1. Tháo hệ thống bôi trơn 2. Kiểm tra các chi tiết
3. Sửa chữa, thay thế các chi tiết hư hỏng 4. Lắp hệ thống bôi trơn
5. Kiểm tra, điều chỉnh hệ thống bôi trơn
6. Phán đoán và xử lý những hư hỏng thông thường của hệ thống bôi trơn
Những hư hỏng thông thường của hệ thống bôi trơn là dầu bôi trơn ít quá hoặc nhiều quá, dầu bị loãng, bẩn và bị rò, áp suất không đủ. Cụ thể về hiện tượng và nguyên nhân và phương pháp khắc phục như sau:
a. Dầu không đủ, mức dầu thấp
Nguyên nhân của hiện tượng này là do rót thêm dầu không đủ, bị rò dầu hoặc động cơ làm việc có dầu bôi trơn từ các te sục lên buồng cháy do khe hở giữa xéc măng và xi lanh lớn. Nếu xẩy ra trường hợp này, trước hết phải kiểm tra xem có chỗ nào bị rò không,
kiểm tra bugi có đóng muội than nhiều không. Nếu không có hiện tượng trên thì do dầu bôi trơn không đủ. Cần bổ sung thêm dầu bôi trơn vào các te đến mức quy định và sửa chữa những chỗ rò dầu.
Nếu dầu bôI trơn sục lên buồng cháy nhưng không nghiêm trọng thì động cơ có thể tiếp tục hoạt động được. Nếu dầu sục lên buồng cháy nhiều thì phải thay xéc măng.
b. Dầu quá nhiều, mức dầu quá cao
Nếu dầu trong các te quá nhiều, khi động cơ hoạt động trong động cốc tiếng dầu tung toé tương đối lớn. Động cơ quay yếu, ống giảm thanh xả ra khói khói màu xam xám. Nguyên nhan do dầu trong các te quá nhiều hoặc màng bơm xăng bị rách, xăng chảy xuống các te.
Cách phán đoán: Rút thươc thăm dầu bôi trơn ra để kiểm tra xem trên thước có giọt nước hay không và trong dầu có mùi xăng không, khi cần thiết thì tháo một phần dầu dưới các te ra xem có nước động hay không.
Phương pháp xử lý: Nếu do dầu quá nhiều thì xả bớt dầu ra. Nếu có nước lẫn hoặc xăng trong dầu thì phải xác định được chỗ rò để sửa chữa, sau đó thay dầu mới đúng chủng loại do nhà chế tạo quy định.
c. Dầu quá loãng
Dầu bị loãng nguyên nhân do sử dụng dầu bôi trơn không phù hợp với thời tiết, ví dụ mùa hè dùng dầu mùa động. Màng bơm xăng bị rách, đai ốc thanh kéo màng bơm bị lỏng, xăng chảy xuống các te. Cần dùng thước để kiểm tra mức dầu. Dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái thấm một ít dầu để kiểm tra độ nhớt, nếu dầu còn tốt thì thì khi tách hai ngón tay ra, giữa hai ngón tay phải có những sợi dầu dài 2 – 3 mm, nếu không quá loãng, đồng thời kiểm tra trong dầu bôi trơn có mùi xăng không.
Cách xử lý: Thay dầu bôi trơn mới theo đúng loại phụ hợp với mùa hoặc sửa chữa những chỗ bị rò của bơm xăng.
d. Dầu bôi trơn bị bẩn, dầu có màu đen, trong dầu có mạt kim loại
Dầu bị bẩn do một số nguyên nhân sau: Dùng dầu không sạch hoặc nắp đậy ống dầu không kín làm cho cát bụi rơi vào các te, dẫn đến các chi tiết máy bị mài mòn rơi mạt kim loại xuống các te. Bụi và hơi nước lọt xuống các te qua hệ thống thông gió các te rồi đóng thành cặn, sản phẩm cháy có mang muội than và các tạp chất khác qua khe hở giữa
xéc măng và xi lanh lọt xuống các te hoặc dầu trong các te bị ôxy hoá tạo thành tạp chất.
Ngoài ra, một số phụ gia cho thêm vào dầu bôi trơn có thể làm cho dầu đổi màu.
Trong trường hợp này, cần rút thước thăm dầu để xem dầu dính vào thước dầu để xác định dầu có bị đen không, đồng thời dùng ngón tay để vê dầu xem có mạt kim loại không.
Nếu không có mạt kim loại và những tạp chất khác mà dầu bị đen thì vẫn có thể dùng được.
Phương pháp xử lý: Rửa sạch hệ thống bôi trơn và thay dầu bôi trơn mới.
e. Ở dưới động cơ có vết dầu
Nguyên nhân hiện tượng này là do bulông xả cặn dưới đáy các te hoặc bulông đầu nối ống dẫn bị lỏng, ống dầu bị nứt hoặc tấm đệm lót bị rách, phớt dầu bị hỏng (sử dụng quá lâu hoặc lắp không đúng).
Cách kiểm tra: Lau sạch vết dầu rồi cho động cơ hoạt động, quan sát để kiểm tra xem dầu bôI trơn bị rò chỗ nào. Nếu rò ở chỗ phớt dầu phía trước hoặc phía sau động cơ thì phớt dầu bị hỏng. Nếu dầu bị rò xung quanh các te là do đệm lót các te bị hỏng. Nếu rò ở ở mặt lắp ghép giữa bơm xăng với thân máy thì do tấm đệm lót bị hỏng hoặc bu lông bị lỏng. Nếu rò ở chỗ đầu nối ống dầu là do đầu nối bị lỏng hoặc do miệng côn đầu nối bị hỏng.
Phương pháp xử lý: Nếu phớt dầu hoặc đệm lót bị hỏng thì phải tháo ra và thay mới. Nếu bu lông hoặc đầu nối ống dầu bị lỏng thì xiết chặt lại, nếu ống dầu bị nứt hoặc miệng côn bị hỏng thì sửa chữa hoặc thay mới.
f. Bánh răng bơm dầu bị kêu
Nguyên nhân: Dầu bị bẩn, có nhiều mạt kim loại trong dầu làm cho bánh răng bị mòn hoặc do bơm dùng qúa lâu.
Cách kiểm tra sửa chữa: Khi động cơ ở nhiệt độ bình thường, kiểm tra áp suất dầu ở đồng hồ áp suất, dùng ống nghe đặt bên bơm dầu hoặc chỗ gần đó, đồng thời tăng tốc độ của động cơ, lắng nghe có tiếng kêu đặc biệt hay không (tiếng kêu đều đều là bình thường), nếu có tiếng kêu khác thường thì phải tháo bơm dầu để kiểm tra sửa chữa.
g. Nhiệt độ dầu quá cao
Nhiệt độ dầu vượt quá giá trị cho phép, do khe hở giữa xéc măng và xi lanh quá lớn, làm cho khí cháy lọt xuống các te làm tăng nhiệt độ của dầu, làm loãng dầu và làm cho dầu biến chất nhanh chóng. Mặt khác, do két làm mát dầu bị bẩn hiệu quả làm mát dầu thấp cần phải kiểm tra để xử lý kịp thời.
h. Áp suất dầu giảm
Nguyên nhân: Do dầu ở đường dầu chính bị rò, bơm dầu và các cổ trục bị mòn, mức dầu ở các tư thấp, độ nhớt của dầu không đúng tiêu chuẩn, van giảm áp bị kẹt ở vị trí mở, dầu bị rò ở các chỗ nối hoặc chảy qua các vết nứt ở ống dẫn dầu.
Phương pháp xử lý: Xiết chặt các chỗ nối và nút xả dầu, ống dẫn dầu bị nứt thì phải thay ống khác, các hư hỏng của bơm dầu, van giảm áp và các ổ trục do bị mòn thì phải sửa chữa. Mức dầu ở các te bị giảm có thể do dầu bị đốt cháy, rò chảy qua phớt chắn dầu ở đầu trục khuỷu hoặc do phớt chắn dầu hỏng. Nếu dầu bôi trơn bị bẩn hoặc dùng dầu không đảm bảo độ nhớt thì phải thay dầu mới đúng tiêu chuẩn.
i. Áp suất dầu tăng
Nguyên nhân do: Các ống dẫn dầu bị tắc, dùng dầu có độ nhớt cao quá, van giảm áp bị kẹt ở vị trí đóng.
Phương pháp xử lý: ống dẫn bị tắc thì dùng dây thép thông sạch (tháo động cơ), rửa sạch bằng dầu hoả và thổi sạch bằng khí nén. Để kiểm tra xem đồng hồ áp suất báo có chính xác không, ta vặn ống nối của áp kế kiểm tra vào một đường ống xả của đường dẫn dầu chính rồi cho động cơ hoạt động và so sánh giá trị ở đồng hồ áp suất, nếu không có sự thay đổi thì do đồng hồ áp suát bị hỏng, cần sửa chữa hoặc thay thế