YẾU NGHĨA THẬP CHÚ

Một phần của tài liệu Nhị Khóa Hiệp Giải (Thời khóa tụng khuya và thời khóa tụng chiều) (Trang 39 - 80)

(Trích ở hàm chữ “Năng” trong đại tạng, kinh đề là thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát quảng đại viên mãn Vô ngại Ðại bi Tâm đà La Ni Kinh).

Bấy giờ Phật đến tạm trụ nơi Ðạo Tràng bửu trang nghiêm trong Thạch thiên cung, bên ao nước trên đảnh núi Bổ Ðà lạc Ca (Potalaka) bờ biển phía nam Aán Ðộ, là chỗ của đức Quán Tự Tại thường tới lui ở đó, nay Phật và các thần thánh tam thừa Bát bộ đều hội họp.

Thuở ấy, đức Quán Thế âm rấ kín nhiệm phóng ra hào quang lớn, chiếu cả mười phương các cõi nước đều rực rỡ, thành màu vàng ròng; rồi chắp tay bạch Phật rằng: “tôi có thần chú...Ðại bi tâm đà la ni, nay tôi muốn nói ra, để cho các chúng sanh đều đặng an lạc, vì nó có hiệu lực : tiêu trừ bịnh hoạn, tuổi sống lâu dài, giàu có, thêm điều lành, dứt hết các tội, được toại tâm với sự mong cầu”, nên được Phật hứa cho thuyết chú.

Bồ tát nhắc tích rằng : “Trước đây từ vô lượng ức kiếp, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tôi mà Ngài thuyết thần chú Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà la ni. Hồi đó tôi mới chứng lên bực Sơ địa bồ tát, tức thời tôi phát đại nguyện như vầy :

Qua đời sau, nếu tôi có thể làm lợi ích cho chúng sanh được, thì hiện giờ đây, khiến trong cho cái thân thể này liền nảy sanh ngàn tay, ngàn mắt (mỗi bàn tay đều có con mắt).

Tôi phát nguyện ấy rồi, quả nhiên đều đủ như lời. Bấy giờ có 6 món vang động, chư Phật đều phóng hào quang đến chiếu trên thân tôi, và chiếu cả vô biên thế giới.

Tôi lại nguyện : Nếu người nào tụng được năm biến chú Ðại bi, thì có thể dứt được trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử trọng tội, đếnlúc mạng chung, được thập phương chư Phật nắm tay dẫn dắt cho vãng sanh tịnh độ.

Nếu người tụng chú này : mà còn đọa tam ác đạo, chẳng sanh về cõi nước của chư Phật, chẳng đặng vô lượng pháp tam muội biện tài, cầu điều chi chẳng được toại ý, như có các điều ấy, thì chẳng xưng là Ðại Bi Tâm đà la ni, Chỉ trừ mấy kẻ: tâm bất thiện, chi bất thành, còn chút lòng nghi, thì chẳng được ứng nghiệm.

Nếu người có các điều thập ác, ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp, phá giới, làm ụ nhục nết na người ta...mặc dầu ngàn đức Phật của kiếp trụù này ra đời hết rồi cũng chẳng cho người ấy sám hối các tội lỗi trên, nhưng một phen hễ tụng chú Ðại bi này, thì bao nhiêu tội kia đều tiêu diệt hết.

Hoặc người gặp những tai nạn ác nghiệt, thành tâm tụng chú Ðại bi đây, liền đặng giải thoát những ác nạn ấy : hoặc có cầu điều gì, cũng đều được kết quả toại lòng. Xin xem kinh kia, sẽ tự biết tụng chú Ðại bi được công đức vô cùng.

Thiên thủ thiên nhãn : Tay thì hay cầm hay dở, nghìn cánh tay, là để tỏ ý nghĩa rằng : cái công hành quá rộng lớn, vì bởi lan khắp ra để duy trì Phật pháp, và phổ cập nưng đỡ chúng sanh. Mắt thì năng xem năng xét; ngàn con mắt, là để tiêu biểu rằng : Bi và Trí đều không ngằn mé, vì bởi mỗi mỗi đều đủ ngũ nhãn, để trọn soi xét cả các căn cơ, đặng đều đủ cứu khổ sanh tử trong thế gian, cho vui Niết bàn ngoài thế gian.

Kinh Lăng Nghiêm, đức Quán Thế Âm nói : bởi tôi ban đầu với điều nghe, quày đặng cái nghe để nghe để nghe lại tự tánh, nghĩa là cái nghe bằng quày nghe đó, là “Thỉ giác”, cái tánh bằng tự tánh đó là “Bổn giác”, Bổn, Thỉ hiệp làm một, thì hai lẽ đều thành mầu nhiệm lẫn nhau, nên nói “diệu diệu văn tánh”. Cái tâm tinh tức tự tánh nó đã giải thoát hết năng văn và sở văn rồi, nên với những điều thấy nghe hiểu biết, chẳng còn phân cách nhau nữa, như giác quan nọ riêng cách với giác quan kia của phàm tục, vì nó đã thống nhứt họp thành làm một cụ thể “viên thông thanh tịnh bửu giác”.

Thành thử tôi mới biến hiện ra được đông nhiều hình dung tốt lạ, và cũng có thể thuyết được vô biên bí mật thần chú.

Giữa những hình dung nói trên, tôi biến hiện ra hoặc 1 thân chỉ 1 đàu, 1 thân 3 đàu, 1 thân 5 đầu , 1 thân 7 đầu, 1 thân 9 đầu, 1 thân 11 đầu, nhẫn đến 1 thân 108 đầu, 1 thân : 1.000 đầu, vạn đầu, 8 vạn 4 nghìn đầu bằng chất kim

cang rất kiên cố. Hoặc hiện ra những cái thân có : hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, mười bốn tay, mười sáu tay, mười tám tay, hai mươi tay, nhẫn đến mỗi thân có : Hai mươi bốn tay, hai mươi tay, nhẫn đến mỗi thân có : Hai mươi bốn tay...một trăm tám tay, ngàn tay, muôn tay, tám muôn bốn ngàn tay bắt ấn. Hoặc mỗi thân có : 2 mắt, 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, nhẫn đến 108 mắt, 1.000 mắt, vạn mắt, 8 vạn 4 nghìn mắt rất báu thanh tịnh. Tóm lại, những đầu, tay và mắt nhiều như thế, là để tỏ ra những cái hình dung : Từ là để cảm hóa; Uy là để chinh phục; Ðịnh là để yên tõm;Hueọ là để giỏc sỏt, cứu hộ chỳng sanh, đều được đại tự tại, vỡ đủ có BiTrí diệu dụng của sáu căn để tiếp ứng giữa trần lao.

(Phụ lời biện giải : Ðầu là chung cả tác dụng của sáu căn; Tay là tỏ lòng

“bi” nưng tiếp; Mắt là để tỏ cái “Trí” xét soi; đều y nơi “Bổn” để sung số trưng bày ra. Nhẫn đến 8 vạn 4 ngàn đầu hay tay và mắt cũng đều y nơi căn bổn sáu tác dụng, và căn bổn trí bi mà để ứng phó với tám vạn bốn ngàn trần lao, cho được diệu dụng của bực đại tự tại. Ðấy là công hạnh thần diệu của các thành đẳng giác ở “Thập nhứt địa”. Vì bực này thuần là đại bi làm bản thể cả pháp giới. Bi cũng viên mãn với trí hoàn toàn thật hiện. Nên suốt khắp thân thể của đức Quán Thế Âm đều hiển hiện cả tay lẫn mắt, chung gọi là Ðại Bi.

Thế với tám vạn bốn ngàn trần lao, cả pháp giới sự và lý gì cũng không hề cách rời ngoài một bản thể “Viên dung tịnh giác”, vì là lẽ năng đồng mà năng dị, tức một mà tức nhiều, thân tức độ, độ tức thân, nên gọi là “đồng thể đại bi”

Thế thường họ chưa hiểu rằng : với tám vạn bốn ngàn đó, là chỉ nêu rõ pháp số vậy thôi, chớ với một cái thân thì làm gì lại thi vi ra nào đầu nào tay và mắt bằng những con số đó ? Họ ngờ thế là chỉ đem cái quan niệm tư duy để xét lường cái cảnh viên thông của Bồ tát.

Thử xét giữa loài người đây, kẻ nọ cũng cái thân đủ sáu căn như ai, mà sao lại vụng về dốt nát, người kia cũng có cái thân có sáu căn như ta, sao lại phát minh ra được nhiều tri xảo tài nghề ?

Ðứa phàm sẵn có cái thân, sáu căn sau thành lục tặc ? Các La Hán cũng vẫn sáu căn đó mà sao lại thành ra lục thần thông với thiên biến vạn hóa ?

Vậy biết còn vô minh mê hoặc, thì cái thân tâm nó thàh ra bátngu tứ thiên phiền não cũng như bát vạn tứ thiên trần lao; trái lại, đã chuyển thức thành trí rồi thân tâm nó thành ra bạt vạn tứ thiên thần thông diệu dụng.

Huống nữa, là cái thân trùm mười cõi hư không, đầu mảy lông hiện ra cõi Phật. Ðó, cõi không, cõi Phật, chẳng những như cái đầu cái tya mà thôi. Kìa tám vạn bốn ngàn cái đầu, cái tay cũng như tám vạn bốn ngàn lỗ trong một cái thân, đấy, cũng đủ lấy làm lạ. Vì cái thân của Ðẳng giác Bồ tát đã rất tịnh rất diệu, chớ không phải như cái thana của bạc địa phàm phu rất uế rất tục.

Vã lại, thánh nhân nói ra tức sự mà tức lý, đã là lời lẽ bất khả tư nghị, chớ chấp lấy cuộc hạn theo cái ý của ta để nghĩ và bàn !

Rất hay thay thần lực của đức Quan Thế Âm như thế, nên với sở thuyết ra tâm chú, đâu cho chúng ta nghĩ bàn được ru !?

---o0o---

THIÊN THỦ THIÊN NHÃN VÔ NGẠI ÐẠI BI TÂM ÐÀ LA NI Nam mô hắt ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thứơc bát ra da.

Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lơ ni ca da. Aùn tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đoa y môn ra rị da bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì.

Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng. Tát bà tát đa na ma bà tát đa. Na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Ðát điệt tha. Aùn a bà lơ hê lô ca đế ca la đế di hê rị ma ha bồ đề tát đỏa.

Tát bà tát bà. Ma ra ma ra ma hê ma hê rị đà dựng cu lô cu lô yết mông độ lô độ lô phạt xà da đê. Ma ha phạt xà da đế đà ra đà ra. Ðịa rị ni. Thật Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lỵ Phật sa phạt sâm. Phật ra xá da.

Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê lỵ. Ta ra ta ra tất rị tất rị tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế lỵ dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na ta bà ah. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ. Thất bàn ra da ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha tất ra tăng a mục khê da ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha.

Giả iết ra a tất đà dạ ta bà ha. Bà đà ma yết tất dà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạta bà ha. Nam mô hắt ra

đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ ta bà ha.

Aùn tất điện đơ mạn đa ra bạt đà dạ ta bà ha.

(cả bài chú đây 84 câu ; về câu thứ 16 có 5 chữ “Na ma bà tát đa” đó là Tổ Văn thê đại sư căn cứ theo kinh Ðại Bi bổn xưa mà đem vô đấy. Hoặc có bổn xưa: ở cuối bài chú thêm vào 4 câu: 1/ Kim cang thắng trang nghiêm ta bà ha. 2/ Ma yết thắng trang nghiêm, ta bà ha 3/Thinh văn thắng trang nghiêm ta bà ha 4/Aùn bạt xà ra thất rị duệ ta bà ha. Và giữa thập chú dưới đây, cĩ thêm vào 2 bài chú. 1/ Aùn xỉ lâm kim tra, kim tra tăng kim tra v.v...2/ nam mô Thích Ca Lăng đế v.v... đều có chữ Hoa, chữ Phạn đi đôi xen lộn với nhau, đều là phi kim khẩu của Phật thuyết hay bồ tát thuyết ra, nên chẳng đem vào đây, vì e là Ma thuyết !)

Thuở đức Quan Thế Âm thuyết thần chú Ðại Bi này vừa rồi, thì tự nhiên trên trời (thiên không) mưa hoa quý xuống, giữa vũ trụ có sáu món vang động, bởi phép lực của thần chú chuyển động, tỷ như: sức mạnh của Hỏa sơn phun lửa, dại bàn bị hãm, trái đất bị thu rút, đều cũng gây nên những tiếng nổ như sức mạnh của dương điện âm điện gây ra lôi chấn.

Chư Phật đều hoan hỷ, chúng trời Ma Vương đồng kinh sợ. Cả hội chúng đều được chứng quả thánh : Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán; Hoặc tiến lên các bực bồ tát : Nhứt Ðịa, Nhị Ðịa....Thập Ðịa cho đến tất cả chúng sanh đều phát bồ đề tâm.

Trong bổn “Ðại Bi Sám hiện tướng” hay xuất tượng cả 84 câu của chú Ðại Bi, với mỗi mỗi câu, tổ xưa đều họa tượng trưng ra mỗi mỗi thần biến : hoặc hình Phật, hình Bồ tát, hình các thánh nhị thừa; hoặc hình của các Trời : Phạm võng Ðế Thích hoặc hình của các thần tướng Kim Cang v.v... đều tỏ ra mỗi bộ dạng hoặc từ bi, hoặc sân si, hoặc thánh dung hoặc phàm tướng, mỗi mỗi uy dung chẳng đồng nhau. Tất cả đều từ nơi thánh trí; lòng đại bi của đức Quán Thế Âm hóa hiện ra bằng cách đại tự tại, để làm ích lợi cho chúng sanh; mà chúng ai cũng ắt được chứng nghiệm chắc thật, nếu chí tam trì tụng !

---o0o---

NHƯ Ý BỬU LUÂN VƯƠNG ÐÀ LA NI

(Trích ở hàm chữ Năng của Ðại Tạng Kinh Trung quốc)

Ðối với nguyên bổn “Như ý tâm Ðà La Ni Kinh” do đức Quán Thế Âm Bồ Tát muốn cho chúng sanh tùy ý cầu chi được nấy, nên Ngài bạch với Phật để cầu chứng, được Phật hứa nhận. Bấy giờ, đối trước Phật, đức bồ tát tự trần rằng “người tụng Minh Chú 3

Cũng như Ðà La Ni đây, thì thần lực của chú, hóa ra những món quý báu tuôn xuống như mưa, vì nó tùy theo ý người nguyện muốn thế. Tỷ như cây Như ý nảy sanh ra các ngọc báu như y4 , để tùy theo sở cầu của chúng sanh ứng với lòng tưởng niệm chi tất được kết quả nấy”.

Cây như ý : là để nêu rõ trí bổn giác; Ngọc báu Như Ý : là để tỏ bày trí thỉ giác : “Ðà La Ni” là pháp cảnh sở tri cũng như bị tụng. Luân :vành tròn bánh xe, có hai nghĩa : 1/ quây lăn 2/ cán nghiền. Nghĩa là người tụng chú nầy, nhờ pháp bí mật nó quây lăn trong tự tâm, trừ diệt những điều mê hoặc về ngã kiến5 , để chứng đặng cái lẽ cảnh và trí vẫn nhứt tâm, tùy theo như ý muốn cầu chi được nấy, để thuyết pháp lợi sanh, dẫn dạy đến vô cùng.

Lại còn lẽ nữa : Trí là thể, nó vẫn trống không; cảnh là thể, cũng vẫn vắng lặng, tức là lẽ “chơn đế” cũng như tâm pháp của xuất thế gian; mỗi chữ đều từ nơi tâmlưu lộ ra, tỳ như ngọc Như ý nó hóa hiện rải tuôn tất cả quý báu, tức là lẽ “tục đế” cũng như tâm pháp của thế gian; với hai lẽ là đạo lý của chơn đế (xuất gia), Tục đế (tại gia) đều mất cái phân biệt, mà vẫn cũng đều soi sáng nơi không cái chấp phân biệt. Với “Phân biệt”, đồng thời vừa lặng vừa soi cũng như chẳng chấp nơi có, chẳng chấp nơi không, trọn lẫn không ngăn ngại, tức là lẽ “trung đế” tâm pháp công bằng, thể tánh tự tại, ba đế tròn mầu. Người trì chú mà tiến đến bực đó, thì tánh báu như ý tức Phật tánh tự nhiên sáng suốt, phước đức trí huệ thần thông pháp bửu chi thảy đều hiển hiện.

Nam mô Phật đà da, nam mô Ðạt ma da, nam mô Tưng dà da Nam mô quán từ tại bồ tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. Ðát điệt tha, án, chước yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha bát đắng mế. Rô rô rô rô, để sắc tra thước ra a yết lỵ, sa dạhồng, phấn tĩa ha. Aùn, bát đạt ma, chấn đa mạc ni, thước ra hồng. Aùn, bát lật đà. Bát đẳng mế hồng.

Bấy giờ, đức bồ tát thuyết thần chú ấy rồi, giữa vũ trụ có sáu môn vang động, cung điện của các trời Ma Vương thảy đều phực lửa, chúng rất kinh sợ

! Những chúng sanh độc ác té ngã ! các loài bị phổ đồng được siêu lên cõi trời.

Giữa thiên không mưa tuôn xuống những hoa báu, và các vật quý xinh đẹp ; các thiên thần tấu trổi nhạc, dưng đủ món cúng.

Ðức Như Lai tán thán cho bồ tát, và giới thiệu với chúng hội rằng với các điều : hoặc cầu phước báo hiện tiền, hoặc phương khấn tai tinh ác ương, hoặc sám hối ngũ nghịch trọng tội, hoặc cầu đảo các bịnh nước lửa gió mưa, nạn vua, trộm cướp, oan hồn, ác mộng, giặc giả, thú dữ, và các tai nạn, chỉ chuyên nhứt tâm thụ trì thần chú trên đây, thì bao tai ương kia đều tiêu diệt hết; đến lúc mạng chung, người trì chú đây liền được thấy Phật A Di Ðà, Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí, đến tiếp dẫn về Tịnh độ.

---o0o---

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ

(Trích ở trong kinh Tiêu tai kiết tường nơi hàm chữ “Chi” trong Kinh ra) Kinh nầy chép rằng : Bấy giờ Phật ở tại cõi trời Tịnh Cư6. Ngài bảo các Vì sao Tu, Sao Diệu....28 tinh tú, 12 cung thần và các vị thiên chúng lưu hành giữa hư không, Phật dẫn tích dạy rằng : Ta nay nhắc nói đức Phật Ta La Vương Như Lai đã thuyết rõ ra một thần chú Xí Thạnh Quảng Ðại Uy Ðức đà la nilà phương pháp để giải tai nạn phàm là tại nơi thủ đô, đến ngoài ranh cõi mà có 5 ngôi sao xâm lăng; Sao La Hầu, sao Nhuế, sao Bột, Sao Yêu, nó chiếu đến chỗ sở thuộc của người là các ngôi sao nơi sao cung bổn mạng; hoặc nó chiếu đến chỗ đế tọa, và các khu vực ngoài đồng nội, sẽ gây nên mọi điều chướng ngại, tai hại chi, cũng đều trừ diệt liền, nếu nhơn chúng mỗi địa phương ấy, đồng tuân y đúng pháp lập chương trình kỳ hạn để niệm một trăm tám biến thần chú nầy.

Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẫm, a bát ra để, hạ đa xá ta nẳn nẫm đát điệt tha : Aùn, khư khư khư hứ, khư hứ hồng hơng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị đệ, ta phạ hạ.

Ðã từ nơi tâm với tai, lại cũng từ nơi tâm diệt tai, nên nói tiêu tai. Bởi chỗ tạo nghiệp từ đời trước, nên nay cảm chịu lấy nghĩa là các điều thống khổ nó tập trung nơi cái thân tâm đây, nên nó là tai. Nghiệp chướng đã thanh tịnh rồi, sự ấy được vui mừng nơi tâm, nên nói là cát tường.

Người mà tu trì pháp thần chú đây, tâm phải đủ ba phép Quán: lấy phép Không quán để tiêu tai : dùng phép Giả Quán để hội sự cát tường mà không

Một phần của tài liệu Nhị Khóa Hiệp Giải (Thời khóa tụng khuya và thời khóa tụng chiều) (Trang 39 - 80)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(321 trang)