Thực trang quan hệ kinh tế ASEAN - EC trước năm 1996

Một phần của tài liệu Quan hệ kinh tế asean eu giai đoạn (1996 2008) (Trang 28 - 37)

2.1. THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ ASEAN - EU

2.1.2. Thực trang quan hệ kinh tế ASEAN - EC trước năm 1996

2.1.2.1. Thực trang quan hệ kinh tế ASEAN - EC trước năm 1996

* Thương mại

EC có quan hệ với ASEAN rất sớm, là tổ chức đầu tiên thừa nhận tiềm năng của ASEAN ngay khi ASEAN mới thành lập (1967), nhưng vẫn tụt sau

29

khá nhiều so với Nhật Bản và Mỹ trong hợp tác thương mại với các nước châu Á. Điều đó là do một số thành viên có vai trò đối ngoại đáng kể trong EC (Pháp) chỉ chú ý đến thị trường truyền thống của mình ở Bắc Phi, châu Mỹ… Họ coi các nước châu Á là các nước ngèo khổ, cần viện trợ từ phương Tây, chỉ lợi dụng nguồn nhân công rẻ mạt của mình để xâm nhập thị trường châu Âu và các nước EC áp dụng chính sách bảo trợ, hạn chế buôn bán. Hơn nữa, chính sách của nhiều nước Tây Âu còn gắn liền với vấn đề nhân quyền trong kinh tế.

Chỉ đến năm 1980, Hiệp định hợp tác giữa ASEAN - EC được ký để hai bên đẩy quan hệ thương mại lên mức cao hơn. Đặc biệt là trong những năm gần đây Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức đang giữ chức chủ tịch EU, đã công bố tài liệu giải thích vì sao cần đầu tư phát triển thương mại với ASEAN và châu Á của chính phủ Bon. Theo quan điểm này nếu các công ty ở châu Âu không hoạt động ở châu Á thì họ sẽ mất khả năng cạnh tranh của mình, mất đi tư thế dẫn đầu của một lục địa trên thế giới. EC chú ý cải thiện quan hệ mậu dịch hai chiều thay vì chỉ đơn giản hạn chế hàng nhập khẩu từ châu Á mỗi khi cần cạnh tranh ở khu vực này. Mặt khác trong cạnh tranh giữa ba trung tâm lớn: Mỹ, Nhật, Tây Âu; EC có thể bị gạt ra khỏi khu vực châu Á - Thái Bình Dương vì trong tổ chức APEC vốn bao gồm tất cả các nước có nền kinh tế phát triển năng động của khu vực này, thì Mỹ và Nhật có vị trí quan trọng, còn EC lại không có chân đứng. Hầu hết các nhà lãnh đạo EC đều đánh giá cao tiềm năng của châu Á - Thái Bình Dương, trong đó họ coi ASEAN là hạt nhân thúc đẩy Mỹ, Nhật, EC đầu tư nhanh vào khu vực này. Theo tính toán của các nhà kinh doanh Âu - Mỹ thì sức mua của khu vực này hiện đã lớn hơn Mỹ hoặc EC và triển vọng đến năm 2005 sẽ lớn hơn cả Mỹ và EU cộng lại [2, tr.63].

Từ năm 1986 trở lại đây, quan hệ kinh tế buôn bán giữa ASEAN và EC có bước phát triển đáng khích lệ. Bình quân buôn bán giữa EC và ASEAN

30

tăng 20%. Kim ngạch xuất khẩu của EC sang ASEAN tăng mạnh vào cuối thập kỷ 80, từ khoảng 8,5 tỷ USD năm 1987 lên 18,5 tỷ USD năm 1991. Xuất khẩu của ASEAN sang EC cũng tăng cao tương tự: khoảng 11 tỷ USD năm 1987 lên 24 tỷ USD năm 1991. Do đó tỷ trọng ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EC cũng tăng từ 3,6% lên 4% trong thời kỳ này[2, tr.63].

Buôn bán hai chiều EC với Đông Á (bao gồm cả ASEAN) năm 1993 vượt mức buôn bán giữa EC - Bắc Mỹ, đạt 60 tỷ USD, gấp 4 lần so với ASEAN từ lâu đã vượt kim nghạch buôn bán của EC với 70 nước châu Phi - Caribe - Thái Bình Dương(ACP) theo công thúc LOME. Đối với ASEAN, EC là bạn hàng lớn thứ ba sau Nhật Bản và Mỹ. Hàng xuất khẩu chính sang thị trường EC là quấn áo, hàng dệt và thực phẩm nông sản… Các nước ASEAN nhập về chủ yếu là các thiết bị điện, điện tử, nguyên liệu hóa chất.

Từ nguồn Eurosat, thương mại trong giai đoạn từ 1980 - 1995 có sự thay đổi về cơ cấu, các mặt hàng xuất nhập từ ASEAN sang EC và xuất khẩu từ EC sang ASEAN. Nếu như vào năm 1980, khoảng 2/3 giá trị xuất khẩu của ASEAN sang EU có lượng xuất khẩu hàng nguyên liệu thô như gỗ, bột sắn và dầu dừa thì đến năm 1995 không chỉ riêng EU có lượng xuất khẩu hàng chế tạo lớn hơn sang ASEAN mà ngay cả với các nước ASEAN, hàng chế tạo cũng là hàng xuất khẩu quan trọng nhất sang EU. Nếu so sánh với nhập khẩu sản phẩm thành phần của EC từ ASEAN cũng đặc biệt tăng nhanh. Từ chỗ chỉ chiếm 9% năm 1975, năm 1993 ASEAN đã chiếm tới 22% tổng giá trị nhập khẩu hàng chế tạo của EC từ các nước đang phát triển. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng chế tạo trong giá trị hàng xuất khẩu của EC vẫn lớn hơn con số này của ASEAN cả về tỷ trọng và giá trị tuyệt đối. Năm 1995, xuất khẩu hàng chế tạo từ EU sang ASEAN chiếm tới 89,3% tổng giá trị hàng xuất khẩu sang ASEAN với con số là 24801,5 triệu EUC. Trong khi đó, xuất khẩu hàng chế tạo của ASEAN sang EU là 24345,8 triệu ECU bằng 81,3% tổng giá trị hàng

31

xuất khẩu. Máy móc và công cụ vận tải đều chiếm vị trí quan trọng nhất trong nhóm hàng chế tạo của ASEAN - EU. Xuất khẩu máy móc và công cụ vận tải của EU sang ASEAN chiếm tới 62% giá trị hàng chế tạo và 55% tổng giá trị hàng xuất khẩu của EU. Còn xuất khẩu máy móc và công cụ vận tải của ASEAN sang EU chiếm tới 54% giá trị hàng chế tạo và 44% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Xuất khẩu hàng cơ sở của ASEAN sang EU tăng không đáng kể và giảm mạnh về tỷ trọng. Năm 1980, xuất khẩu nhóm hàng này chiếm tới gần 50% tổng giá trị xuất khẩu của ASEAN sang EC, tới năm 1995, con số này chỉ còn là 18%.

Riêng về hàng nông sản, xuất khẩu hàng nông sản của ASEAN sang EC tăng bình quân 4%/ năm từ năm 1990 tới năm 1995 và đạt 7 tỷ USD năm 1996. Trong số 15 nước EC, Đức và Hà Lan là những thị trường lớn nhất, thu hút hơn 40% nông phẩm xuất khẩu của ASEAN, sau đó là Anh, Pháp và Italia.

Năm mặt hàng nông phẩm xuất khẩu hàng đầu của ASEAN là dầu thực vật, cao su thiên nhiên, thủy sản, dau quả và sắn. Năm mặt hàng này chiếm khoảng 70% tổng giá trị xuất khẩu nông sản của ASEAN sang EC. Hiện nay EC vẫn là địa chỉ quan trọng đối với hàng nông sản của ASEAN chiếm 16%

tổng nông sản xuất khẩu của ASEAN. Mặc dù gặp cạnh tranh quyết liệt trên thị trường EC, các nước ASEAN vẫn tăng thị phần của mình một cách ổn định. Thị phần của ASEAN trong tổng nông sản nhập khẩu của EC đã tăng từ 5,3% năm 1985 lên 7,6% năm 1990 và 8,5% năm 1996. Trong số các nước ASEAN, Thái Lan, Indonesia và Malaysia là những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất sang EC. Cả ba nước chiếm khoảng 85% tổng số nông sản xuất khẩu của ASEAN sang EC. Hàng nông sản xuất khẩu của ASEAN sang EC phần nào bị cản trở bởi các chính sách hạn chế buôn bán của EC như thuế nhập khẩu hay hạn ngạch để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước. Chế độ thuế quan leo thang của EC khiến cho ASEAN phải chịu tỷ lệ thuế quan ngày càng cao

32

do họ có xu hướng chuyển dần sang sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng.

Về nhập khẩu, giá trị nông sản nhập khẩu của ASEAN từ EC đã tăng từ 1,1 tỷ USD năm 1990 lên 2,2 tỷ năm 1996. Trong những năm tới người ta dự tính xuất khẩu nông phẩm của ASEAN sang EU sẽ tăng nhiều do đồng tiền mất giá làm cho hàng xuất khẩu của những nước này có khả năng cạnh tranh cao hơn [11, tr.10 - 11].

Bảng 1: Thương mại giữa ASEAN và EC giai đoạn 1980 - 1995

Phân theo ngành hàng

Xuất khẩu ASEAN sang EC

Xuất khẩu của EC sang ASEAN

1980 1995 1980 1995

Hàng hóa cơ sở

Thực phẩm và động vật sống Nước giải khát và thuốc lá Nguyên liệu thô

Dầu chất béo và sáp Các sản phẩm xăng dầu Hàng chế tạo

Hóa chất

Phân loại theo nguyên liệu Máy móc và công cụ vận tải Các hàng chế tạo khác Hàng hóa khác

Tổng số

3045,22 1296,05 106,34 1555,57 447,26 220,15 2447,19 35,15 951,2 770,00 690,76 784,70 6857,2

5350,66 180,61 106,92 1614,16 1090,02 243,65 24345,8 511,73 3070,43 13171,3 6986,12 606,24 29940,2

322,19 106,29 106,29 25,57 9,72 48,90 4534,83 680,58 677,67 2851,31 325,2 463,56 5396,37

1510,85 721,60 409,23 348,64 31,38 365,54 24801,5 3177,12 3706,17 15288,5 2629,71 1081,26 27759,1

Nguồn: Eurostat[11, tr.47].

Thương mại giai đoạn này phản ánh quan hệ kinh tế giữa ASEAN và EU ngày càng phát triển. Cả hai khối đã có sự trao đổi với số lượng lớn về hàng hóa.

Năm 1995 EU đã xuất khẩu tổng số hàng hóa sang ASEAN là 27759,1 và ASEAN cũng xuất khẩu sang EU là 29940,2. Như vậy một mặt có thể

33

khẳng định sự trao đổi hàng hóa giữa ASEAN và EU là khá lớn và tổng cán cân xuất nhập khẩu của EU đối với ASEAN luôn thâm hụt. Lý do chủ yếu vì các chính sách ưu đãi mà EU đã giành cho các nước ASEAN. Ví dụ như chế độ ưu đãi GSP của EU giảm thuế để cho các mặt hàng của ASEAN có thể cạnh tranh được với hàng của các nước EC. Cũng trong giai đoạn này do các nước ASEAN đang tích cực đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nên nhu cầu nhập hàng máy móc và công nghệ vận tải lên cao nên từ năm 1980 đến năm 1995 tăng hơn 5 lần (từ 2851,3 lên 15288,5) [9, tr.12].

* Đầu tư

Đầu tư là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong quan hệ kinh tế ASEAN - EC. Kể từ 80, đầu tư của EC vào ASEAN tăng lên nhanh chóng. Tổng giá trị đầu tư của EC vào ASEAN tăng lên 83,5% từ mức hơn 4 tỷ USD năm 1980 lên gần 7.7 tỷ năm 1985. Cho tới năm 1993 con số này đã lên tới 23 tỷ. Với mức đầu tư như thế này, EC luôn là một trong những nhà đầu tư quan trọng nhất ở khu vực ASEAN. EC đứng thứ hai, chỉ sau Nhật và trên Mỹ, trong các nguồn FDI vào ASEAN thời kỳ này. EC đầu tư vào ASEAN chiếm 21,7%, Nhật 26% còn Mỹ chiếm 17%.

Đơn vị triệu USD Đơn vị%

Nguồn: Eurostat [9, tr.24].

34

Bản thân các nước ASEAN cũng rất chủ động trong việc thu hút FDI, đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích (không phân biệt đối xử, các chính sách về quyền sở hữu, lợi nhuận và thuế…) cũng như những cố gắng tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư (ổn định chính trị, cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế).

Từ những năm 80, nhận thức rõ hơn của hai bên về tầm quan trọng của đầu tư EC tăng lên thể hiện bằng việc Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN - EC 1985 nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường đầu tư của EC vào ASEAN như một động lực trong quan hệ kinh tế và tiếp đó là sự ra đời của các ủy ban phối hợp đầu tư JICO ở thủ đô của các nước ASEAN để thúc đẩy đầu tư EC vào khu vực.

Đầu tư của EC vào các nước đang phát triển châu Á, bao gồm Đông, Nam và Đông Nam Á rất nhỏ, chỉ khoảng 3%. Trong những năm 90, FDI của NICs lớn hơn của EC. Ví dụ, năm 1993, phần FDI của NICs ở Malaysia là 26,7%, Indonesia là 32,4%, philippin là 32,9% tính bình quân, phần FDI của EC ở ASEAN là 15%. Riêng ở Singapore và Philippin, con số này có cao hơn là 26,9% và 17,1%. Riêng năm 1993, Indonexia nhận được một khối lượng FDI lớn nhất từ EC sau đó là Malaysia, Singapore, Thái Lan và Philippin.

Đầu tư của EC chủ yếu vào các ngành chế tạo như: Giao thông vận tải, chế biến lương thực, hóa chất, các sản phẩm điện và dầu khí ngoài ra là xây dựng, nông nghiệp và khai khoáng. Tầm quan trọng của các khoản đầu tư của EC được phản ánh bởi sự đóng góp của nó vào giá trị mới tạo ra, xuất khẩu trực tiếp và nghiên cứu triển khai. Ví dụ, trong trường hợp của Singapore, so sánh các hoạt động nước ngoài trong ngành chế tạo, ta thấy các công ty châu Âu sử dụng ít lao động hơn các công ty Mỹ và Nhật. Xét về mặt giá trị mới tạo ra và nghiên cứu triển khai, các công ty châu Âu đứng thứ hai sau Mỹ [11, tr. 13].

35

* Hỗ trợ tài chính

EC là các nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới như Anh, Pháp, Italia… Vì thế mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên EC là rất lớn. Trước bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa các nước EC mở rộng quan hệ đối ngoại ra các nước các khu vực khác trên thế giới đặc biệt là các nước ASEAN. Khi EC - ASEAN được coi là nòng cốt của quan hệ hợp tác Á - Âu.

Khi đó hợp tác với các nước ASEAN thì một vấn đề lớn nảy ra đó là các nước ASEAN chủ yếu là các nước có nền kinh tế đang phát triển có nguồn lao động rồi rào, tài nguyên phong phú nhưng lại thiếu vốn và khoa học kỹ thuật. Hiểu rõ được điều đó thì các nước EC đã đưa ra các chính sách nhằm hỗ trợ tài chính cho các nước nhằm các mục đích:

- Nâng cao cơ sở hạ tầng ở các nước ASEAN để thuận lợi cho đầu tư của các nước EC vào ASEAN.

- Các nước ASEAN chủ yếu là thuộc địa cũ của các nước EC như Việt Nam, Lào, Campuchia là thuộc địa của Pháp…Với việc tài trợ nguồn tài chính để phần nào bù đắp lại cho các nước thuộc địa.

- Các nước EC muốn có thể mở rộng ảnh hưởng hay vị thế của mình thì cần làm cho các nước ASEAN nhanh chóng phát triển hơn. Với các viện trợ kinh tế này thì các nước EC có vai trò quyết định hơn trong quan hệ giữa ASEAN - EC.

Đối với các nước ASEAN các hỗ trợ này là một nguồn tài chính rất quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước của mình, nhất là nó có thể sử dụng trong những lĩnh vực cơ sở hạ tầng, phúc lợi công cộng, phát triển cân bằng mà sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường không làm được. Trong thực tế ASEAN nhận hỗ trợ khá lớn từ EC, với tổng từ năm 1976 (khi EC bắt đầu quyết định giành một phần trong ngân sách viện trợ cho các nước ngoài Không Liên Kết và thuộc nhóm ACP) đến năm 1990 là 663,9 triệu ECU.

Năm 1991, EC đã cung cấp ODA lớn thứ hai của ASEAN. Các lĩnh vực hỗ

36

trợ mà EC tập trung vào viện trợ nhân đạo, hợp tác phát triển và hợp tác kinh tế. Tuy so sánh với một số khu vực đang phát triển khác, viện trợ mà ASEAN nhận được từ EC chưa phải lớn nhưng có thể nói lĩnh vực này là lĩnh vực thành công giữa hai bên[9, tr.25].

Trước năm 1996 thì quan hệ kinh tế ASEAN - EU tuy là bước mở đầu của mối quan hệ giữa hai khối nhưng nó đã đạt được những thành tựu không nhỏ là cở sở, nền tảng cho giai đọan sau tiếp tục phát triển. Qua thực trạng kinh tế giai đoạn trước năm 1996 thì chúng ta có thể thấy rằng EU có thế mạnh hơn ASEAN, có quyền quyết định trên bàn đàm phán. Quan hệ ASEAN - EU là nòng cốt quan hệ hai khu vực và ASEAN là khu vực có đầu tư nước ngoài phát triển năng động nhất thế giới, nhưng ASEAN chưa nhận được một lượng đầu tư và thương mại thích ứng với tầm vóc của mình từ EU. Có thể lý giải theo các nguyên nhân chính sau.

- Các công ty châu Âu chưa đánh giá hết tiềm năng phát triển của châu Á. Các cơ hội đầu tư thực tế hơn đối với họ là quá trình hội nhập châu Âu và những thay đổi ở Trung và Đông Âu gần đây.

- Ngoài hạn chế về nhận thức, chiến lược của các công ty châu Âu về sản xuất, thương mại và đầu tư cũng là một phần nhân tố tham gia vào sự hạn chế của châu Âu trong sự đầu tư trực tiếp vào ASEAN. Nói chung, các công ty châu Âu, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu trực tiếp hơn là việc mở các văn phòng hay xây dựng cơ sở sản xuất và thiết lập hệ thống phân phối ở nước ngoài. Chiến lược tổng thể này đã đặt các công ty châu Âu vào vị trí bất lợi hơn so với các công ty Mỹ, Nhật cả về đầu tư cũng như thương mại.

- Về phía ASEAN hiện nay, họ đã mất đi một số lợi thế so sánh so với các thị trường đầu tư mới ở châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và các nước NICs do hạ tầng cơ sở kém phát triển.

- Mặc dù trong hiệp định hợp tác ASEAN - EU không có điều kiện đề đề cập tới hợp tác chính trị giữa hai nhóm nước, nhưng các cuộc họp cấp bộ

37

trưởng về những vấn đề hai bên cùng quan tâm. Tại các cuộc đối thoại này, nhiều vấn đề chưa được hất trí, đặc biệt là vấn đề nhân quyền. Chính những vướng mắc về chính trị như vậy cản trở phần nào tới sự hợp tác kinh tế sâu rộng giữa hai khối.

- Ngoài ra, những khó khăn trong từng liên kết cũng tác động tới quan hệ kinh tế giữa hai bên. Về phía mình, các nước ASEAN đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập AFTA. Sự chênh lệch về trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế và mức thu nhập giữa các nước thành viên đòi hỏi mọi quốc gia đều phải cố gắng trong quá trình hội nhập này.

- Về phía EU với việc kết nạp 3 nước thành viên : Áo, Phần Lan, Thụy Điển. Đối với họ, thị trường nội bộ đầy tiềm năng, ở gần hơn và dễ dàng hơn, còn thị trường châu Á nói chung và ASEAN nói riêng vẫn còn nhiều rủi ro hơn và có sự chênh lệch tương đối lớn hơn so với họ về trình độ phát triển kinh tế.

Một phần của tài liệu Quan hệ kinh tế asean eu giai đoạn (1996 2008) (Trang 28 - 37)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(70 trang)