KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.2. Bàn luận về triệu chứng lâm sàng
Trước đây, việc chẩn đoán GPN gặp khá nhiều khó khăn do các triệu chứng lâm sàng nhiều khi không rõ ràng, khó xác định; các phương pháp cận lâm sàng đơn giản như XQ phổi chuẩn thường không nhạy trong việc phát hiện bệnh. Ngày nay, với việc ứng dụng các phương tiện kỹ thuật cao trong đó đáng chú ý là chụp CLVT độ phân giải cao và đo thể tích ký thân (Body plethysmography) chúng ta hy vọng sẽ chẩn đoán được bệnh ở những giai đoạn sớm, khi bệnh còn nhẹ, từ đó có thể điều trị sớm hơn và tư vấn bệnh nhân có những biện pháp phòng bệnh sớm đem lại tiên lượng tốt cho BN trong điều trị cũng như đảm bảo chất lượng cuộc sống.
4.2.1. Dấu hiệu cơ năng:
Khó thở và Ho khạc là 2 dấu hiệu quan trọng trong BPTNMT.
Qua nghiên cứu chúng tôi thu được 98.7% BN có dấu hiệu khó thở, hầu hết là khó thở nhẹ (68,0%) (Biểu đồ 3.8). Kết quả này phù hợp với những ghi nhận của các tác giả trong và ngoài nước về GPN: [7], [10]. Trong quá trình thu thập số liệu, chúng tôi thu được 112 BN GPN trên CT nhưng loại đi 40 BN không được thăm dò thông khí phổi; (lý do không được thăm dò bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và viện trong đợt cấp nặng nên nhiều bệnh nhân không thể đo được chức năng thông khí phổi). Do vậy tỷ lệ thực của nhóm khó thở mức độ vừa và nhiều có thể còn cao hơn con số trên.
Ho, nghiên cứu ghi nhận 87,5% có ho, 72.3% ho khạc đờm; 58.3% ho khạc đờm màu vàng, trắng đục hoặc xanh (bảng 3.3). Điều này có thể giải thích do hầu hết bệnh nhân nhập viện do đợt cấp bội nhiễm của bệnh với khó thở và ho khạc đờm tăng. Kết quả cũng phù hợp với báo cáo của nhiều tác giả về đợt cấp BPTNMT (nguyên nhân quan trọng là do bội nhiễm phổi) [8], [10],[25].
4.2.2. Triệu chứng toàn thân.
Trong BPTNMT có giãn phế nang, triệu chứng toàn thân có giá trị trong việc đánh giá nguyên nhân đợt cấp bệnh, mức độ nặng, biến chứng và từ đó giúp cho tiên lượng bệnh nhân. Các biểu hiện trên toàn thân chính bao gồm sốt, tím, phù. (bảng 3.4).
Triệu chứng sốt: 68.1% (49BN) không có sốt hoặc không rõ có sốt hay không; trong khi phần nhiều BN được cho là nhập viện vì đợt bội nhiễm phổi. Kết quả này lại phù hợp với báo cáo của Đỗ Hồng Anh, Francisco J.Soto rằng ở những BN này, hội chứng nhiễm trùng thường không rầm rộ, nên ít khi biểu hiện sốt [8].
Triệu chứng phù: Trên lý thuyết, phù có thể gặp ở nhiều bệnh cảnh khác nhau; trong GPN chúng ta thường gặp tình trạng phù ở BN do tâm phế mạn hay đôi khi do giảm protid máu. Tuy vậy qua nghiên cứu, hồ sơ bệnh án lúc nhập viện chỉ ghi nhận 5/72 (6.9%) trường hợp có phù, trong khi có 17 BN được chẩn đoán có biến chứng tâm phế mạn (Có thể do bệnh nhân vào viện trong thời điểm suy tim ổn định); nghiên cứu trước đó của Đặng Duy Chính cho kết quả 27.1% [7].
Triệu chứng tím: Do tình trạng giảm PaO2 máu làm tăng Hb khử gây nên. Nghiên cứu ghi nhận 40.3% (29 BN) có Tím. Tỷ lệ này thấp hơn so với báo cáo của một số tác giả trước đây 100% [7]. Sự chênh lệch này có thể được lý giải 1 phần do: nhận định triệu chứng theo chủ quan từng người nên độ tin cậy tương đối, và do hạn chế của nghiên cứu hồi cứu nên chúng tôi không thể tiến hành đánh giá lại.
4.2.3. Triệu chứng thực thể.
Triệu chứng cơ năng và toàn thân trong các bệnh nhân giãn phế nang chỉ đơn thuần là các triệu chứng lâm sàng, không có định hướng gợi ý GPN.
Triệu chứng thực thể là yếu tố lâm sàng chính và quan trọng gợi ý tình trạng GPN: Lồng ngực hình thùng, xương sườn nằm ngang, co kéo cơ hô hấp, rung thanh giảm, gõ phổi quá trong, nghe phổi thấy rì rào phế nang giảm và các ran tắc nghẽn (rit, ngáy) cũng như ran bội nhiễm (ẩm, nổ). Ngoài ra khám thực thể còn giúp đánh giá biến chứng tâm phế mạn (gan to, TM cổ nổi, Harzer, phù).
Qua thu thập số liệu chúng tôi nhận thấy: Các triệu chứng thực thể được ghi nhận lại đầy đủ nhất là ran phổi và rì rào phế nang.(bảng 3.6)
BN có ran nổ, ran ẩm chiếm tỷ lệ 56,9%; ran rít ran ngáy chiếm tỷ lệ 59,7%); số BN có ran nói chung là 86.7%; hai nhóm ran này không phải luôn luôn song hành. Triệu chứng RRPN có tới 63,9% (46BN) có giảm RRFN. Kết quả này tương đối phù hợp với sinh lý bệnh BPTNMT và đợt cấp với bội nhiễm, tăng tiết dịch phế quản, co thắt phế quản. Kết quả cũng phù hợp với một số nghiên cứu trước [7].
Các triệu chứng thực thể còn lại mặc dù quan trọng nhưng hầu như không được ghi nhận trong hồ sơ 1 cách đầy đủ như: hình dạng lồng ngực, co kéo cơ hô hấp, rung thanh, gõ lồng ngực, tình trạng gan, dấu hiệu harzer.
Quan sát thực tế tại bệnh viện giúp giải thích phần nào lý do thiếu thông tin:
quá tải BN khiến cho việc khám xét chủ yếu tập trung vào những triệu chứng quan trọng cho vấn đề điều trị và tiên lượng bệnh; các phương tiện cận lâm sàng đầy đủ, độ chính xác cao thay thế phần nào vai trò của lâm sàng; tình trạng BN thường nặng nên việc thực hành khám xét làm hồ sơ vào viện của SV gặp nhiều khó khăn.
Một số triệu chứng không góp phần chẩn đoán bệnh nhưng có ý nghĩa quan trọng trong điều trị và tiên lượng được ghi nhận đầy đủ. Nhịp thở trung bình của BN là 23,99 ± 4,63 ck/Phút; nhịp tim trung bình của BN là 91,9±1,52 nhịp/phút. Kết quả này tương tự với các nhận xét của Đặng Duy Chính hay Vũ Văn Khâm.
Các triệu chứng của tâm phế mạn không được ghi nhận đầy đủ và không tương xứng với tỷ lệ tâm phế mạn được chẩn đoán.