THƯC TIEN ẮP DUNG LUẲT THUẾ GTGT Ở VIẺT NAM

Một phần của tài liệu THỰC TIỄN áp DỤNG LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ở VIỆT NAM và một số KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ở nước TA (Trang 26 - 42)

I/ Tình hình áp dung luât thuế GTGT ỏr nước ta trong thời gian vừa qua. l Những kết quả bước đáu

Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ năm 1999, ừong thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta, gây ra những bất lợi, nhưng tính đến nay đã đạt được nhiều kết quả tốt và đang phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.

Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên đã có tác động tích cực đối với sản xuất, dịch vụ.

Có một số ngành nghề, mặt hàng ttong thòi gian đầu áp dụng Luật thuế GTGT đã không tránh khỏi gặp khó khăn, lúng túng ban đầu do chậm chuyển đổi phù hợp vói mức thuế mới như than, cơ khí (trừ cơ khí tiêu dùng), luyện cán - kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, vận tải, bốc xếp, xây dựng, khách sạn, ăn uống, du lịch... uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thòi ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khổ khăn như: cho bổ xung một số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế, mở rộng việc khấu trừ thuế... Đến cuối năm 1999, các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng trên đã đi vào ổn định, sản phẩm tăng, nộp được thuế và có lãi. Có nhiều sản phẩm, tính chung cả năm 1999, tăng cao hơn so với năm 1998 như phân hoá học tăng 14%, sứ vệ sinh tăng 52,9%, gạch lát tăng 25%, thép cán tăng 12,9%, máy biến thế tăng 23,2%, động cơ đi- ê-zen gấp hơn 2,5 lần. Đối với một số doanh nghiệp đã bị thua lỗ lớn từ trưóc, qua hơn một năm áp dụng các luật thuế mói, chưa kịp chuyển biến nên sản xuất kinh doanh vẫn trì trệ và chưa hết lỗ.

Các hoạt động dịch vụ có khá hơn, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 3,5%

so với năm 1998.

Việc thực hiện thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp còn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế phải tăng cường quản lý, thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ; đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức canh tranh ừong tình hình mói.

Về lưu thông hàng hoá, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế GTGT chỉ điều tiết trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên đã thúc đẩy việc lưu thông hàng hoá thuận lợi. Tính chung cả năm 1999, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 5,1% (bao gồm cả yếu tố trượt giá 4,7%).

Thứ hai, Luật thuế GTGT và các Luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thời, trong quá trình thực hiện, Chính phủ còn có những biện pháp khuyến khích thêm như: đối vói những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao ừong năm 1998 sang năm 1999 mới thanh toán thì được nộp thuế theo mức thuế doanh thu cũ; từ 01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó, ừong năm 1999, tuy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chỉ bằng 77,7% so với thực hiện năm 1998 nhưng vốn đầu tư xã hội vẫn tăng khoảng 9% so vói năm trưóc.

Thứ ba. thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Luật thuế GTGT quy định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu nên đã khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể canh tranh về giá với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Số tiền hoàn thuế gần 1800 tỷ đồng ttong năm 1999 cho hàng xuất khẩu đã góp phần quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào tăng cao như: gạo tăng 12%; hàng dệt may tăng 14%; giày dép tăng 31%; thuỷ hải sản tăng 11%; hàng điện tử tăng 16%; rau quả tăng 31%;

hàng thủ công mỹ nghệ tăng 33%. Kết quả cho thấy năm 1999 là năm đầu tiên kim

ngạch xuất khẩu của nước ta vừa đạt tốc độ tăng trưởng cao, vừa vựơt mức kế hoạch. Trong điều kiện kinh tế thế giói lâm vào tình trạng giảm phát, hàng hoá ứ đọng, thị trường tiêu thụ hàng hoá bị co lại, nhiều mặt hàng liên tục giảm giá, nhưng tính chung cả năm 1999, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại đạt 115,2% kế hoạch năm và tăng 23,1% so với năm 1998 (năm 1998 tăng 1,9%).

Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất ừong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng canh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nưóc, bảo hộ được thị trường tiêu thụ hàng hoá nội địa, kích thích sản xuất ttong nước phát ừiển, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khi nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu, thực hiện thuế suất ưu đãi khi tham gia các hiệp định thương mại đa phương, tạo môi trường đầu tư thuận lọi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước.

Kết hợp với cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 1999, thuế GTGT đã góp phần hạn chế hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp từ nước ngoài, thực hiện tiết kiệm cho sản xuất. Đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu vẫn thực hiện thu thuế GTGT khi hàng nhập về, nhưng đã có xem xét, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu để ổn đinh sản xuất trong nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, ừong đó phải kể đến tác động của thuế GTGT, mà tổng kim ngạch nhập khẩu năm 1999 chỉ tăng 1% so vói năm 1998.

Thuế GTGT còn góp phần cơ cấu lại nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu chuyển manh sang sản xuất hướng nhập khẩu. Thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nước ta có thế manh như nông sản, lâm sản, thuỷ sản... bằng các quy định cụ thể như: không thu thuế GTGT đối với hàng do người sản xuất bán ra; cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các cơ sở chế biến, thương mại mua các mặt hàng ừên; hoàn thuế đầu vào cho các cơ sở xuất khẩu các mặt hàng này nếu có hoá đơn GTGT đầu vào... Nhờ vậy, trong năm 1999, lượng gạo xuất khẩu đạt 4,55 triệu tấn, tăng hơn 80 vạn tấn so với năm trước; lượng thuỷ

sản xuất khẩu cả năm đạt giá trị 979 triệu USD, bằng

11, 4% so với năm 1998. Hầu hết các nông sản xuất khẩu chủ yếu tăng về khối lượng như chè tăng 13,0%; cà phê tăng 27,6%; cao su 37,2%; hạt tiêu tăng 2,3 lần.

Thứ tư, thuế GTGT không làm tăng giá cả hàng hoá. Bản chất của thuế GTGT là không làm tăng giá vì nó thay thế thuế doanh thu đã được kết cấu vào ừong giá. Một vài tháng đầu thực hiện Luật thuế GTGT, một số doanh nghiệp và hộ kinh doanh đã cộng thêm thuế vào giá cũ để bán làm giá cả hàng hoá đã nhích lên chút ít Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã có biện pháp quản lý kịp thòi; mặt khác, hàng hoá dồi dào, còn sức mua hạn chế nên giá cả sớm ổn định trở lại. Theo tài liệu của Tổng cục Thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng cả năm 1999 chỉ tăng 0,1% so vói tháng 12 năm 1998, trong đó giá lương thực và thực phẩm giảm (thực phẩm giảm 7,8%).

Nếu trừ nhóm lương thực và thực phẩm thì giá các nhóm hàng công nghệ phẩm và dịch vụ ừong năm tăng 3% là mức bình thường và phổ biến của nhiều nền kinh tế ứong khu vực và thế giới. Về cơ bản, giá cả hàng hoá ừong năm 1999 vẫn dừng mức cuối năm 1998 mặc dù trong đó có cả thuế GTGT. Năm 1999 là năm chỉ số giá tiêu dùng có tốc độ tăng thấp nhất từ 1990 đến nay.

Thứ năm, về số thu ngân sách, thuế GTGT thu được từ 1999 đến nay đạt kết quả như sau:

Theo số liệu ở trên ta thấy rằng thuế GTGT là một nguồn thu lốn cho ngân sách nhà nước, từ khi ban hành đến nay thuế GTGT luôn chiếm khoảng 20% tổng số thu cho ngân sách nhà nước và khoảng 25% trong tổng số thu từ thuế. Năm 1999, tổng thu ngân sách nhà nưóc cả năm đạt 95,9% so vói dự toán năm, thu thuế GTGT tương đương với thu thuế doanh thu trước đây; trong đó, thu thuế GTGT hàng nhập khẩu đạt 113,1% so với dự toán năm. Có được kết quả này còn nhờ vào sự tích cực, chủ động và phối hợp chặt chẽ của các ngành, đơn vị chức năng như ngành thuế, hải quan, quản lý thị trường, bộ đội biên phòng, công an... vói các địa phương trong việc tính thuế và thu thuế hàng hoá, giám sát kiểm tra hàng hoá, chống buôn lậu và gian lận thương mại.

Các số liệu minh hoạ trên phần lớn đều là các số liệu của năm 1999, năm đầu tiên nưóc ta triển khai áp dụng Luật thuế GTGT, nhưng nhìn chung từ đó đến nay, qua hơn ba năm thực hiện Luật thuế GTGT đã đảm bảo được yêu cầu của Nhà nước đề ra là góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá, đẩy manh xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, tăng cường công tác

Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng

Năm 1999 2000 2001 2002

(dự tính) Tổng số thu ngân sách 76,128 88,721 95,600 103,200

Tổng thu về thuế 63,942 72,787 80,305 102,530

Thu thuế GTGT 17,239 17,072 18,916 23,015

Tỷ lệ % thuế GTGT trong tổng thu NS 22,64 19,24 18,196 23,015 Tỷ lệ % thuế GTGT trong tổng thu về thuế 26,96 23,45 23,55 26,30

từ tạo điều kiện chống thất thu thuế, bảo đảm nguồn thu ổn định, lâu dài và ngày càng tăng cho ngân sách nhà nưóc. Đồng thòi, nó góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta, phù hợp vói sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế vói các nước trong khu vực và trên thế giới.

2. Những tổn tai trong quá trình thưc hiẽn

Bên canh những kết quả bước đầu đạt được, trong thòi gian triển khai thực hiện Luật thuế GTGT đã nổi lên những khổ khăn, tồn tại, vướng mắc sau đây:

Mỏt là, về thuế suất thuế GTGT: đang từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất đến áp dụng thuế GTGT có 4 mức thuế suất không thể ttánh khỏi sự chênh lệch số thuế gián thu phải nộp giữa hai loại thuế này. Những sản phẩm trưóc đây chịu thuế doanh thu vói mức thấp 0,5%, 1%, 2% nay lên 10% trên giá chưa có thuế, mặc dù được khấu trừ thuế đầu vào nhưng số thuế GTGT phải nộp vẫn cao hơn thuế doanh thu phải nộp trưóc kia rất nhiều. Vì vậy, khi áp dụng thuế GTGT, một số ngành, một số doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, nếu nộp đủ thuế GTGT thì bị lỗ. Chẳng hạn, các doanh nghiệp ngành chế tạo cơ khí trước đây đang nộp thuế doanh thu từ 1% - 2% (trừ nhóm hàng điện dân dụng và lắp ráp ô tô dưới 24 chỗ có mức thuế suất 4%) nay áp dụng thuế suất thuế GTGT 10% đã gặp rất nhiều khổ khăn. Với 4 mức thuế suất như hiện nay, ngành thuế liên tục nhận được đơn xin giảm thuế và đã điều chỉnh giảm thuế đối với nhiều nhóm hàng. Nhưng điều chỉnh giảm thuế tạo ra những phản ứng dây chuyền, lan rộng, gây nhiều tiêu cực.

Hai là. về việc khấu trừ thuế, hoàn thuế.

Nghị định 102/1998/NĐ-CP ngày 21/12/1998 và Nghị định số 78/1999/NĐ- CP ngày 20/08/1999 của Chính phủ đã cho phép mở rộng điều kiện khấu trừ thuế cho các hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản, phế liệu, hàng hoá chịu thuế TTĐB của cơ sở thương mại mua trực tiếp của người sản xuất... thực chất là khuyến khích sản xuất, chế biến hàng nông, lâm, thuỷ sản, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất, kinh

doanh, để các doanh nghiệp không phải nộp thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu.

Tuy nhiên, ừong quá trình thực hiện đã nảy sinh các mâu thuẫn mới:

- Có quá nhiều tỉ lệ khấu trừ, gây phức tạp cho quá trình thực hiện và không khuyến khích thực hiện hoá đơn, chứng từ. Việc cho phép khấu trừ khống, dựa vào bảng kê đã tạo khe hở cho việc kê khai không trung thực để được khấu trừ hoặc hoàn thuế, gây thất thu cho NSNN.

- Chính sách thuế chưa thống nhất, chưa công bằng giữa các đối tượng nộp thuế như chưa cho khấu trừ thuế đối với dịch vụ chịu thuế GTGT có hoá đơn bán hàng thông thường như: vận tải, bốc xếp, sửa chữa... trong khi các hàng hoá dịch vụ khác được khấu trừ hoặc hoàn thuế.

Quá trình xét hoàn thuế chậm, gây khó khăn ách tắc vốn sản xuất kinh doanh cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Việc xác định số thuế được khấu trừ và số thuế hoàn lại khiến ngành thuế phải mất một thòi gian để xác minh. Năm 2000, theo kế hoạch, ngành thuế sẽ tiến hành hoàn thuế khoảng 3.260 tỷ đồng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến hết năm 2000, thực tế số thuế được hoàn lên tói 4.000 tỷ đồng tăng 740 tỷ đồng so với kế hoạch.

Ba là. về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Thực tế nền kinh tế nước ta có khoảng 4 vạn doanh nghiệp có khả năng tổ chức hạch toán và gần 1,6 triệu hộ chủ yếu sản xuất, kinh doanh nhỏ, cho nên khi thực hiện thuế GTGT đã áp dụng hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối vói các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp trên giá tiị gia tăng và sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời 2 cách tính thuế GTGT và 2 loại hoá đơn trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế

lại nảy sinh những điều bất cập, gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh.

Việc tồn tại hai phương pháp tính thuế GTGT tạo ra sân choi không bình đẳng, công bằng giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh. Theo số liệu của ngành thuế hiện nay, riêng TP HCM có ttên 120.000 đơn vị thực hiện thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và 10.000 đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế. Số đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng số các đơn vị được cấp mã số thuế, song hiện đang thực hiện các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ đầu vào với các đơn vị, cá nhân thực hiện theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT khá lớn nên nhiều doanh nghiệp có hoá đơn bán hàng (đã có thuế GTGT) mà không được khấu trừ thuế. Do đó, trong các khoản chi phí và việc hình thành giá bán có một phần thuế không được khấu trừ, nhưng khi đơn vị tiêu thụ sản phẩm vẫn phải nộp 10% trên tổng giá ừị hàng hoá. Như vậy là thuế đánh chồng lên thuế, các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ sẽ mất đi một khoản lọi nhuận đáng kể. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao dịch, cung ứng dịch vụ, hàng hoá với các đơn vị hiện theo phương pháp khấu trừ thì hàng hoá không được khấu trừ thuế GTGT, thực chất các đơn vị phải trả phần thuế GTGT chìm trong giá bán mà các đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện đang tồn tại hai sân choi khác nhau mà mỗi bên chỉ choi theo một loại hình, chính vì vậy đang hình thành 2 xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và đĩ nhiên là ngành thuế sẽ khổ lòng giải quyết ngay được. Hơn nữa trong thực tế, tiến hành thu thuế tính theo phương pháp trực tiếp rất khổ chính xác, vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán (đối với hộ nhỏ) như thuế doanh thu trước đây, chính điều này đã gây không ít lúng túng, khổ khăn cho thương nghiệp quốc doanh một khi họ phải canh ứanh trực tiếp vói các hộ buôn bán thuế theo phương pháp trực tiếp.

Một phần của tài liệu THỰC TIỄN áp DỤNG LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ở VIỆT NAM và một số KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ở nước TA (Trang 26 - 42)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(45 trang)
w