2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
2.2.1. Tình hình ngiên cứu trên thế giới
Sau khi hiện tượng HHĐH trong dung dịch nước được phát minh và các thiết bị công nghệ HHĐH được thử nghiệm thành công, nhiều các nhà khoa học Nga khác đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của công nghệ HHĐH như C. A. Aliôkhin (1979-1980 tổ chức sản xuất dây chuyền các thiết bị hoạt hóa điện hóa nước UEV- 4 và các dung dịch cho giàn khoan UOBR-1, 1988 - tổ chức sản xuất dây chuyền các loại thiết bị khác trên cơ sở thiết bị UEV-1 và các thiết bị điều chế các dung dịch HHĐH cho điều trị bệnh); N. A.
Mariampolsky (1979 - 1984 xây dựng và đưa vào áp dụng công nghiệp các quy tắc điều chỉnh điện hóa các tham số của dung dịch khoan trên các thiết bị UEB-4 và UOBR-1); A. Kh. Kasymov và V. V. Vakhidov (1978-1985 nghiên cứu khả năng ứng dụng HHĐH trong y học); A. G. Liakumovich và P. A.
Kirpichnikov (1980-1990 tổ chức và tiến hành các nghiên cứu khả năng ứng dụng HHĐH trong công nghệ hóa học và trong nông nghiệp); K. A. Lunhianz, N. G. Zikoridze và A. A. Kochetkova (1980 – tổ chức và triển khai các nghiên cứu về khả năng ứng dụng HHĐH trong công nghệ thực phẩm); V. I.
Filonenko và V. V. Fisinin (1980 - 1995 tổ chức và triển khai các nghiên cứu về khả năng ứng dụng HHĐH trong chăn nuôi gia cầm); Yu. V. Latyshev và I.
L. Gherlovin (1980-1987 tổ chức và tiến hành các nghiên cứu về khả năng ứng dụng HHĐH trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng) v.v... Năm 1985 HHĐH đã được Uỷ ban tối cao về cấp văn bằng (VAK) của Liên Xô chính thức đưa vào nhóm các hiện tượng hóa-lý mới (Baxир В.М và cs, 2001)[12].
Nhờ vào những kết quả nghiên cứu thu được trong giai đoạn 1987-1990 dưới sự chỉ đạo của V. M. Bakhir, Yu. G. Zadorozhny và B. I. Leonov tại Tổ hợp khoa học sản xuất “EKRAN” thuộc Viện Nghiên cứu Thử nghiệm Kỹ
thuật Y học toàn Nga - nơi mà từ năm 1991 đã bắt đầu sản xuất theo dây chuyền các thiết bị HHĐH kiểu STEL có khả năng điều chế các dung dịch khử trùng, tiệt trùng và tẩy rửa với hiệu quả cao - công nghệ hoạt hóa điện hóa đã được Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga chính thức công nhận là một hướng khoa học-kỹ thuật mới. Cho tới nay các thế hệ buồng phản ứng điện hóa đã được hoàn thiện, đáp ứng việc chế tạo nhiều loại thiết bị HHĐH sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau
Trong giai đoạn 1991-1998 phân xưởng sản xuất thử nghiệm N019 của tổ hợp KH-SX “EKRAN” đã sản xuất ra hơn 20 000 thiết bị STEL có công suất từ 40 đến 1000 lít/giờ. Cho đến năm 1999 đã có trên 6000 cơ sở y tế tại Nga, Kazacstan, Uzbekistan, Belorusia, Ukraina được trang bị máy STEL.
Các thiết bị này không chỉ hoạt động tại các cơ sở y tế mà còn hiện diện trong các xí nghiệp chế biến thực phẩm (khử trùng thiết bị, dụng cụ, đồ chứa, nguyên liệu, sản phẩm chế biến), trong công nghiệp dầu khí, trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, thú y, trong xí nghiệp nuôi ong và chế biến thủy sản, trong các cơ sở công cộng (nhà tắm, xưởng giặt, hiệu cắt tóc, nhà trẻ, nhà nghỉ, nhà an dưỡng ...). Vào thời điểm đó với số thiết bị này mỗi ngày đã sản xuất được trên 6000 tấn dung dịch HHĐH (Шомовская Н.Ю, 2010) [11].
Các nghiên cứu về HHĐH đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía Chính phủ LB Nga, trong đó Thủ tướng đã chỉ thị các bộ, ngành và địa phương đưa HHĐH vào các chương trình xây dựng các kế hoạch liên quan đến vấn đề môi trường sinh thái và bảo vệ sức khỏe con người. Bộ Y tế LB Nga được giao nhiệm vụ kiểm định chất lượng của nước và các dung dịch nước được HHĐH trên các thiết bị STEL và EMERALD phục vụ cho các nhu cầu sử dụng trong các bệnh viện.
Theo số liệu về sử dụng các chất khử trùng khác nhau tại bệnh viện lâm
sàng thành phố N015 của Moskva từ năm 1992 đến 1997 các dung dịch HHĐH anolyte ngày càng thay thế dần các chất khử trùng khác. Số lượng anolyte và tỷ lệ sử dụng nó so với các chất khử trùng khác (cloramin, clorua vôi, Chlorsept, Precept, Glutaraldehyde, Perhydrol, Gigacept, Sidex, Lisotol, Perform...) trong giai đoạn đó đã tăng lên rất nhanh: 1992 – 2300 lít - 30%;
1993 – 26500 lít - 85,4%; 1994 – 97000 lít - 92,2%; 1995 – 110000 lít - 95,1%; 1997 – 529204 lít - 99,2% tổng khối lượng các chất khử trùng sử tại bệnh viện N015.
Trong nhiều trường hợp áp dụng công nghệ HHĐH đã mang lại hiệu quả kinh tế cao bất ngờ. Thí dụ, trong quy trình nhiệt phân dầu hỏa có công suất 400 nghìn tấn etylen/năm bằng cách sử dụng hơi ngưng tụ được HHĐH đã đưa lại hiệu quả kinh tế 12 triệu đôla mỗi năm do hiệu suất thu hồi etylen và propylen được nâng cao; hoặc dùng nước HHĐH thay cho nước thường để pha vào dầu mỏ trước khi xử lý trên thiết bị ELOU đã giảm được 70 - 75%
lượng lưu huỳnh và 80-90% lượng muối có trong dầu.
Việc chế tạo thiết bị công suất lớn bằng môđun sử dụng nhiều buồng điện hóa FEM 3 bộc lộ nhiều nhược điểm, trong đó có mức độ tin cậy khi vận hành không cao. Chính vì vậy, gần đây Tổ hợp KH-SX “EKRAN” đã nghiên cứu chế tạo các thiết bị sử dụng các buồng điện hóa có kích thước và công suất lớn hơn: FEM 9, MB 26... (В.М. Бахир. 2010) [13]. Trên hình 2.3 là thiết bị điều chế dung dịch điện hoạt hóa có công suất 100g clo hoạt tính/h.
Hình 2.3. Thiết bị STEL-PRO điều chế 100g clo hoạt tính/h