CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Tổng quan về Bệnh viện Ung bướu Nghệ An
3.1.5. Đánh giá tổng quan Bệnh viện Ung bướu Nghệ An trong việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và sự hài lòng của bệnh nhân
“Chất lượng và sự hài lòng của người bệnh” là mục tiêu phấn đấu của Bệnh viện và được đề ra trong kế hoạch hành động của Bệnh viện từ năm 2016 (Bệnh viện Ung bướu Nghệ An, 2016). Tuy nhiên, mục tiêu này của Bệnh viện cần phải được đánh giá trong những điều kiện thực tế của Bệnh viện, cũng như liên quan trực tiếp đến các yếu tố cơ sở tạo nên chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh của Bệnh viện.
3.1.5.1. Những thuận lợi và khó khăn
Theo đánh giá từ Báo cáo số 15/BV, ngày 14 tháng 01 năm 2017, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An hoạt động cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh của bệnh viện có những khó khăn, thuận lợi sau.
Thuận lợi
- Lãnh đạo các cấp đã thường xuyên quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi để bệnh viện triển khai có hiệu quả vốn đầu tư từ Dự án ODA và Trái phiếu Chính phủ vào mua sắm trang thiết bị.
- Được một số bệnh viện tuyến trên hợp tác, hỗ trợ chuyên môn, chuyển giao kỹ thuật, giúp BV nâng cao chất lượng khám chữa bệnh.
- Từ năm 2016, Bệnh viện được tiếp nhận khang trang tiện nghi, hiện đại đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh và cá tỉnh lân cận.
- Tập thể CBVC đoàn kết, sẵn sàng nổ lực phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ.
Khó khăn
- Số bệnh nhân điều trị nội trú vẫn quá tải liên tục, nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao đã làm tăng áp lực của xã hội đối với bệnh viện.
- Lực lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật đang rất thiếu, nhất là bác sỹ nên rất khó khăn trong vấn đề triển khai ứng dụng chuyên môn kỹ thuật mới; biên chế cán bộ viên chức chưa áp dụng theo Thông tư số 08/2007/TTLT-BYT-BNV do đó để có đủ nhân lực hoạt động, bệnh viện phải hợp đồng thêm điều dưỡng, NHS, KTV từ nguồn lương tăng thêm của CBVC.
- Trang thiết bị, dụng cụ ở một số chuyên khoa còn thiếu nhiều so với nhu cầu phát triển chuyên môn.
- Tình hình thị trường có biến động lớn về giá nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác cung ứng vật tư tiêu hao, văn phòng phẩm và phục vụ sinh hoạt người bệnh.
3.1.5.2. Thực trạng các yếu tố cơ sở của chất lượng dịch vụ y tế tại Bệnh viện 3.1.5.2.1. Đánh giá tình hình số lượng và chất lượng nhân sự của Bệnh viện trong quan hệ với chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện
Tính đến ngày 14/01/2017, Bệnh viện có 686 CBVC, trong đó có đến 25,5% có trình độ đại học và 15,5% có trình độ sau đại học. Tỷ lệ điều dưỡng, NHS, KTV/bác sỹ là 2,89. Tuy nhiên, hiện nay nhân lực chưa đủ biên chế theo quy định của Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV. Trình độ chuyên môn của các trưởng phó phòng và trình độ ngoại ngữ của các trưởng phó khoa chưa đạt; trình độ chuyên môn chung của điều dưỡng, NHS, KTV còn thấp; dưới 50% điều dưỡng trưởng khoa có chứng chỉ quản lý chăm sóc bệnh nhân Báo cáo tổng kết công tác Bệnh viện năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017, Báo cáo số 15/BV, ngày 14 tháng 01 năm 2017. Chỉ tiêu của BV là 530 giường bệnh (đạt tỷ lệ 1,3 nhân viên/giường bệnh); được chia ra: 13 khoa lâm sàng, 5 khoa cận lâm sàng và 4 phòng chức năng. Mỗi ngày BV thực hiện khám ngoại trú hơn 2000 người và điều trị nội trú khoảng hơn 700 bệnh nhân - đây là một lưu lượng BN khá lớn so với chỉ tiêu được giao. Bệnh viện còn mở rộng khám chữa bệnh đến các đối tượng bảo hiểm y tế, tự nguyện các tỉnh thành trong cả nước và khách quốc tế nước bạn Lào. Trong thời gian qua, BV đã có nhiều nỗ lực để hoàn thành các mục tiêu đề ra. Các khoa, phòng đã có nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh.
Tuy nhiên, BV vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục như: thời gian chờ của bệnh nhân còn khá lâu ở một số khoa (Khoa Khám bệnh, Khoa chẩn đoán hình ảnh...);
tình trạng quá tải bệnh nhân thường xuyên xảy ra; một số khoa phòng để xảy ra tai biến trong điều trị; tình hình nhân lực tuy có bổ sung nhưng chưa đầy đủ theo yêu cầu;
vẫn còn một số BS có biểu hiện chưa tốt về tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh và chưa hài lòng với công việc hiện tại (Bệnh viện Ung bướu Nghệ An, 2016).
3.1.5.2.2. Đánh giá tình hình trang thiết bị tài sản cố định trong quan hệ với chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện
Từ năm 2016, cơ sở vật chất của bệnh viện có nhiều thay đổi quan trọng. Đến nay, CBVC được làm việc trong môi trường với kiến trúc hạ tầng khá hiện đại, không gian thông thoáng và công năng sử dụng phù hợp; hệ thống điện, nước tương đối tốt;
môi trường xung quanh bệnh viện rộng với nhiều ghế đá, cây xanh tạo điều kiện cho người bệnh thư giãn vào sáng sớm và chiều tối; điều kiện làm việc của CBVC tốt lên nhiều; các buồng phẫu thuật, thủ thuật, khoa HSCC... đảm bảo tiêu chuẩn thiết kế xây dựng, bố trí phù hợp và bảo đảm công tác kiểm soát nhiễm khuẩn; hệ thống xử lý chất thải lỏng và hệ thống xử lý chất thải rắn hoạt động tốt (Bệnh viện Ung bướu Nghệ An, 2016).
Hiện nay, Bệnh viện đã và đang đầu tư các hệ thống máy móc y tế hiện đại nhất khu vực, điển hình như: Máy chụp CT scanner 64 dãy, máy cộng hưởng từ MRI 1.5 T, hệ thống SPECT, hệ thống phẫu thuật nội soi mới và hiện đại full HD, hệ thống dao mổ hàn mạch không chảy máu (như dao mổ Ligasure, dao mổ siêu âm), hệ thống xét nghiệm giải phẫu bệnh, hệ thống xét nghiệm huyết học sinh hóa và miễn dịch đồng bộ hiện đại… Đặc biệt, bệnh viện đã mua sắm các thiết bị phục vụ cho ghép tế bào gốc, đào tạo nguồn nhân lực và đã triển khai thành công 12 ca ghép tế bào gốc tạo máu tự thân ngoại vi điều trị cho các bệnh nhân Ung thư hệ thống tạo máu và hỗ trợ trong điều trị ung thư vú, là đơn vị thứ 5 trong toàn quốc triển khai thành công kỹ thuật này và là đơn vị tuyến tỉnh đầu tiên dám mạnh dạn áp dụng kỹ thuật cao vào điều trị ung thư, mở ra hướng mới trong nghiên cứu và điều trị trong lĩnh vực chống lại căn bệnh ung thư. Bệnh viện có hệ thống xét nghiệm hoàn toàn tự động, các thiết bị chẩn đoán giải phẫu bệnh hiện đại nên có thể khám, phát hiện, sàng lọc và chẩn đoán sớm các bệnh về Ung bướu. Bệnh viện Ung bướu Nghệ An có thể tầm soát các khối u nhỏ có kích thước vài milimet; với máy chụp vú kỹ thuật số DR (máy chụp nhũ ảnh) đầu tiên và duy nhất tại Nghệ An có thể phát hiện sớm ung thư vú, giúp điều trị khỏi căn bệnh ung
thư thường gặp nhất ở phụ nữ hiện nay. Đồng thời có thể thực hiện được các cuộc phẫu thuật phức tạp như: Cắt khối u tá tụy, cắt ung thư phổi, cắt toàn bộ dạ dày, đại tràng, cắt ung thư tiền liệt tuyến hoặc phẫu thuật nội soi bướu cổ - một kỹ thuật mà chưa bệnh viện tuyến tỉnh nào thực hiện được.
Cùng với đó, Bệnh viện chú trọng vào việc thu hút nhân tài, đào tạo nhân lực để đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao, trên 55% cán bộ y tế của bệnh viện đạt trình độ đại học và sau đại học - một con số mà rất nhiều bệnh viện mơ ước, trong đó có nhiều cán bộ được đào tạo chuyên sâu về chẩn đoán và điều trị các bệnh ung bướu.
Theo thống kê sơ bộ, mỗi năm, ở Việt Nam có khoảng 150.000 người mắc bệnh ung thư. Con số đó ở Nghệ An là khoảng 4.000 đến 6.000 người, trong đó có 1.761 ca tử vong. Đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm bởi rất nhiều người có thể bị mắc các bệnh ung bướu mà chưa được phát hiện. Điều này cho thấy bệnh ung thư đe doạ rất lớn đến sức khoẻ lao động, sinh hoạt của con người và nguy cơ tử vong là rất cao.
Trong khi đó, hoạt động phát hiện và chẩn đoán bệnh ung thư ở tuyến cơ sở còn rất hạn chế. Vì vậy, bệnh viện Ung bướu Nghệ An đi vào hoạt động và trở thành địa chỉ tin cậy của bệnh nhân ung bướu khu vực Bắc Trung Bộ, là điều kiện thuận lợi cho người bệnh tiết kiệm cả về thời gian và chi phí chữa bệnh.
Trong điều trị ung thư, việc ứng dụng xạ trị và Y học hạt nhân là kỹ thuật đặc biệt quan trọng và hiệu quả. Do vậy, để nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh ung thư như nhiệm vụ ngành y tế giao phó, cấp thiết cần trang bị hệ thống xạ trị và Y học hạt nhân tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An. Hệ thống này sẽ góp phần quan trọng trong việc Bệnh viện độc lập hoàn thiện phác đồ điều trị, nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh cho nhân dân trên địa bàn khu vực Bắc Trung Bộ.Vì vậy, có thể đánh giá rằng trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của bệnh viện hiện nay là khá tốt, đáp ứng được hầu hết nhu cầu chữa bệnh của người dân.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý các hệ thống thiết bị trong công trình như: hệ thống điện, thang máy, hệ thống oxy trung tâm, hệ thống phát thanh nội bộ, hệ thống xử lý nước thải… chưa đảm bảo tốt. Thang máy, hệ thống lạnh trung tâm thường xuyên hư hỏng. Không gian bệnh viện rộng, nhiều khu vực và gần khu dân cư nêu vấn đề bảo vệ, chống mất cắp, trật tự… hiện tại hết sức nặng nề và phức tạp. Trong điều kiện khối lượng khám chữa bệnh của bệnh viện luôn ở trong tình trạng quá tải, vì vậy, mức độ
đáp ứng của bệnh viện vẫn còn một số hạn chế về một số mặt, mà đưa đến chất lượng cung ứng dịch vụ y tế còn bị một số bất cập. Nhiều bệnh nhân còn phải chờ đợi để đến lượt được phục vụ, một số trang thiết bị phải vận hành quá tải… Vì vậy, nhu cầu được tiếp tục trang bị các trang thiết bị y tế cũng như cải thiện quy chế sử dụng các trang thiết bị hiện có là một yêu cầu bức thiết hiện nay ở bệnh viện và là vấn đề thu hút sự quan tâm cao của lãnh đạo bệnh viện.
3.1.5.2.3. Đánh giá tình hình viện phí trong quan hệ với chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện
Chế độ viện phí hiện đang thực hiện tại Việt Nam theo quy định của Nghị định số 95/CP của Chính phủ ngày 27/8/1994 là chế độ thu một phần viện phí (Nghị định số 95/CP, ngày 27/8/1994 của Chính phủ về việc thu một phần viện phí).
Một phần viện phí là một phần trong tổng chi phí cho việc khám chữa bệnh, chỉ tính đến chi phí về thuốc, dịch truyền, máu, hóa chất, xét nghiệm, phim x quang, vật tư tiêu hao thiết yếu và dịch vụ khám chữa bệnh mà không tính khấu hao tài sản, chi phí sửa chữa thường xuyên, đào tạo, quản lý hành chính, nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị quy mô lớn.
Đối với người bệnh ngoại trú, biểu giá thu một phần viện phí được tính theo lần khám bệnh và các dịch vụ kỹ thuật mà người bệnh trực tiếp sử dụng.
Đối với người bệnh nội trú, biểu giá thu một phần viện phí được tính theo ngày gường nội trú của từng chuyên khoa theo phân hạng bệnh viện và các khoản chi phí thực tế sử dụng trực tiếp cho người bệnh bao gồm tiền thuốc, máu, dịch truyền, xét nghiệm, phim x quang và thuốc cản quang (Chính phủ, 1994).
Trước đây, đối với người bệnh ngoại trú, biểu giá thu một phần viện phí được tính theo lần khám bệnh và các dịch vụ kỹ thuật mà người bệnh trực tiếp sử dụng như xét nghiệm; chiếu, chụp x quang; thủ thuật; tiền thuốc; chi phí khám bệnh bao gồm cả chi phí vật tư tiêu hao y tế thông dụng như bông, băng cuộn, cồn sát trùng, gạc hút.
Đối với người bệnh nội trú, biểu giá thu một phần viện phí được tính theo ngày gường nội trú của từng chuyên khoa theo phân hạng bệnh viện và các khoản chi phí thực tế sử dụng trực tiếp cho người bệnh bao gồm tiền thuốc; máu; dịch truyền; xét nghiệm; phim x quang và thuốc cản quang; chi phí ngày gường điều trị nội trú bao
gồm cả chi phí vật tư tiêu hao y tế thông dụng như chăn, màn, ga, chiếu, vật tư phục vụ vệ sinh buồng bệnh; chi phí điện nước và các chi phí thường xuyên khác tại buồng bệnh.
Hiện nay, đối với người bệnh ngoại trú về cơ bản không có gì thay đổi, đối với người bệnh nội trú, so với trước đây biểu giá thu một phần viện phí được tính tiền công thủ thuật và phẩu thuật. Các loại vật tư tiêu hao y tế sử dụng trong thủ thuật, phẩu thuật được tính trọn gói trong giá dịch vụ kỹ thuật (trừ một số loại vật tư y tế đặc biệt).
Giá thuốc, hóa chất, dịch truyền và vật tư y tế tiêu hao được tính bằng giá mua vào của cơ sở khám chữa bệnh theo đúng các quy định tại Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BYT-BTC của Bộ y tế-Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện đấu thầu cung ứng thuốc tại các cơ sở y tế công lập.
Trong điều kiện hiện nay, giá cả thị trường liên tục biến động. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí của đơn vị. Mà khi chi phí tăng thì nguồn thu được giữ lại giảm sẽ ảnh hưởng đến thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên chức trong đơn vị.
Điều này ảnh hưởng đáng kể đến đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ y bác sỹ của bệnh viện. Mặc dù vậy, bệnh viện vẫn phấn đấu thực hiện tốt các quy định về công tác viện phí và thu viện phí theo đúng tinh thần của Nghị định số 95/CP của Chính phủ ngày 27/8/1994 là chế độ thu một phần viện phí. Các hiện tượng tiêu cực liên quan đến viện phí và các khoản chi phí của bệnh nhân là rất ít xảy ra, đã mang lại một sự tin tưởng khá lớn cho bệnh nhân.
3.1.5.2.4. Đánh giá tình hình phục vụ của đội ngũ y bác sỹ trong quan hệ với chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại Bệnh viện
Từ năm 2016, thực hiện mục tiêu “Chất lượng và sự hài lòng của người bệnh”, đội ngũ y bác sỹ của bệnh viện đã làm việc với lương tâm trách nhiệm cao. Bệnh viện đã phát động nhiều chương trình thi đua thực hiện tốt Chương trình 527/CTr-BYT, vì vậy đã nâng cao được chất lượng khám chữa bệnh cũng như chăm sóc cho bệnh nhân, góp phần mang lại sự hài lòng cho người bệnh.