Do giới hạn về số lượng của đề tài nên chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu 2 tác giảc tiêu biểu có tác phẩm được giảng dạy trong trường phổ thông là: Xuân Diệu và Tố Hữu. Thông qua các sáng tác trải dài suốt cả hai chặng đường trước và sau cách mạng tháng Tám – 1945 của các tác giả chúng tôi sẽ làm sáng tỏ sự biến thể cũng như sự phát triển các nét nghĩa mới của TH “thuyền”.
3.1 - “Thuyền” trong thơ trước cách mạng 3.1.1- Kết quả và phân loại kết quả khảo sát 3.1.1.1 - Kết quả khảo sát
Xuân Diệu là nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Trong phong trào thơ Mới ông được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình”, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Trong quá trình khảo sát thơ Xuân Diệu giai đoạn trước cách mạng chúng tôi tập trung khảo sát 98 bài thơ thuộc hai tập thơ
“Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”. Qua thống kê chúng tôi thấy có 29 lần xuất hiện TH “thuyền”, chiếm 29.6% với các tên gọi khác nhau.
Chúng tôi cũng khảo sát tập thơ “Từ ấy” đây là tập thơ duy nhất được sáng tác trước cách mạng của nhà thơ Tố Hữu. Qua khảo sát 72 bài thơ chúng tôi nhận thấy có 21 TH “thuyền”, chiếm 29.2% với các tên gọi khác nhau.
3.1.1.2 – Phân loại kết quả khảo sát - Biến thể từ vựng:
Qua khảo sát các bài thơ trước cách mạng của Xuân Diệu chúng tôi thấy biến thể từ vựng của TH “thuyền” xuất hiện với các tên gọi khác nhau, với các tỉ lệ khác nhau: Biến thể “thuyền” xuất hiện 24 lần, chiếm 82.5%; biến thể “đò” xuất hiện 2 lần, chiếm 7%; biến thể “cánh buồm” với 2 lần, chiếm 7%; “mái chèo” xuất hiện 1 lần, với 3.5%.
Chúng tôi cũng tiếp tục thống kê biến thể từ vựng của TH “thuyền”
trong thơ Tố Hữu với các tên gọi khác nhau: Biến thể “thuyền” xuất hiện 12 lần, chiếm 57.0%; “đò” 2 lần, chiếm 9,6%; “tàu” 1 lần với 4.8%; “cánh buồm” 1 lần, với 4.8% và “mái chèo” 5 lần, chiếm 23.8%.
- Các cặp quan hệ TH:
Dựa vào các TH “thuyền” trong thơ Xuân Diệu chúng tôi đã khảo sát và tìm được 15 cặp TH có quan hệ với TH “thuyền” trong đó cặp quan hệ TH
“thuyền - bến” xuất hiện 5 lần, chiếm 33.4%; cặp quan hệ TH “thuyền – dòng sông” xuất hiện 4 lần, chiếm 26.6%; cặp “thuyền – đôi bờ” với 4 lần xuất hiện, chiếm 26.6%; cặp quan hệ TH “thuyền - biển” xuất hiện 2 lần với 13.4%.
Theo khảo sát 72 bài thơ trong tập “Từ ấy” chúng tôi thống kê được 10 cặp quan hệ TH với “thuyền”. Trong đó có cặp quan hệ TH “thuyền - bến”
xuất hiện 2 lần, chiếm 20%; cặp “thuyền – dòng sông” 4 lần, chiếm 40%; cặp quan hệ TH “thuyền – đôi bờ” xuất hiện 2 lần, chiếm 20%; cặp quan hệ TH
“thuyền - biển” 2 lần, với 20%.
3.1.2 – Phân tích
Thơ Xuân Diệu là đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Sự xuất hiện của ông trên thi đàn đã góp phần quyết định cho sự toàn thắng của phong trào Thơ Mới. Năm 1941, khi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân đã nhận xét: “Thơ Xuân Diệu là nguồn sống rào rạt chưa từng có ở chốn non nước lặng lẽ này”. Tiếp sau đó, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cho rằng:
“Thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong các nhà Thơ mới”, “là người mang đến cho thơ nhiều cái mới nhất”. Nguyễn Đăng Mạnh thì cho rằng
“Xuân Diệu là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình giữa con người và con người, một phát hiện về niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cuộc sống trần thế này đã ban phát cho nhân loại”. Lê Đình Kỵ trong chuyên luận thơ Mới những bước thăng trầm đã khẳng định: “Xuân Diệu xuất hiện trong phong trào Thơ
mới với tất cả lòng say mê yêu đời”. Trong những năm 1990, nhiều nhà nghiên cứu cũng có những nhận xét tương tự. Không chỉ có vậy khi khảo sát chùm thơ Xuân Diệu chúng tôi nhận thấy TH “thuyền” xuất hiện khá nhiều và phong phú về biến thể.
Độc giả biết đến Xuân Diệu - nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ Mới 30 – 45, nhưng mấy ai biết đến nhà thơ Tố Hữu cũng trưởng thành từ phong trào thơ này. Với tập thơ đầu tay “Từ ấy” ông chuyển dần từ chàng thanh niên trẻ yêu lí tưởng, đến nhà thơ lãng mạn giàu cảm xúc và một nhà thơ cách mạng suốt đời gắn bó với nhân dân.
3.1.2.1 - “Thuyền” trong mối quan hệ với “bến”
Được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” thế nhưng Xuân Diệu vẫn có những kế thừa, tiếp thu những THTM quen thuộc trong ca dao:
“ Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt”.
(Lời kĩ nữ)
Câu thơ trên xuất hiện hai cặp quan hệ tương ứng nhau “gian nhân – du khách” và “thuyền - bến”. Giai nhân trong nghĩa cổ dùng để chỉ người con gái đẹp “tài tử giai nhân” - người đàn ông tài hoa và người con gái đẹp. Thế nhưng ở đây “giai nhân” lại được đặt trong cặp quan hệ với “du khách” – khách đi chơi xa, khách du lịch thì thật là mới lạ. Chúng tôi xét tiếp cặp quan hệ “bến - thuyền”: bến được dùng để chỉ sự cố định, không di chuyển lại gắn thêm chữ “đợi” thì sẽ chẳng đi đâu. Điều này càng được khẳng định qua không gian chờ đợi “cây già” - một sự chờ đợi triền miên theo thời gian. Còn
“du khách” – chính là “thuyền” với đặc tính di động, không cố định trong những không gian khác nhau lại đi cùng “qua”, “không buộc chặt” một loạt các từ phủ định chỉ sự không chắc chắn, cố định. Chính vì vậy, “thuyền - bến”
- người ra đi và người ở lại giờ đây không chỉ được dùng để chỉ sự chờ đợi, thuỷ chung trong tình yêu mà đã trở thành mối quan hệ riêng chỉ khách làng chơi và kĩ nữ. Chính vì vậy, mới có nghịch cảnh “bến” thì chờ đợi dưới “cây già” với tình cảm đậm sâu còn “tình du khách” thì nhạt nhoà, mờ ảo, không vững chắc . Người kĩ nữ trở về với nỗi cô đơn, nhỏ bé giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận. Họ nhận ra số phận của mình và khao khát thay đổi cuộc đời, thoát khỏi kiếp sống lênh đênh, vô định.
Không chỉ được dùng với một nghĩa chuyển, “thuyền - bến” còn được dùng để chỉ sự bơ vơ, lạc lõng của con người trước cuộc đời:
“Tôi như chiếc thuyền hư không bến đỗ Tôi là một con chim không tổ”.
(Dối trá)
Đại từ ngôi 1 chỉ đích danh chủ thể trữ tình là “tôi” được so sánh
“chiếc thuyền hư không bến đỗ”. Thuyền đi xa cũng có ngày trở về bến đặc biệt khi chiếc thuyền ấy cần sửa chữa. Nhưng con “thuyền hư” trên lại gặp phải sự trớ trêu “không bến đỗ”. Có thuyền, có bến nhưng lại là không có gì cả với từ phủ định “không”. Lúc này sự cô đơn không chỉ là cảm giác nữa mà trở thành hiện thực: thuyền không bến thì bơ vơ, con chim không tổ thì biết nơi đâu để về. Số phận con người cũng vậy như con thuyền kia nếu không có bến đỗ, không có tổ để về thì sẽ bị dòng đời cuốn trôi vào vô định. Nét nghĩa cũ giờ đây chuyển thành nét nghĩa mới chỉ sự cô đơn, lạc lõng khi thiếu vắng một trong hai yếu tố thẩm mĩ “bến” - kẻ đợi chờ.
Hay đó còn là sự nhớ mong, chờ đợi một con đò, một dáng người thân quen:
“ Thẫn thờ cây đa trên bến cũ Đêm đêm như nhớ chị đò xưa”.
(Buổi chiều)
Cây đa, bến nước, con đò là những mô típ quen dùng trong ca dao nay được dùng trong thơ lãng mạn để viết về tình yêu nên mang những nét nghĩa mới. Bến nước, con đò là nơi gặp gỡ, hò hẹn của tình yêu. Chính nơi đây đã chứng biết bao đôi trai gái nên duyên vợ chồng nhưng đây cũng là nơi tan vỡ của không ít cuộc tình. Và chàng trai cũng như cây đa, con đò đêm đêm lại nhớ tới một người giờ đây đã bỏ lại tất cả để theo chồng. Cảnh cũ, vật cũ vẫn còn nhưng người thì đã đi lấy chồng để lại một nỗi “thẫn thờ” cho cảnh vật và con người.
Cũng đi vào xây dựng cặp quan hệ TH “thuyền - bến” nhưng Tố Hữu đi vào gần gũi với cuộc sống đời thường, lấy chất liệu từ cuộc sống hàng ngày để viết về những con người dưới đáy xã hội, những cô gái làng chơi:
“Em đi với chiếc thuyền không Khi mô vô bến, dời dòng dâm ô”.
(Tiếng hát sông Hương )
Nhân vật trữ tình tự kể về cuộc đời mình trên dòng Hương Giang với bao nhiêu nỗi đắng cay, tủi nhục. Trên dòng sông này tưởng như có biết bao nhiêu người qua lại, biết bao nhiêu khách làng chơi vậy mà sao cô gái chỉ có một mình với chiếc thuyền, mà lại là “thuyền không”. Tưởng có thuyền sẽ bớt cô đơn nhưng chính nó lại như minh chứng cho sự lẻ loi, một mình của cô gái. Cô gái một mình trên dòng sông vắng khách không có ai để bầu bạn, chia sẻ nỗi niềm. Đến đây có lẽ cô gái trong “Lời kĩ nữ” của Xuân Diệu còn hạnh phúc hơn cô gái trên dòng sông Hương, vì cô còn có cơ hội để “không buộc chặt” tình du khách. Còn cô gái chỉ có một mình với chiếc thuyền không, một mình trơ trọi trên dòng sông mênh mông. Cho nên cái ao ước nhỏ nhoi, thường nhật hàng ngày của cô là được thoát khỏi “dòng dâm ô”. Thế nhưng mơ ước đó sao mà khó thực hiện vậy? Câu hỏi “khi mô vô bến” như nỗi đau xoáy sâu vào lòng người thôi thúc cô gái trên sông trở về “bến” - nơi bình an,
hạnh phúc, nơi có cuộc sống tốt đẹp hơn. “Bến” ở đây trở thành nơi để về của con người, nơi lưu giữ ước mơ, hạnh phúc và cũng là nơi bắt đầu của những kiếp người như cô gái trên dòng Hương Giang.
Phân tích cặp quan hệ TH “thuyền - bến” qua hai nhà thơ Xuân Diệu và Tố Hữu chúng tôi thấy cặp quan hệ TH “thuyền - bến” trong thơ Xuân Diệu xuất hiện nhiều hơn với 5 lần, chiếm 33.4%; còn trong thơ Tố Hữu chỉ xuất hiện 2 lần, chiếm 20%. Khi đi vào phân tích ý nghĩa của cặp quan hệ TH này chúng tôi cũng nhận thấy mỗi nhà thơ xây dựng cho mình những ý nghĩa riêng trên cơ sở nét nghĩa ban đầu chỉ người ra đi và người ở lại. Trong thơ Xuân Diệu cặp quan hệ TH “thuyền - bến” được dùng để chỉ sự cô đơn, nhỏ bé giữa dòng thời gian vô biên, không gian vô tận, con người như sinh vật phù du với kiếp sống lênh đênh. Hay đó là sự bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời;
tâm trạng nhớ mong, đợi chờ khắc khoải trong tình yêu. Thì Tố Hữu lại đem đến cho “thuyền - bến” - một nơi bình yên, nơi để người ta ước ao được trở về, nơi bắt đầu lại của những kiếp người “lênh đênh”.
3.1.2.2 – “Thuyền” trong mối quan hệ với “dòng sông”
Không chỉ miêu tả thuyền trong mối quan hệ với bến Xuân Diệu còn xây dựng hàng loạt cặp TH “thuyền – dòng sông”. Chúng tôi đã khảo sát được có 4 lần cặp quan hệ TH “thuyền – dòng sông” xuất hiện, chiếm 26.6%. Với ý nghĩa ban đầu dùng để chỉ sự trôi chảy của con người theo dòng thời gian, Xuân Diệu đã chuyển thành hình ảnh của “thuyền lòng”
chỉ tâm trạng của con người:
“ Tôi réo rắt, chẳng qua trời bắt vậy
Chiếc thuyền lòng, nước đẩy phải trôi theo”.
(Lời thơ và tập “Gửi hương cho gió”)
Nhân vật trữ tình tự nhận xét bản thân mình bằng từ láy “réo rắt” - chỉ tiếng nhạc cao và thanh, lúc nhanh, lúc chậm, lúc to, lúc nhỏ. Nhưng trong
câu thơ này nó được dùng để chỉ trạng thái, tính chất của con người thay đổi nhanh và liên tục. Câu thơ cho ta thấy một quan niệm duy tâm về tạo hoá.
Tiếp dòng mạch cảm xúc trên, tác giả cho rằng “chiếc thuyền lòng”của mình thay đổi là do thiên nhiên, ông “trời”. Câu thơ “nước đẩy phải trôi theo” lấy ý từ câu ca dao “ nước chảy hoa trôi” chỉ sự hoạt động tự nhiên của mọi vật.
Nhưng tác giả đã thay thế đi một vài chữ để câu thơ mang một nghĩa khác.
“Đẩy” – nghĩa là có sự tác động của vật khác làm cho vật được tác động di chuyển đi ra xa. Ở đây “nước” chính là vật tác động làm cho “chiếc thuyền lòng” “phải” (Ở trong điều kiện bắt buộc, không thể không làm, không thể khác) trôi theo dòng nước. Câu thơ thể hiện sự an bài, bất lực của con người trước số phận. Dòng sông trở thành dòng đời nếu con người không biết chọn cho mình đường đi thì tấm lòng cũng “réo rắt” mà thôi.
Sự trôi chảy này còn được nhà thơ thể hiện cụ thể theo chiều dài của bài thơ cùng với mối quan hệ giữa con thuyền và dòng sông:
“Dưới thuyền nước trôi Trên nước thuyền chuồi Và nước và thuyền Xuôi dòng đi xuôi.
Nước không vội vàng Cũng không trễ tràng Thuyền không chậm chạp Nhưng không nhẹ nhàng.
Nước trôi vô tri Vô tình thuyền đi Nước không biết thuyền Thuyền biết nước chi.
Cứ thế luôn ngày Trôi mà như bay Nước, thuyền đi mãi Luôn trong đêm ngày.
Trăng thu gió hè Đổi bờ thay đê
Nước, thuyền xuống biển Thuyền không trở về.
Nước cũng mất luôn Nhưng nước con nguồn Thuyền chìm trong lúc Đêm ngày nước tuôn.
(Thời gian )
Con thuyền và dòng nước luôn đi cùng nhau song song ra tận biển.
Nhưng mối quan hệ giữa chúng không đơn giản vậy. Thuyền dựa vào nước để di chuyển. Và khi ra đến biển thuyền và nước cùng chìm. Nhưng bất ngờ đã xảy ra “nước còn nguồn” nên nó vẫn tồn tại và lại thực hiện cuộc hành trình tiếp theo của mình còn thuyền thì sẽ không còn cơ hội nữa. Đến đây tác giả muốn gửi tới bạn đọc thông điệp sống có ích, sống là chính mình đừng phụ thuộc vào người khác.
Chúng tôi cũng khảo sát cặp quan hệ TH “thuyền – dòng sông” trong thơ Tố Hữu và nhận thấy cặp quan hệ này xuất hiện nhiều nhất với 4 lần chiếm 40% tổng số các cặp TH. Đây là cặp THNN có sự gắn bó mật thiết với nhau giữa sự vật và không gian tồn tại của sự vật. Con thuyền luôn luôn tồn tại trên dòng sông và thực hiện quá trình hoạt động của mình trên dòng sông:
“Trên dòng Hương Giang Em buông mái chèo Trời trong veo Nước trong veo Em buông mái chèo”.
( Tiếng hát sông Hương)
Trên dòng sông cô gái từ từ chèo thuyền đi. Điệp câu “em buông mái chèo” lập lại như nhấn mạnh hoạt động của cô gái trên dòng sông. Đồng thời, sự lập lại vần “eo” ở cuối các dòng thơ cũng tạo nên sự dàn trải, kéo dài cảm giác cô đơn, lẻ loi của cô gái. Tiếp theo tác giả miêu tả :
“Trăng lên, trăng đứng, trăng tàn Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng”.
( Tiếng hát sông Hương)
Hình ảnh “trăng” xuất hiện liên tục ba lần trong cùng một câu lục với các trạng thái khác nhau. Lúc thì “trăng” di chuyển lên phía trước, lúc thì
“trăng” thẳng đứng trên đầu, lúc thì “trăng” yếu dần, sắp sửa vụt tắt. Đây là những trạng thái của trăng lúc đầu tháng (trăng lên), giữa tháng (trăng đứng) và cuối tháng (trăng tàn ). Thông qua việc miêu tả trạng thái của trăng cho thấy sự trôi chảy của thời gian từ ngày này qua ngày khác của cô gái trên sông. Câu thơ thứ hai cho thấy hiện trạng của người con gái: “đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng”. Chiếc “thuyền nan” bé nhỏ, đơn sơ tạo cho chúng ta cảm giác bấp bênh, không an toàn. Thế nhưng cô đã gắn bó cả cuộc đời mình trên dòng sông với chiếc thuyền nan ấy. Hai chữ “xuôi dòng” như buông xuôi, bỏ mặc số phận của mình cho dòng nước. Chỉ với hai câu thơ thôi Tố Hữu đã cho thấy số phận của người kĩ nữ trên dòng sông trôi nổi, lênh đênh cùng sóng nước. Dòng sông cũng chính là dòng đời của cô gái bấp bênh, lận đận và không có bến dừng. Từ trên chúng ta thấy số phận của con người
trong xã hội thực dân phong kiến chẳng khác gì số phận của những con thuyền trôi nổi, lênh đênh trong suốt cuộc đời.
Phân tích cặp quan hệ TH “thuyền – dòng sông” ở hai tác giả khác nhau chúng tôi nhận thấy ý nghĩa thẩm mĩ của cặp quan hệ này cũng có sự khác biệt. Nếu trong thơ Tố Hữu ý nghĩa ban đầu của cặp quan hệ TH “thuyền – dòng sông” được giữ nguyên dùng để chỉ số phận nổi trôi, lênh đênh theo dòng thời gian của sông nước, của cuộc đời thì nhà thơ Xuân Diệu lại có những phát hiện mới về ý nghĩa của cặp quan hệ TH này. Trong thơ Xuân Diệu cặp quan hệ TH này không chỉ biểu hiện ý nghĩa ban đầu mà tác giả còn dùng để chỉ tâm trạng của con người buông xuôi, bất lực trước số phận trái ngang; sống phụ thuộc vào người khác của một bộ phận người trong xã hội Việt Nam trước cách mạng.
3.1.2.3 – “Thuyền” trong mối quan hệ với “đôi bờ”
Không chỉ xây dựng “thuyền” trong mối quan hệ với “bến”, “dòng sông”, Xuân Diệu còn xây dựng rất thành công khi xây dựng cặp quan hệ TH
“thuyền – đôi bờ”. Chúng tôi khảo sát được 4 lần cặp quan hệ này xuất hiện, chiếm 26.2%. Đây là cặp quan hệ TH chỉ sự giao lưu, cầu nối giữa các vùng miền trong cả nước. Trong bài “Bên ấy bên này” Xuân Diệu có viết:
“Cũng xa như những bờ xa cách
Không có thuyền qua, không cánh bay”.
Nhà thơ đã nhận thức rất rõ vai trò của thuyền khi đi lại trên dòng sông.
Tình yêu của nhân vật trữ tình đang ở trong tình thế đôi bờ ngăn cách. Mà chàng trai lại không có “cầu dải yếm” để sang chơi nhà nàng. Chính vì vậy, chỉ có thể trông cậy vào chiếc cầu nối duy nhất ở đây là “thuyền”. Nhưng lại
“không có thuyền qua, không cánh bay” vì thế đành ngậm ngùi trong nỗi xót xa mà thôi. Nhà thơ đã nhân hoá khoảng cách của đôi bờ bằng từ phủ định
“không” lặp lại hai lần. Chính vì vậy mà khoảng cách như xa hơn và con thuyền như có tầm quan trọng hơn trong vai trò làm cầu nối cho tình yêu.