+ Ưu điểm: Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng (đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh) thì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung có những ưu điểm nhất định:
- Nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu
trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, nhất là trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên công nghiệp nặng.
- Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã đáp ứng được yêu câu của thời chiến, bởi vì do đất nước bị xâm lược, mục tiêu của cả nước là giải phong dân tộc bởi vậy thực hiện kế hoạch hóa tập trung sẽ huy động được tối đa sức lực của nhân dân xây dựng và phát triển kinh tế để thực hiện mục tiêu đó, đây là nhiệm vụ chung chứ không của riêng ai.
- Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn hoàn, giúp cho người chiến sĩ ra chiến trường cũng yên tâm phục vụ chiến đấu hơn, bởi họ không phải lo nghĩ đến chuyện giai đình, vọ con ở nhà, vì mọi thứ đẫ được nhà nước bao cấp.
+ Nhược điểm:
- Những người chỉ trích cho rằng những người lên kế hoạch cho nền kinh tế không đủ thông tin và không thể nhận biết những nhu cầu tiêu dùng một cách chính xác và do đó không thể phối hợp sản xuất một cách hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống giá cả sẽ làm nhiệm vụ này. Ví dụ khi một mặt hàng khan hiếm, giá của nó sẽ tự động tăng làm cho người tiêu dùng ít mua hơn và nhà sản xuất tập trung sản xuất nhiều hơn. Hệ thống giá cả là
xương sống của nền kinh tế thị trường. Nó gửi tín hiệu đến người tiêu dùng và nhà sản xuất cho biết mặt hàng nào giá trị. Sự thiếu vắng của hệ thống giá cả thị trường sẽ buộc các nhà hoạch định kế hoạch làm nhiệm vụ này Trong lịch sử Liên Xô, có thời kỳ người dân phải xếp hàng dài để chờ mua các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
- Đó là do sự quyết định của chính phủ. Ví dụ trong một thời kỳ nào đó, chính phủ trung ương có thể cho rằng sản xuất máy cày quan trọng hơn sản xuất giầy. Để thực hiện điều này, nhà nước sẽ tập trung nhiều nguồn lực hơn cho công nghiệp nặng và giảm đầu tư cho công nghiệp nhẹ. Điều này sẽ dẫn đến khan hiếm một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
Từ đó dẫn đến sự mất cân đối của nền kinh tế và mất khả năng tự điều tiết của thị trường.
- Nền kinh tế kế hoạch tập trung còn là nền tảng cho một chế độ độc tài khi mà hoạt động của cả một nền kinh tế được quyết định bởi một số ít người. Điều này có vẻ đúng đắn khi mà hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa là những nước độc tài kiểu cộng sản đều tập trung hóa cao độ nền kinh tế. Nhưng không phải nước độc tài nào cũng tập trung hóa nền kinh tế.
Các nước Chile dưới thời Pinochet, Hàn Quốc dưới thời Park Chung Hee là những nước độc tài nhưng họ áp dụng kinh tế thị trường.
- Một nhược điểm của kinh tế kế hoạch hóa tập trung là nó không khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới công nghệ nhiều như kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, nhà phát minh có thể mang lại nguồn lợi rất lớn từ những phát minh, sáng kiến đổi mới công nghệ, do đó tạo động lực cho nghiên cứu, phát minh. Điều này khó thành hiện thực trong nền kinh tế tập trung khi mà nhà sản xuất không có nhiều quyết định đối với sản phẩm mình làm ra. Nhà sản xuất không có nhiều động lực để cải tiến, đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Một điều dễ thấy là tính cạnh tranh đã bị triệt tiêu trong nền kinh tế bao cấp. Cạnh tranh chính là động lực lớn nhất để xã hội phát triển.
- Những người chỉ trích còn cho rằng tập trung hóa nền kinh tế sẽ dẫn tới việc can thiệp vào đời sống của người dân. Ví dụ nếu nhà nước quản lý sản xuất, sự lựa chọn về nghề nghiệp sẽ bị hạn chế. Thực tế ở Liên Xô, nguồn lực con người được tập trung vào quốc phòng và các sinh viên giỏi thường tập trung học các môn khoa học: toán, tin, vật lý…. Vì lý do đó, nền công nghiệp nặng rất phát triển nhưng các ngành dịch vụ, phục vụ dân sinh thì kém xa
các nước phát triển. Sinh viên ra trường sẽ được phân công nơi làm việc thay vì tự do lựa chọn theo nhu cầu của thị trường và bản thân.
B. Hệ thống kinh tế hỗn hợp 1. Khái niệm
Là một hệ thống kinh tế trong đó: đất đai, nhà xưởng và những nguồn lực kinh tế khác được phân chia ngang bằng hơn giữa quyền sở hữu chính phủ và tư nhân. Các nền kinh tế hỗn hợp được tập trung bởi các kết hợp khác nhau, giữa thị trường và quản lý kế hoạch hóa tập trung, giữa sở hữu tư nhân hay công cộng các nguồn lực của quốc gia.
2. Đặc điểm
Chính phủ sở hữu các nguồn lực ít hơn trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Có xu hướng kiểm soát những lĩnh vực kinh tế được coi là quan trọng đối với sự phát triển bền vững và an ninh quốc gia.
Vai trò của chính phủ đối với nền kinh tế:
- Cung cấp một nền tảng pháp lý.
- Duy trì năng lực cạnh tranh.
- Phân phối thu nhập.
- Điều chỉnh phân bổ các nguồn lực xã hội.
- Ổn định nền kinh tế
Trong nền kinh tế hỗn hợp, cơ chế thị trường xác định giá cả, sản lượng bao nhiêu, còn chính phủ điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chi tiêu ngân sách và bằng thuế.
3. Ưu điểm của nền kinh tế hỗn hợp
- Tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
- Ít nghèo đói.
- Giảm sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, sự bất bình đẳng lớn - Tăng trưởng kinh tế vững chắc.
- Giảm ô nhiễm không khí và nguồn nớc mà xã hội phải gánh chịu.
- Phân phối công bằng thông qua công cụ và chính sách hiệu quả nhất.
- Phát huy mọi tiềm năng sẵn có của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế, - Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
- Hạn chế độc quyền và những thăng trầm của sự khủng hoảng kinh tế.
-
C. Hệ thống kinh tế thị trường 1,Khái niệm
- Là nền kinh tế mà phần lớn các nguồn lực của quốc gia như đất đai, nhà xưởng thuộc sở hữu tư nhân (các cá nhân hay doanh nghiệp)
- Các quyết định của nền kinh tế (sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào?) và giá cả được quyết định bởi hai thế lực cung – cầu
- Cung: là lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người sản xuất sẵn sàng cung cấp tại một mức giá nhất định
- Cầu: là lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người mua sẵn sàng mua tại một mức giá nhất định
- Cung và cầu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi về giá của hàng hóa dịch vụ. Ngược lại, cung và cầu được điều tiết bởi cơ chế định giá.
2.Đặc điểm
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có 3 điều kiện: tự do lựa chọn, tự do kinh doanh, giá cả linh hoạt
- Tự do lựa chọn: cho phép cá nhân tiếp cận với các lựa chọn mua tùy ý, chính phủ rất ít hạn chế và áp đặt lên khả năng tự quyết định mua của người tiêu dùng và họ được tự do chọn lựa
- Tự do kinh doanh: cho phép các doanh nghiệp tự quyết định sẽ sản xuất loại hàng hóa dịch vụ nào, tham gia vào thị trường nào; tự do gia nhập vào các ngành nghề kinh doanh khác nhau, lựa chọn đoạn thị trường và khách hàng mục tiêu
- Giá cả linh hoạt: sự thay đổi giá cả phản ánh sự thay đổi trong tương quan giữa cung – cầu. hàng hóa dịch vụ không được áp đặt một mức giá nhất định
3, Ưu điểm và nhược điểm + Ưu điểm:
• Tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
• Tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội, tạo sự dư thừa hàng hoá để cho phép thoả mãn nhu cầu ở mức tối đa
• Tạo cơ hội cho sáng tạo, tìm cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm
• Tạo cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lí kinh doanh hiệu quả, năng động đào thải các nhà quản lí kém hiệu quả
+ Nhược điểm:
• Chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán thay vì những nhu cầu cơ bản của xã hội
• Đặt lợi nhuận lên hàng đầu → không giải quyết được cái gọi là “hàng hoá công cộng”
Phân hóa giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội gia tăng.
Câu 18: Nội dung và ưu nhược điểm của các chỉ tiêu thu nhập và chỉ số HDI trong việc phản ánh trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia.
Chỉ tiêu thu nhâp của 1 quốc gia:
. GDP tổng số
Định nghĩa: GDP tổng số đo lường tổng giá trị bằng tiền của tất cả các hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường tính là 1 năm)
Ý nghĩa:
Là thước đo tốt để đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia.
Ngân hàng thế giới (WB) hay quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) cũng như các nhà kinh tế thường sử dụng hai chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuất giữa các nước với nhau.
Để thực hiện được điều đó các nhà kinh tế phải tính chuyển số liệu GDP(GNP) của các nước tính theo đồng nội tệ về một đồng tiền chung (USD hoặc EURO).
Là cơ sở cho việc lập các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn và kế hoạch tiền tệ, ngân sách ngắn hạn.
GDP(GNP) thường được sử dụng để phân tích những biến động về sản lượng của một đất nước qua thời gian. Đồng thời, hai chỉ tiêu này cũng giúp cho các cơ quan hoạch định chính sách đưa ra những phân tích về tiêu dùng, đầu tư, tỷ giá hối đoái…
dựa trên các mô hình hoạch toán kinh tế. Chính vì vậy mà đòi hỏi công tác thống kê phải thật chính xác, khoa học.
1.2 GDP bình quân đầu người:
Là tỉ lệ giữa GDP tổng số với tổng dân số của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
GDP tổng số GDP bình quân đầu người =
Dân số
Dùng để đánh giá và phân tích sự thay đổi mức sống dân cư thông qua GNP bình quân đầu người hay GDP bình quân đầu người.
Ý nghĩa:
-GDP bình quân đầu người cho biết mức sống của một nước phụ thuộc vào số lượng hàng hóa và dịch vụ mà họ sản xuất ra và quy mô dân số của nước đó
-GDP bình quân đầu người là một thước đo tốt hơn về số lượng hàng hóa dịch vụ sản xuất ra tính bình quân cho một người dân.
MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA CHỈ TIÊU GDP
• Phương pháp tính GDP (GNP) bỏ sót nhiều sản phẩm và dịch vụ mà người dân làm hoặc giúp đỡ nhau làm (vì những sản phẩm này không được đưa ra thị trường và không được báo cáo)
• Nhiều hoạt động kinh tế phi pháp hoặc hợp pháp cũng không được đưa vào nhằm trốn thuế, cũng không được tính vào GDP.
• Những thiệt hại về môi trường (ô nhiễm nước, không khi, tắc nghẽn giao thông…) cũng không được điều chỉnh khi tính GDP
• GDP phản ánh những hàng hoá dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế nhưng hàng hoá cao cấp nhất của con người là thời gian, sự nghỉ ngơi,…. thì không thể ghi chép và tính vào GDP
Chỉ số phát triển con người (HDI):
Chỉ số phát triển con người là một số đo tóm lược sự phát triển của con người. Nó đo thành tựu trung bình ở một nước theo 3 độ đo cơ bản của phát triển con người:
- Một cuộc đời khoẻ mạnh và lâu dài, đo bằng tuổi thọ.Kiến thức, đo bằng tỉ lệ biết chữ ở người lớn (trọng số 2/3) và tỉ số kết hợp tổng lượng học sinh đi học tiểu học, trung học và đại học (trọng số 1/3).
Mức sống hợp lý, đo bằng GDP/đầu người theo Cân bằng sức mua PPP tính theo USD
Nhược điểm: phụ thuộc khá chặt chẽ vào GDP và vào độ chính xác của các số liệu do cơ quan thống kê quốc gia cung cấp.
Câu 19: Chu kỳ kinh tế: đặc trưng của các pha trong chu kỳ kinh tế và tác động đến doanh nghiệp.
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế. Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế:
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báochính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh tế của nhà nước gặp khó khăn. Việc làmvà lạm phát cũng thường biến động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được nhà nước đặt ra.
Câu 19: Chu kì kinh tế: đặc trưng các pha trong chu kì kinh tế và tác động tới doanh nghiệp.
Chu kì kinh tế (hay chu kì kinh doanh) được hiểu theo một nghĩa chung nhất là là sự biến động của các hoạt động kinh tế ngắn hạn trong một thời kỳ nhất định, trong đó các giai đoạn tăng trưởng và các giai đoạn suy giảm luân chuyển lẫn nhau không ngừng.
Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948), Kinh tế học, bản dịch tiếng Việt, nhà xuất bản Tài Chính, tái bản lần 1 (2007): Chu kỳ kinh doanh là một sự dao động của tổng sản lượng quốc dân, của thu nhập và việc làm, thường kéo dài trong một giai đoạn từ 2 đến 10 năm, được đánh dấu bằng một sự mở rộng hay thu hẹp trên quy mô lớn trong hầu hết các khu vực của nền kinh tế.
Tóm lại chu kỳ kinh tế là quá trình biến động của nền kinh tế qua các giai đoạn có tính lặp.
Quá trình biến động này diễn ra theo trình tự bốn giai đoạn lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi, và hưng thịnh. Trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế
tiêu điều, thất nghiệp lan tràn, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v... không xảy ra nữa. Khủng hoảng do đó được dùng để chỉ giai đoạn suy thoái nặng nề của nền kinh tế.
Suy thoái: là giai đoạn trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì gọi là suy thoái.
Phục hồi: là giai đoạn trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước khi suy thoái.
Hưng thịnh: khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái. Kết thúc giai đoạn hưng thịnh lại bắt đầu gia đoạn suy thoái mới.
Trong thực tế, các nhà kinh tế thường tìm hiểu để nhận biết các đặc điểm của suy thoái kinh tế:
Tiêu dùng giảm.
Hàng tồn kho ngoài dự kiến tăng.
Lạm phát tăng chậm, giá các mặt hàng giảm.
Thất nghiệp tăng.
Lợi nhuận kinh doanh giảm, thị trường chứng khoán giảm.
Thị trường tín dụng: cầu về vốn giảm, lãi suất giảm.
Giai đoạn tăng trưởng có hình ảnh ngược lại của giai đoạn suy giảm, cho nên những đặc trưng cho suy giảm xảy ra theo chiều ngược lại ở giai đoạn tăng trưởng.