Những định nghĩa cơ bản liên quan đến chất lượng và tiêu chuẩn hoá

Một phần của tài liệu Kĩ thuật kiểm tra siêu âm (Trang 63 - 67)

CHệễNG 1 KIẾN THỨC TỔNG QUÁT NDT

1.3 CHẤT LƯỢNG VÀ TIÊU CHUẨN HOÁ

1.3.2. Những định nghĩa cơ bản liên quan đến chất lượng và tiêu chuẩn hoá

Chất lượng của một sản phẩm công nghiệp không có nghĩa là tốt nhất hoặc hoàn hảo nhất. Mặt khác nó được định nghĩa như là một sản phẩm thích hợp với mục đích sử dụng được yêu cầu bởi người sử dụng. Nó cũng được đề cập đến như là khả năng mà các sản phẩm đáp ứng được những yêu cầu của thiết kế, được duy trì vì mục đích và cách sử dụng mà sản phẩm dự định hay mong muốn đưa vào sử dụng. Như đã trình bày trước đây có lẽ nên xác lập hay định nghĩa một mức chất lượng tối ưu cho một sản phẩm hơn là cố gắng chế tạo nó với chất lượng tốt nhất có thể, điều này làm cho sản phẩm trở thành quá đắt một cách không cần thiết mà có thể người tiêu dùng không chấp nhận.

Theo hướng tổng quát, các đặc tính điển hình của những sản phẩm công nghiệp giúp ta xác định và nắm được những đặc điểm kỹ thuật và chất lượng của nó, đó là thành phần hoá học, cấu trúc kim loại, hình dạng và thiết kế, các tính chất vật lý của sức bền và độ bền, dáng mạo, đặc điểm môi trường.v.v…phản ứng với những điều kiện hoạt động và sự có mặt của các khuyết tật bên trong. Những yêu cầu này nên thỏa mãn trong giới hạn dung sai đã được chỉ định. Dĩ nhiên, giá thành là một chi tiết cũng quan trọng.

Khả năng của một tổ chức là thỏa mãn tiêu chuẩn chất lượng trong quá trình sản xuất các sản phẩm hay dịch vụ, sau cùng có liên quan đến khả năng sinh lợi và tồn tại của tổ chức đó. Nếu nó không sản xuất ra các sản phảm theo yêu cầu của khách hàng, thì nó không thể cạnh tranh ngoại trừ trong những tình huống rất lạ thường và ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu những yêu cầu của khách hàng không thể đáp ứng được hoặc khó đáp ứng được trong giới hạn các thúc ép về tài chính, cách giải quyết tốt nhất là xác định lại yêu cầu. Nếu cứ nhất định đạt được các yêu cầu đặc tính cao không cần thiết thì sẽ không thực tế. Trong mỗi ngành công nghiệp, mỗi nơi trên thế giới, sự cạnh tranh về chất

lượng đã trở thành một hoạt động phổ biến, được áp dụng thành công nhiều hay ít phụ thuộc vào tổ chức và mức độ giao phó. Phải nhận thấy rằng chất lượng không phải là một sự ngẫu nhiên mà được lập kế hoạch. Chất lượng không thể kiểm tra được trên một sản phẩm đó được chế tạo hoàn chỉnh. Thực vậy, tiờu chuẩn kiểm tra chỉ đểứ tỏi kiểm tra các tiêu chuẩn chất lượng đã đạt được. Sự phức tạp của việc quản lý chất lượng trong giới hạn một tổ chức phụ thuộc vào sự phức tạp sản phẩm và các quá trình cũng như các tiêu chuẩn thể hiện. Một khi yêu cầu của khách hàng được chấp nhận, chất lượng là trách nhiệm của người sản xuất.

I.3.2.2. Kiểm soát chất lượng:

Kiểm soát chất lượng có thể được định nghĩa như là quá trình kiểm soát được áp dụng cho mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất để chế tạo ra một sản phẩm có chất lư ợng hoặc theo cách nói khác là áp dụng những kỹ thuật thao tác và những hoạt động mà duy trì được chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn được nhu cầu đã cho, cũng như cách sử dụng những kỹ thuật và những hoạt động như vậy. Khái niệm của việc kiểm soát chất lượng toàn diện được định nghĩa như là một hệ thống để xác định đặc điểm, kiểm soát và thống nhất các hoạt động của tất cả các công ty có khả năng kinh tế sản xuất các sản phẩm hay dịch vụ mà sẽ làm cho khách hàng thỏa mãn hoàn toàn. Từ “kiểm soát” ở đây ý muốn nói đến một phương tiện quản lý có bốn bước cơ bản đó là: đặt tên; thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng; kiểm tra tuân theo các tiêu chuẩn, hoạt động khi các tiêu chuẩn không thỏa mãn và để đánh giá nhu cầu về sự thay đổi trong các tiêu chuẩn.

Tóm lại mục tiêu của việc kiểm soát chất lượng là cung cấp cho khách hàng sản phẩm tốt nhất với giá thành thấp nhất. Điều này có thể thực hiện bằng cách cải tiến trong phần thiết kế sản phẩm, không thay đổi quy trình sản xuất, giảm giá thành và hoàn thiện phẩm chất của người lao động. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm được chia thành hai nhóm chính. Nhóm đầu tiên là kỹ thuật bao gồm máy móc thiết bị, vật liệu và quy trình xử lý và nhóm thứ hai quan trọng hơn là con người bao gồm những người soát tra, quản lý và những nhân viên khác.

1.3.2.3. Việc đảm bảo chất lượng:

Giống như tên gọi việc đảm bảo chất lượng là để thực hiện tất cả công việc đã được lập kế hoạch và các tác động có hệ thống cần thiết nhằm bảo đảm rằng các chi tiết được sản suất đạt tới mức chất lượng tối ưu và nó sẽ hoạt động tốt với độ tin cậy vừa đủ.

Việc đảm bảo chất lượng được hướng vào việc thực hiện đúng các công việc vào thời điểm đầu tiên và đòi hỏi phải đánh giá liên tục, thích hợp và hiệu quả toàn bộ một chương trình kiểm tra chất lượng với quan điểm có những số đo hiệu chỉnh bắt đầu ở những nơi cần thiết. Đối với một sản phẩm đặc biệt hoặc dịch vụ, điều này liê n quan đến sự kiểm tra xác minh và đánh giá các yếu tố chất lượng ảnh hưởng đến sản xuất hoặc sử dụng sản phẩm hoặc hoạt động dịch vụ

Việc đảm bảo chất lượng là quá trình kiểm tra chất lượng của một hệ thống kiểm tra chất lượng.

CHệễNG 1 54

1.3.2.4. Quá trình khảo sát và thử nghim (Examination and Testing):

Quá trình khảo sát và thử nghiệm là những chức năng kiểm tra chất lượng được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất ra một sản phẩm công nghiệp, bởi những người có năng lực làm việc trong các nhà máy. Sự thử nghiệm có thể cũng được định nghĩa như là đặc trưng vật lý của các hoạt động thử để xác định các số đo định tính của một vài tính chất. Hầu hết các công việc thử không phá hủy đều được thực hiện theo tiêu đề này.

1.3.2.5. Quá trình thanh tra (Inspection):

Các quá trình thanh tra là những chức năng kiểm soát chất lượng được thực hiện trong quá trình chế tạo một sản phẩm công nghiệp bởi một nhân viên thanh tra được ủy quyền. Chúng bao gồm các việc đo đạc, khảo sát, thử, đánh giá hoặc so sánh những kết quả tìm được với những yêu cầu kỹ thuật đang áp dụng. Một thanh tra được ủy quyền là một người không phải là nhân viên trong nhà máy sản xuất ra sản phẩm công nghiệp đó, nhưng người đó là người phải có đủ khả năng và có quyền lực để thẩm tra tất cả quá trình khảo sát được chỉ định trong quy phạm chế tạo sản phẩm, đã được chuẩn bị theo yêu cầu trong phạm vi tham khảo của quy phạm chế tạo nói trên.

1.3.2.6. Quá trình tiêu chuẩn hoá:

Mục đích của hầu hết các phương pháp thử nghiệm không phá hủy là để xác định các khuyết tật bên trong sản phẩm nhằm xác định bản chất, kích thước và vị trí của chúng.

Điều này được thực hiện bằng những phương pháp khác nhau, phụ thuộc vào khả năng và độ nhạy phát hiện khuyết tật. Một phương pháp được gọi là có độ nhạy tốt hoặc cao để phát hiện khuyết tật khi nó có khả năng phát hiện những khuyết tật tương đối nhỏ và ngược lại. Độ nhạy phát hiện khuyết tật của các phương pháp NDT khác nhau phụ thuộc vào một số các yếu tố thay đổi. Bây giờ hãy hình dung rằng một ng ười thực hiện việc kiểm tra siêu âm mối hàn chu vi ống thép có đường kính 50cm và bề dày thành 10mm.

Người đó sẽ thực hiện thử nghiệm tổng quát để thiết lập các giá trị của các yếu tố biến khác nhau có liên quan đến phương pháp kiểm tra, để đưa ra các kết quả có độ tin cậy và các kết quả kiểm tra mô phỏng với một độ nhạy mong muốn. Người này phải có đủ kinh nghiệm để soạn thảo cẩn thận các quy trình kiểm tra mối hàn ống. Nếu một người nào khác ở đâu đó có những trục trặc trong việc kiểm tra siêu âm các mối hàn ống với các đặc tính kỹ thuật tương tự, thì người đó có thể có hai lựa chọn để thực hiện công việc. Thứ nhất là người đó phải thực hiện toàn bộ công việc thử nghiệm sẽ hao tốn rất nhiều thời gian, tiền bạc và sự cố gắng. Thứ hai là người đó yêu cầu người đầu tiên thực hiện và sử dụng quy trình kiểm tra của người đó mà đã được công nhận là cho kết quả kiểm tra tin cậy và kết quả kiểm tra mô phỏng với một độ nhạy mong muốn. Nhiều người trong một thành phố, một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau có thể sử dụng phương pháp này như sự chỉ dẫn hoặc kiến nghị quy trình thực hành. Những người này đôi khi cùng nhau họp lại trong một hội nghị hoặc một ủy ban để trao đổi quan điểm và kinh nghiệm của họ có liên quan tới quy trình này.

Họ có thể cùng đồng ý trên một quy trình chuẩn để thử siêu âm những mối hàn chu vi của những ống thép có đường kính 50cm, bề dày thành 10 mm và kiến nghị nó (quy trình chuẩn) với tổ chức đưa ra tiêu chuẩn của quốc gia đó, để ban hành chúng như tiêu

chuẩn quốc gia. Những tiêu chuẩn như vậy được ban hành bởi tổ chức ban hành tiêu chuẩn của quốc gia, có thể được đề cập đến bởi cơ quan lập pháp hoặc chính phủ quốc gia đó và việc sử dụng chúng phải được bắt buộc bởi luật định.

1.3.2.7. Hướng dẫn và kiến nghị thực hành:

Những hướng dẫn và kiến nghị thực hành là những tiêu chuẩn mà được ban hành trước hết là để giúp đở người sử dụng.

Chúng sử dụng những động từ như “nên” hoặc “có thể” bởi vì mục đích sử dụng chúng thường là tùy chọn. Tuy nhiên, nếu những văn bản này được tham khảo bởi các quy phạm hoặc những hợp đồng thoả thuận, thì việc sử dụng chúng có thể trở thành bắt buộc. Nếu những quy phạm hoặc những thoả thuận bao gồm những phần không bắt buộc hoặc các phụ lục, thì việc sử dụng của các hướng dẫn tham khảo và kiến nghị thực hành là theo ý của người sử dụng.

1.3.2.8. Các tiêu chuẩn:

Các tiêu chuẩn là văn bản chỉ đạo và hướng dẫn cách thực hiện các thao tác khác nhau trong suốt quá trình chế tạo một sản phẩm công nghiệp. Những tiêu chuẩn trình bày những yêu cầu kỹ thuật đối với vật liệu, quá trình xử lý, sản phẩm, hệ thống hoặc vi ệc sử dụng. Chúng cũng chỉ ra các quy trình, phương pháp, thiết bị và thử nghiệm thích hợp để xác định những yêu cầu đã được thỏa mãn.

1.3.2.9. Quy phạm và các đặc điểm kỹ thuật:

Quy phạm và các đặc điểm kỹ thuật là các loại tiêu chuẩn tương tự sử dụng các động từ

“phải” hoặc “nhất định sẽ” để chỉ ra tính chất bắt buộc khi sử dụng những vật liệu nào đó hoặc hành động hoặc cả hai. Quy phạm khác với đặc điểm kỹ thuật ở chỗ cách sử dụng của chúng là bắt buộc theo luật định của chính phủ. Việc sử dụng các đặc điểm kỹ thuật chỉ trở nên bắt buộc khi chúng được tham khảo bởi quy phạm hoặc văn bản hợp đồng. Một ví dụ căn bản nhất là quy phạm ASME về nồi hơi và bình áp lực, đó là một bộ các tiêu chuẩn đảm bảo cho việc thiết kế an toàn, xây dựng và thử nghiệm các nồi hơi và bình áp lực.

1.3.2.10. Quy trỡnh kieồm tra:

Trong kiểm tra không phá hủy, quy trình kiểm tra là một dãy thứ tự các quy tắc hoặc các hướng dẫn được trình bày một cách rất chi tiết, ở đâu, như thế nào và trong đó một phương pháp NDT nào nên được áp dụng vào một quá trình sản xuất.

1.3.2.11. Kỹ thuật kiểm tra:

Kỹ thuật là một cách thức đặc trưng bằng cách sử dụng một phương pháp NDT đặc thù. Mỗi kỹ thuật kiểm tra được nhận dạng bởi ít nhất một sự thay đổi quan trọng đặc biệt từ một kỹ thuật khác trong phạm vi của phương pháp (Ví dụ : Phương pháp chụp ảnh bức xạ (RT); có các kỹ thuật tia X/tia gamma).

1.3.2.12. Bản báo cáo kết quả kiểm tra:

Bản báo cáo kết quả trong quá trình kiểm tra không phá hủy là một văn bản bao gồm tất cả những thông tin yêu cầu cần thiết có thể là :

CHệễNG 1 56

(i) Đưa ra một quyết định chấp nhận các khuyết tật qua cách kiểm tra.

(ii) Làm cho việc sửa chữa các khuyết tật dễ dàng.

(iii) Cho phép thực hiện kiểm tra hoặc khảo sát được lặp lại.

1.3.2.13. Các số liệu ghi nhận:

Các số liệu ghi nhận là những văn bản mà sẽ cho ở bất cứ thời điểm nào trong tương lai, những thông tin sau đây về kiểm tra không phá hủy.

(i) Quy trình sử dụng để thực hiện việc kiểm tra.

(ii) Kỹ thuật ghi nhận và phân tích dữ liệu.

(iii) Những kết quả kiểm tra.

Một phần của tài liệu Kĩ thuật kiểm tra siêu âm (Trang 63 - 67)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(348 trang)