nội vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”. Chỉ đạo các cơ quan tham mưu nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách phù hợp đối với cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở tỉnh Cao Bằng trên cơ sở chính sách chung của Đảng và Nhà nước; tăng cường chỉ đạo có hiệu quả hoạt động “Vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Cao Bằng”, xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho phụ nữ.