CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NGUỒN TÀI NGUYÊN ĐẤT
2.2. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN ĐẤT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở ĐBSCL
2.2.1. Hiện trạng sử dụng đất phù sa trong nông nghiệp
Đất phù sa chiếm 3/5 diện tích đất tự nhiên của vùng chia làm hai loại là: phù sa ngọt và phù sa nhiễm mặn. Nằm dọc hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu.
2.2.1.1. Đất phù sa ngọt
Còn được gọi là đất phù sa trẻ, có nguồn nước ngọt quanh năm, với diện tích khoảng 90 vạn ha. Loại đất này tập trung ở các tỉnh ven hai bên bờ sông như Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Cần Thơ, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng. Đây là vùng đất tốt có thể trồng từ 2- 3 vụ lúa/ năm hoặc kết hợp trồng hoa màu, cây công nghiệp.
Đất phù sa ngọt được chia thành:
a. Đất phù sa ngọt ven sông
Đây là loại đất non trẻ nhất được bồi đắp thường xuyên hàng năm do nằm ven hai bờ sông Tiền và sông Hậu, lũ từ thượng nguồn chảy về mang theo nguồn phù sa màu mỡ.
Đất phù sa ven sông trải dài ở các huyện: Phú Châu, Phú Tân, Châu phú ( An Giang); Hồng Ngự, Tam Nông ( Đồng Tháp); Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang…do hai con sông Tiền và sông Hậu chuyển tải nguồn phù sa từ thượng nguồn bồi đắp thêm sự màu mỡ cho vùng ĐBSCL. Do đặc tính là phù sa màu mỡ nên loại đất này người dân dùng chủ yếu trong việc canh tác trồng lúa từ 2 đến 3 vụ/ năm với cácvụ đông xuân, hè thu, lúa mùa.
Với diện tích lúa ngày càng mở rộng qua các năm ở các địa phương đãđưa năng suất cây trồng của vùng cũng tăng ở mỗi đơn vị hành chính. Ví dụ như sản lượng lúa
1.182.197 tấn/năm (2002) lên 1.194.746 tấn/năm (2004) [11], bên cạnh đó các tỉnh như Hậu Giang, Đồng Tháp, An Giang là những khu vực có diện tích sản xuất lúa lớn nhất vùng, năng suất cũng có sự tăng trưởng một cách đáng kể cả lúa đông xuân, hè thu,. .
Ngoài ra, vùng đất này cũng là vùng đất rất thích hợp cho việc canh tác trồng các loại cây ăn trái như cam, quít, xoài, chôm chôm; cây hoa màu như ngô, khoai, rau, đậu…Diện tích cây ăn quả của toàn vùng ĐBSCL có sự thay đổi theo xu hướng tăng từ 182.965 ha (2000) lên 220.152 ha (2004). Khi diện tích trồng lúa được chú trọng phát triển thì diện tích các loại cây khác có xu hướng giảm như cây chất bột có củ khoai lang, khoai mì giảm trong toàn vùng từ 22.616 ha (2000) xuống còn 19.729 ha (2004).
Chúng ta dễ dàng thấy được những diện tích ruộng lúa mênh môngở các tỉnh ven hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu như Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long,.. với những cánh đồng lúa bạt ngàn hay những vườn cây ăn quả như Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,…đã trở thành những thương hiệu nổi tiếng trong vùng, quốc gia và xuất khẩu ra thị trường thế giới như bưởi Năm Roi, sầu riêng, cam sành,…
Đây là loại đất tốt nhất trong tài nguyên đất ở ĐBSCL, nhờ sự kết hợp giữa phù sa màu mỡ của đất và kinh nghiệm canh tác lâu năm của người dân vùng châu thổ, ĐBSCL đã đạt được những thắng lợi to lớn trong năng suất cây trồng trên vùng đất này thể hiện qua năng suất cây lúa, cây ăn quả,…Và từ thực tế này đã đặt ra cho ĐBSCL một câu hỏi là làm thế nào để những kết quả to lớn đó trong nông nghiệp của vùng ngày càng được mở rộng nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực quốc gia, đảm bảo chỉ tiêu xuất khẩu ra thị trường thế giới góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hôi ngày càng phát triển.
b. Đất phù sa loang lổ đỏ vàng
Loại đất này nằm xa sông và ở trên những vùng tương đối cao, mùa khô mực nước ngầm xuống sâu, các chất như Fe, Al, bị rửa trôi xuống tầng dưới. Tại đây chúng bị oxy hóa tạo ra những đốm rỉ màu đỏ, màu nâu xen kẽ nhau trên nền sắt màu xẫm, tạo ra cho đất này nét đặc trưng loang lổ màu đỏ và vàng.
Đất này tập trung ở Tiền Giang, và một số vùng khác như Long An, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang…Nhìn chung đất này nghèo chất dinh dưỡng, được sử dụng trong việc canh tác lúa nước và cây hoa màu nhưng năng suất không cao.
c.Đất phù sa Glây
Đất này tập trung chủ yếu ở địa hình thấp do đọng nước nhiều trong thời gian dài, đất bị yếm khí tạo thành tầng tích tụ Glây có màu xám xanh. Đất phù sa Glây có
nguồn gốc từ đất bãi bồi, đất phù sa biển do biến động của thời gian rửa trôi các chất mặn. Đất này chiếm diện tích rộng nhất trong tổng diện tích đất phù sa, phân bố rải rác ở các tỉnh Hậu Giang, Vĩnh Long, An Giang, Long An, Tiền Giang và một số vùng khác như Kiên Giang, Đồng Tháp, Bến Tre…Đất này có lớp mặt tốt rất thích hợp cho việc trồng cây lúa nước cho năng suất cao.
Đất này được dùng để canh tác lúa nước, nhiều nơi địa hình thấp không có khả năng ngăn chặn nước mặn xâm nhập thì dùng trồng rừng ngập mặn là chủ yếu và nuôi trồng thủy hải sản như tôm, cua, sò…
Tóm lại: đất phù sa là nguồn tài nguyên đất quan trọng nhất trong tổng diện tích đất của ĐBSCL do đây là cơ sở vững chắc cho việc phát triển trồng cây lương thực đặc biệt là cây lúa đạt năng suất cao đảm bảo nhu cầu lương thực của vùng và nhu cầu xuất khẩu của nước ta. Điều đó được thể hiện qua việc diện tích trồng cây lúa và diện tích lúa mùa ở các tỉnh của vùng không ngừng mở rộng và tăng lên qua các năm từ 2000– 2004.
Bảng 2.3: Diện tích cây lúa cả năm phân theo các tỉnh.
Đơn vị: ha
Năm 2000 2001 2002 2003 2004
Tổng số 3.947.476 3.789.972 3.834.293 3.786.321 3.812.795
Cần Thơ 209.486 222.103 228.499 226.213 229.971
Hậu Giang 203.882 219.069 228.100 227.189 226.486
Long An 453.033 440.832 433.404 424.096 433.363
Tiền Giang 282.419 276.119 265.065 260.766 259.399
Bến Tre 101.617 100.817 99.496 95.538 90.511
Đồng Tháp 408.368 408.294 426.409 436.482 453.052
Vĩnh Long 208.671 216.328 209.755 206.969 208.041
Trà Vinh 238.525 238.411 235.224 235.164 234.551
An Giang 464.533 459.051 477.180 503.856 523.037
Kiên Giang 540.923 550.636 575.922 563.048 570.308
Sóc Trăng 370.385 384.764 354.865 349.552 315.205
Bạc Liêu 217.393 177.978 169.811 150.439 137.212
Cà Mau 248.241 131.570 130.563 107.009 131.659
Nguồn: Số liệu kinh tế- xã hội ĐBSCL 2000– 2004.
Diện tích trồng lúa toàn vùng có xu hướng giảm nhưng ở các tỉnh lại có sự chênh
Ví dụ như Cà Mau, Bạc Liêu là hai tỉnh có diện tích đất canh tác trồng lúa giảm rõ nhất.
Bảng 2.4: Sản lượng lúa cả năm phân theo các tỉnh.
Đơn vị:tấn
Năm 2000 2001 2002 2003 2004
Tổng số 16.913.638 16.001.112 17.744.525 17.513.435 18.569.344 Cần Thơ 997.111 1.034.817 1.182.197 1.155.575 1.194.746
Hậu Giang 885.758 919.573 1.034.022 986.825 1.076.670
Long An 1.573.212 1.626.227 1.738.649 1.772.770 1.902.789 Tiền Giang 1.301.067 1.287.594 1.285.349 1.268.002 1.315.267
Bến Tre 357.263 379.637 392.075 380.948 368.173
Đồng Tháp 1.878.426 1.963.535 2.178.642 2.214.893 2.420.822
Vĩnh Long 941.006 911.207 963.328 936.413 963.673
Trà Vinh 984.349 906.607 1.040.897 1.033.236 1.035.921 An Giang 2.349.977 2.113.362 2.593.690 2.686.215 3.006.900 Kiên Giang 2.284.288 2.187.948 2.578.398 2.489.629 2.739.837 Sóc Trăng 1.617.977 1.525.771 1.642.833 1.610.254 1.526.035
Bạc Liêu 893.405 726.932 693.992 625.840 614.382
Cà Mau 850.399 418.452 420.452 352.835 404.129
Nguồn: Số liệu kinh tế- xã hôiĐBSCL 2000 - 2004 Tuy diện tích có xu hướng giảm nhưng sản lượng lại có sự tăng rõ rệt từ 16.913.638 tấn năm 2000 lên 18.569.344 tấn năm 2004, như vậy chỉ trong 4 năm diện tích canh tác toàn vùng giảm 134.681 ha nhưng sản lượng lại tăng lên 1.655.706 tấn.
Điều này đặt ra cho ĐBSCL một vấn đề cần giải quyết là phải lầm như thế nào để diện tích đất phù sa ngọt sử dụng canh tác sản xuất nông nghiệp ngày càng mở rộng để đáp ứng được nhu cầu sản lượng của vùng.
2.2.1.2. Đất phù sa nhiễm mặn
Đây là loại đất có nguồn gốc từ phù sa sông đựơc biển vận chuyển một thời gian trước khi đưa vào bờ. Đất chứa nhiều muối hòa tan như: NaCl, Na2SO4…Đất này tập trung ở dọc ven biển chạy dài từ Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu,…đất ít phèn, chua nhờ nằm gần biển nên dễ tiêu nước và cải tạo để tăng vụ trồng các cây như lúa, dừa, đay,…
Tùy theo sự phân bố địa hình gần hay xa biển chịu ảnh hưởng của thủy triều thường xuyên hay tạm thời ta có các loại đất khác nhau như:
a. Đất lầy ngập mặn thường xuyên.
Đây là loại đất phù sa trẻ, mới được bồi đắp ven bờ biển. Đất luôn luôn ở trạng thái nhão và ngập mặn. Trên đất này, hiện nay rừng ngập mặn phát triển mạnh với các
loại cây rừng như: mắm, đước, vẹt, bần,… Những thực vật này phát triển nhiều năm rễ ăn sâu vào đất, cành lá rụng xuống tạo nên chất hữu cơ trong đất. Đồng thời sinh vật rừng rất phong phú, đặc biệt là tôm, cá,…
b. Đất phù sa nhiễm mặn thường xuyên.
Đất này được hình thành từ đất lầy ngập mặn thường xuyên, khi phù sa ngày một bồi đắp cao hơn xác thực vật phân hủy, đất thoát nước cao dần và quá trình rửa trôi xảy ra mạnh mẽ, loại đất này chịu ảnh hưởng của nước triều mặn theo thời gian trong ngày và theo mùa. Đất này trồng được cây lúa nước một vụ vào mùa mưa hoặc với những giống lúa chịu mặn và chịu hạn cao như các giống lúa thuộc dòng MO 6677, MO 6976, MO 5629,… những nơi địa hình thấp không có khả năng ngăn chặn nước mặn xâm nhập thì trồng rừng và nuôi trồng thủy hải sản như: tôm, cá, cua, sò…
c. Đất phù sa nhiễm mặn tạm thời
Đất này nằm ở vị trí xa biển và các sông nước mặn. Mùa khô nước mặn theo thủy triều đi sâu vào đất liền làm cho đất nhiễm mặn tạm thời. Mùa mưa được nước mưa rửa mặn nênđộ mặn giảm. Vì vậy chúng trở thành loại đất tốt, và phân bố ở các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cà Mau,Bạc Liêu,…Phần lớn là canh tác lúa một hoặc hai vụ dựa vào thiên nhiên và khoa học kỹ thuật hiện đại.
Toàn vùng đất phù sa mới là vùng phì nhiêu nhất của đồng bằng, có khả năng thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và đây là địa bàn trọng điểm thâm canh tăng vụ lúa. Trong cơ cấu cây trồng đây cũng là vùng gắn chặt cây lúa với cây đậu nành. Ngoài ra, vùng đất phù sa nhiễm mặn cũng là vùng thâm canh lúa mùa một vụ, tương lai phát triển theo hướng kết hợp giữa lúa và đặc sản xuất khẩu của từng địa phương như: dừa, cói, tôm, cá,…Như vậy, đất phù sa có vai trò rất quan trọng trong việc đóng góp vào sản lượng nông nghiệp của toàn đồng bằng hàng năm.