PHÁP LUẬT VIỆT NAM[1]
1. Về nội hàm khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Khảo cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, có thể thấy từ xưa tới nay, cả trong và ngoài nước, trong văn bản pháp lý cũng như tác phẩm của các nhà luật học, kinh tế học đã xuất hiện quá nhiều tên gọi về loại hợp đồng này: hợp đồng mua bán trong tư pháp quốc tế, hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, hợp đồng mua bán quốc tế, hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế... Khi mà tên gọi khác nhau, thì cũng là lẽ thường cho một thực tế là việc định vị nội hàm khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế về mặt lý luận hiện vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Bỏ qua sự khác biệt về tên gọi, nhìn một cách tổng thể thì nhận thức về nội hàm khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của giới khoa học pháp lý đứng trước một câu hỏi lớn:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán trong tư pháp quốc tế (nghĩa là bao gồm cả việc mua bán trong lĩnh vực dân sự - “dân sự” hiểu theo tinh thần Bộ luật dân sự Việt Nam 1995 (BLDSVN 1995) và mua bán trong lĩnh vực thương mại) hay chỉ là một phần của hợp đồng mua bán trong tư pháp quốc tế (nghĩa là chỉ là hợp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh vực thương mại nhưng có yếu tố nước ngoài)?
Xem xét các quy định của pháp luật Việt Nam từ trước đến nay, cũng như các điều ước quốc tế có liên quan (sẽ được dẫn ra ở phần sau) thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều được xác định (dù trực tiếp hay gián tiếp) là một hợp đồng mang tính chất thương mại. Vì thế, sẽ phù hợp và thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu và kiến giải để hoàn thiện pháp luật nếu chúng ta tiếp cận hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dưới giác độ là hợp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh vực thương mại (vì mục đích lợi nhuận) có yếu tố nước ngoài, có nghĩa chỉ là một nhóm hợp đồng trong tổng thể các hợp đồng mua bán có yếu tố nước ngoài. Với quan điểm này thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không bao hàm các hợp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh vực dân sự truyền thống (vì mục đích sinh hoạt tiêu dùng hàng ngày) có yếu tố nước ngoài.
Như vậy, về mặt lý luận hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải đảm bảo cần và đủ hai yếu tố: thứ nhất, là hợp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh vực thương mại;
và thứ hai, hợp đồng này phải có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể rơi vào một trong ba trường hợp giống như đối với hợp đồng trong Tư pháp quốc tế nói chung đó là chủ thể, sự kiện pháp lý và đối tượng của hợp đồng[ii].
Về mặt pháp luật thực định, do cách tiếp cận, nhu cầu, mục đích khác nhau mà pháp luật mỗi nước, mỗi điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế có cách gọi tên và xác định nội hàm khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế một cách phù hợp. Vì lẽ đó, việc phân tích, bình luận về tên gọi, nội hàm của khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở các văn bản pháp luật thực định cần phải trên quan điểm hết sức mềm dẻo và gắn với bối cảnh hình thành, mục đích, phạm vi điều chỉnh của văn bản ấy.
Theo Điều 1 Phụ lục của Công ước La Haye 1964 về luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế (Convention relating to a Uniform Law on the International Sale of Goods) thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đóng trên lãnh thổ các quốc gia khác nhau nếu có thêm một trong các điều kiện sau:
Thứ nhất, hợp đồng liên quan đến vật mà trong thời gian ký kết hợp đồng vật đó được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này đến lãnh thổ của quốc gia khác;
Thứ hai, hành vi chào hàng và hành vi chấp nhận chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau;
Thứ ba, việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi tiến hành hành vi chào hàng hoặc hành vi chấp nhận chào hàng.
Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods) không đưa ra định nghĩa nào về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng Điều 1 quy định: “1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau:
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc, b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên Công ước này.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này”.
Qua đó, có thể hiểu rằng, theo Công ước thì việc chủ thể của hợp đồng là các bên có trụ sở ở các nước khác nhau được coi là dấu hiệu xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ hợp đồng. Tiếp tục làm rõ hơn vấn đề này, Điều 10 Công ước quy định, nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại trở lên thì trụ sở thương mại của họ sẽ là trụ sở nào có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và đối với việc thực hiện hợp đồng đó, có tính tới những tình huống mà các bên đều biết hoặc đều dự đoán được vào bất kỳ lúc nào trước hoặc vào thời điểm hợp đồng. Trong trường hợp các bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên của họ làm căn cứ xác định.
Bộ nguyên tắc của Unidroit (Viện thống nhất về tư pháp quốc tế) về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 (Principles of International Commercial Contracts - viết tắt là PICC) không đưa ra quy định trực tiếp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng phần bình luận về lời mở đầu của PICC (phần bình luận cũng là một phần của Bộ nguyên tắc hoàn chỉnh) đã chỉ rõ rằng tính chất quốc tế (yếu tố nước
ngoài) của một hợp đồng có thể được xác định bởi nhiều cách: Pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đã và đang đưa ra nhiều giải pháp để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng như dựa vào trụ sở hay nơi thường trú của các bên tại các quốc gia khác nhau, áp dụng những tiêu chí mang tính chất tổng quát như hợp đồng có “các mối liên hệ mật thiết với hơn một quốc gia”, hợp đồng “đòi hỏi có sự lựa chọn giữa pháp luật của các quốc gia khác nhau”, hợp đồng “có ảnh hưởng đến các lợi ích trong thương mại quốc tế”. PICC không nhấn mạnh bất cứ tiêu chí nào trong số các tiêu chí trên, tuy nhiên quan niệm về tính quốc tế của hợp đồng cần phải được giải thích theo nghĩa rộng nhất có thể, chỉ không coi là hợp đồng không có tính quốc tế nếu nó không có bất kỳ một yếu tố quốc tế nào - nghĩa là tất cả các yếu tố cơ bản của hợp đồng chỉ liên quan đến một quốc gia duy nhất.
Đối với Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được biết đến trong nhiều văn bản với các tên gọi khác nhau như hợp đồng mua bán ngoại thương (được ghi nhận trong Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31/07/1991 của Bộ Thương nghiệp - nay là Bộ Công Thương), hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài (ghi nhận trong Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 - sau đây gọi là LTMVN 1997), hợp đồng xuất, nhập khẩu hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa (Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 - sau đây gọi là LTMVN 2005).
Trước thời điểm ban hành LTMVN 1997, khái niệm “hợp đồng mua bán ngoại thương” được ghi nhận trong Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK về hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương do Bộ Thương nghiệp (nay là Bộ Công Thương) ban hành ngày 31/07/1991: “hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế” với ba tính chất sau: thứ nhất, chủ thể của hợp đồng là những pháp nhân có quốc tịch khác nhau; thứ hai, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển từ nước này sang nước khác; thứ ba, đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng.
Đến thời kỳ ra đời và vận hành LTMVN 1997, thì lại xuất hiện tên gọi “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài” (quy định tại Điều 80 LTMVN 1997): “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài”. Như vậy, tiêu chí để xác định yếu tố nước ngoài cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (được gọi với cái tên “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”) chỉ là yếu tố quốc tịch của các bên chủ thể hợp đồng. Theo đó, có thể thấy LTMVN 1997 đã thu hẹp nội hàm khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Với cách hiểu này thì một loạt các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khác sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh LTMVN 1997 như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các thương nhân Việt Nam với nhau nhưng việc ký kết được tiến hành ở nước ngoài, hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân nước ngoài với nhau ở Việt Nam... Điều này không chỉ đặt ra những vấn đề khó phúc đáp về lý luận mà còn cả sự khó khăn đối với việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn khi mà BLDSVN 1995 chưa được xác định rõ là “đạo luật mẹ”
hay không.
Hiện nay, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong LTMVN 2005 và Nghị định 12/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/01/2006 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Theo Điều 27 khoản 1 LTMVN 2005 thì “Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các
hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Như vậy, chiếu theo quy định này thì tiêu chí để xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ là việc hàng hóa là đối tượng của hợp đồng phải được giao qua biên giới. Với những loại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà hàng hóa không có sự dịch chuyển qua biên giới thì rõ ràng sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của LTMVN 2005.
Tuy nhiên, với tư duy coi BLDSVN 2005 là “đạo luật mẹ” bao trùm lên cả các lĩnh vực kinh tế - thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động thì đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không được chuyển giao qua biên giới quốc gia (như hợp đồng mua bán hàng hóa giữa một thương nhân Việt Nam với một thương nhân nước ngoài nhưng hàng hóa chỉ được chuyển dịch trong nội bộ lãnh thổ Việt Nam) thì hoàn toàn có thể áp dụng các quy định của BLDSVN 2005 đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói chung để điều chỉnh.